Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội

18 Tháng Ba 201400:00(Xem: 13901)
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội

KINH NGUYỆT ÐĂNG TAM MUỘI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Nguyên tác: 10 quyển [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

Hán dịch: Cao Tề, Thiên Trúc Tam tạng Na Liên Ðề Da Xá

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


QUYỂN 1/10

Tôi nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở tại núi Kỳ xà quật, thành Vương xá, cùng với đại chúng Tỳ kheo là năm ngàn người và tám mươi na do tha Bồ tát, đều là những vị Nhất sanh bổ xứ, trong đó Bồ tát ma ha tát A Thị (Dật) Ða là đứng đầu. Vua Tứ thiên, vua Thích thiên, vua Ðại Phạm thiên, là chủ của thế giới Ta bà cùng với chư thiên tăng thượng phước đức, A tu la tăng thượng oai thế, Long vương, Dạ xoa, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và phi nhân... trước sau vây quanh chiêm ngưỡng đức Như Lai.

Khi ấy trong chúng Bồ tát có một vị Bồ tát tên là Ðồng tử Nguyệt quang, quá khứ đã từng cúng dường chư Phật, trồng các căn lành , tự biết được kiếp trước, tin thích Ðại thừa, an trụ Ðại thừa tương ưng với lòng đại bi, từ tòa đứng dậy trạch áo vai mặt, quỳ gối mặt xuống đất, bạch đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nay con có điều muốn hỏi, cúi mong ngài cho phép, để con trừ bỏ nghi kết trong lòng.

Ðức Phật bảo:

–Này đồng tử! Tùy ý ngươi muốn hỏi bất cứ điều gì ta sẽ giải thích cho để ngươi được hoan hỷ. Ta là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết tri kiến, đối vơi tất cả pháp có sức lực, không sợ hãi, được tự tại, cùng tương ưng với tri kiến giải thoát, không chướng ngại.

Này đồng tử! Như Lai không có điều gì mà không biết, không có điều gì mà không thấy, không có điều gì mà không chứng, luôn luôn lựa chọn, biết được vô lượng vô biên thế giới.

Này đồng tử! Chư Phật Thế Tôn đối với tất cả các câu hỏi đều có thể tùy thuận giải đáp, đều khiến mọi người được hoan hỷ.

Bấy giờ đồng tử dùng kệ để hỏi rằng:

Các đức Phật làm những hạnh gì?

Vì hay thương đời làm ánh sáng

Hay được trí bất khả tư nghị

Cúi mong cứu độ giải thích cho.

Hạnh gì nói được pháp cao này?

Ngưu vương giữa người trời cung kính

Trí tối thượng không thể đo lường

Mong ngài vì con khéo phân biệt

Vì con thâm tín nên thưa hỏi

Chân thật không có tâm quanh co

Không ai có thể chứng biết con

Chỉ có Nhân tôn mới thấy rõ

Con có tâm thắng lạc rộng lớn

Sư tử họ Thích biết hạnh con

Tâm con không vì ngôn ngữ vậy

Mong ngài vì con nói về đạo

Pháp gì hay đưa chư Phật đến

Mà được tăng trưởng trí vô biên

Ðể đạt đến được tất cả pháp

Mong ngài vì con khéo tuyên no í?

Mong nói pháp hạnh con trưởng dưỡng

Khiến được thành tựu trí minh lợi

Quyết lòng trì giới không hủy phạm

Xa lìa tất cả các sợ hãi

Làm sao với giới mà không bỏ?

Làm sao với huệ mà không giảm?

Làm sao an trụ A lan nhã?

Làm sao để được tăng trí huệ?

Làm sao hay vào thắng diệu pháp?

Thích giữ cấm giới không hối hận?

Làm sao với giới không khuyết tổn?

Làm sao để được ba nghiệp tịnh?

Làm sao biết được tánh hữu vi?

Tâm không nhiễm uế, đến Phật đạo?

Làm sao để được thân nghiệp tịnh?

Làm sao trừ được miệng ý ác?

Làm sao lìa được tâm tạp nhiễm?

Cúi mong Thế Tôn nói cho con.

Bấy giờ, đức Phật bảo đồng tử Nguyệt Quang:

–Nếu Bồ tát Ma ha tát cùng tương ưng với một pháp thì mau được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, như vậy các pháp đều được thành tựu tức khắc. Thế nào là một pháp? Nếu Bồ tát Ma ha tát đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc. Ðó là tương ưng với một pháp mau thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, có thể đạt được sự lợi ích của công đức như vậy.

Khi ấy đức Thế Tôn nói bài kệ:

Nếu ai thọ trì một pháp này

Hay thuận Bồ tát chanh tu hành

Nhờ có công đức của pháp này

Mau được thành tựu đạo vô thượng

Với tất cả xứ, tâm vô ngại

Bồ tát dõng mãnh mới làm được

Không hề khởi tư tưởng yêu ghét

Như vậy sẽ được diệu công đức

Nếu hay tu với tâm bình đẳng

Thì sẽ chứng được quả bình đẳng

Pháp hạnh như vậy cũng bình đẳng

Sẽ được tướng dưới chân bằng phẳng

Người tu bình đẳng lìa tâm sân

Hay trừ tất cả phiền não chướng

Do nhân duyên ấy bàn chân bằng

Nên được màu bông sen dưới chân

Ai hay chỉ hiện ở mười phương

Phước đức sáng ngời khắp cõi Phật

Thì được bước lên Tịch diệt địa

Ðiều phục vô lượng các chúng sanh.

Này đồng tử! Bồ tát Ma ha tát đối với tất cả chúng sanh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc, làm con mắt cho thế gian, chứng được tam muội, gọi là tam muội thể tánh các pháp bình đẳng, không hý luận. Nhờ tam muội ấy thành tựu mười pháp. Nhưng gì là mười? Ðó là:

1. Thân giới

2. Khẩu giới

3. Ý giới

4. Nghiệp thanh tịnh

5. Vượt qua các nhân duyên

6. Hiểu rõ các ấm

7. Ðược cõi nước bình đẳng

8. Trừ các nhập tướng

9. Ðoạn diệt các ái

10. Chứng được vô sanh.

Lại có mười pháp:

1. Nhập các pháp tánh

2. Hiển thị các nhân

3. Không hoại các quả

4. Hiện thấy các pháp

5. Tu tập chánh đạo

6. Cùng Phật đồng sanh

7. Trí huệ sáng suốt lanh lợi

8. Ðạt được trí ưa thích của chúng sanh.

9. Ðạt được Pháp trí

10. Nhập trí huệ vô ngại.

Lại có mười pháp:

1. Khéo biết trí văn tự

2. Ðã vượt qua các sự việc

3. Ðược tứ âm thanh

4. Bình đẳng đối với cõi nước

5. Ðược cõi nước bình đẳng, tâm sanh vui thích.

6. Ðược một phần hỷ

7. Ðược tâm không quanh co

8. Ðiều phục oai nghi

9. Ðược tâm thành thật, ngay thẳng

10. Nhan sắc không sân hận.

Lại có mười pháp:

1. Mặt thường vui vẻ

2. Lời nói hòa nhã

3. Trước tiên luôn thăm hỏi

4. Thường không làm biếng

5. Cung kính bậc tôn trưởng

6. Cúng dường bậc tôn trưởng

7. Ðời sống tri túc

8. Tu điều thiện không chán

9. Thanh tịnh sự tà mạng

10. An trụ nơi thanh vắng.

Lại có mười pháp:

1. Trí an trụ khắp nơi

2. Chánh niệm không quên.

3. Ðược trí ấm phương tiện.

4. Trí giới phương tiện.

5. Trí nhập phương tiện.

6. Chứng các thần thông

7. Diệt các phiền não

8. Ðoạn trừ tập khí

9. Tâm thường dõng mãnh

10. Trụ nơi quán bất tịnh.

Lại có mười pháp:

1. Biết phương tiện để phạm.

2. Diệt các dòng hữu

3. Ðoạn các kiết sử.

4. Ðã độ các hữu.

5. Khéo biết kiếp trước.

6. Không nghi nghiệp quả.

7. Tư duy đối vơi pháp.

8. Mong cầu đa văn.

9. Ðược trí lanh lợi.

10. Ðược bậc điều phục.

Lại có mười pháp:

1. Không ỷ lại sự trì giới.

2. Không vọng tưởng phân biệt.

3. Không có khinh tháo.

4. Trụ nơi bất thối.

5. Xuất sanh pháp lành.

6. Nhàm chán pháp ác

7. Không tạo phiền não.

8. Không xả bỏ sự học.

9. Phân biệt các thiền định.

10. Ðược trí ưa thích của tất cả chúng sanh.

Lại có mười pháp:

1. Khéo phân biệt sanh xứ.

2. Ðược trí cùng tận.

3. Khéo biết trí ngôn ngữ

4. Vứt bỏ duyên tục.

5. Nhàm chán ba cõi.

6. Không khởi tâm hạ liệt.

7. Không đắm trước các pháp.

8. Nhiếp thọ chánh pháp.

9. Thủ hộ chánh pháp.

10. Biết luật phương tiện.

Lại có mười pháp:

1. Diệt trừ các sự tranh cãi.

2. Không chống trái.

3. Không tranh tụng, đánh nhau.

4. Nhẫn bình đẳng.

5. Ðược bậc nhẫn.

6. Tự nhiếp nơi nhẫn.

7. Khéo chọn các pháp

8. Tâm thích giới đầy đủ.

9. Quyết định phương tiện, khéo hỏi và đáp.

10. Trí khéo phân biệt nghĩa của câu.

Lại có mười pháp:

1. Trí phương tiện đối với pháp xuất sanh.

2. Phát sanh trí khéo biết nghĩa và phi nghĩa.

3. Trí về đời trước.

4. Trí về đời sau.

5. Trí hiện tại.

6. Trí ba đời bình đẳng.

7. Trí khéo biết tam luân.

8. Tâm an trụ.

9. Thân an trụ

10. Khéo gìn giữ oai nghi.

Lại có mười pháp:

1. Không hủy hoại oai nghi.

2. Phân biệt oai nghi.

3. Oai nghi đoan nghiêm, tao nhã.

4. Khéo hiểu, nói về nghĩa.

5. Ðược thế trí

6. Thích bố thí, không xan tham

7. Tự tay bố thí.

8. Thường cho không ngừng.

9. Cho tất cả.

10. Có tâm xấu hổ.

Lại có mười pháp:

1. Có tâm biết thẹn.

2. Xả bỏ tâm ác.

3. Không bỏ hạnh đầu đà.

4. Ðối vơi đức tin không hề sai lầm.

5. Thường thực hành hạnh vui.

6. Ðem chỗ mình ngồi dâng cho các bậc tôn trưởng.

7. Bỏ tâm kiêu mạn.

8. Khéo nhiếp tâm.

9. Khéo biết tâm tương ưng.

10. Khéo biết tâm khởi.

Lại có mười pháp:

1. Trí khéo biết nghĩa.

2. Trí khéo biết pháp.

3. Xa lìa vô trí.

4. Khéo nhập vào tâm vi tế.

5. Biết tự tánh của tâm.

6. Khéo biết pháp khứ lai phương tiện.

7. Trí khéo biết tất cả ngôn ngữ.

8. Khéo biết từ ngữ sai biệt không trở ngại.

9. Trí phương tiện quyết định được nghĩa.

10. Xả bỏ sự phi nghĩa.

Lại có mười pháp:

1. Thân cận người lành.

2. Cùng làm việc với họ.

3. Nghe theo lời dạy của họ

4. Xa lìa người ác.

5. Thông suốt việc tu thiện.

6. Không đắm trước thiền vị.

7. Du hý thần thông.

8. Ðạt được trí thế gian.

9. Xa lìa sự phô trương giả danh.

10. Không nhàm chán hữu vi.

Lại có mười pháp:

1. Ðược lợi không mừng.

2. Bị suy thối không buồn

3. Ðược khen không vui.

4. Bị chê không lo.

5. Ðược tôn vinh vẫn không thích.

6. Bị hủy báng vãn không nản.

7. Không khổ.

8. Không vui.

9. Không thân cận người tại gia.

10. Không ở trong tăng chúng.

Lại có mười pháp:

1. Bỏ sự không cung kính.

2. Thực hành sự cung kính.

3. Ðầy đủ lễ nghi.

4. Bỏ tâm không lễ nghi.

5. Không nhiễm ô nhà thế tục.

6. Gìn giữ Phật pháp.

7. Thích im lặng, ít nói.

8. Lời nói, hành động không t hô tháo.

9. Cung người đàm luận, khéo dùng phương tiện.

10. Hàng phục các oán thù.

Lại có mười pháp:

1. Khéo biết thời tiết

2. Ðối với các người phàm phu.

3. Không khởi tâm khinh người nghèo hèn.

4. Có người xin liền cho.

5. Với các người nghèo khổ cứ để họ xin, đừng gây chướng ngại.

6. Không khởi tâm ghen ghét người phá giới.

7. Có ý nghĩ muốn cứu người khác.

8. Khéo biết việc mình làm.

9. Nhiếp thọ chánh pháp.

10. Xả bỏ của cải.

 

Lại có mười pháp:

1. Không kinh doanh tích tụ.

2. Khen ngợi người trì giới.

3. Chê trách người phạm giới.

4. Cung kính sự phụng trì giới, không có tâm dối láo.

5. Tất cả vật sở hữu đều có thể đem cho.

6. Thành tâm khuyên thỉnh.

7. Nói thế nào làm thế ấy.

8. Tôn thờ người trí.

9. Ðối với các pháp quyết định tu hành, hết lòng ưa thích.

10. Ðược trí thí dụ.

 Lại có mười pháp:

1. Phương tiện đối với đời trước.

2. Tu điều thuận trước nhất.

3. Có các phương tiện.

4. Ðoạn trừ các tướng

5. Xả bỏ các tưởng.

6. Khéo biết sự tướng.

7. Hay diễn nói các kinh.

8. Khéo biết phương tiện đối với các sự thuận, nghịch.

9. Quyết định đối với chân lý.

10. Chứng được giải thoát.

 Lại có mười pháp:

1. Lời nói chân thật, ngay thẳng.

2. Hiển lộ trí của tự tánh.

3. Lời nói không nghi ngờ

4. Buộc tư tưởng nơi “không”.

5. Tu sự vô tướng.

6. Biết tánh vô nguyện.

7. Ðược bốn vô úy.

8. Kiên cố đối với giới.

9. Nhập vào chánh đạo đầy đủ.

10. Ðạt được trí tuệ.

 Lại có mười pháp:

1. Buộc tư tưởng vào một duyên.

2. Ít bận tâm về người thân.

3. Không khởi tấm ô trược.

4. Xả bỏ các kiến.

5. Ðược Ðà la ni.

6. Ðược trí.

7. Ðược sự sáng suốt.

8. An trụ.

9. Trụ trì.

10. Chánh cần.

Này đồng tử, đó gọi là Bồ tát ma ha tát từ Tam muộihý luận, thể tánh bình đẳng của các pháp ấy, thành tựu các công đức lọi như vậy.

Này đồng tử, tam muội như vậy gọi là nhân, gọi là tương ưng, gọi là giáo huấn, gọi là pháp môn, gọi là động tác, gọi là đạo hạnh, gọi là không nghi, gọi là đạo sư, gọi là hành thuận nhẫn, gọi là nhẫn địa, gọi là trừ khử sự không nhẫn, gọi là trí địa, gọi là xa lìa vô tri, gọi là kiến lập nơi trí, gọi là phương tiện địa, gọi là Bồ tát du hành, gọi là thần cận thắng trượng phu, gọi là xa lìa kẻ ác, gọi là Như Lai nói về Phật địa, gọi là người trí tùy hỷ, gọi là kẻ ngu vứt bỏ, gọi là Thanh văn khó biết, gọi là không phải địa vị của ngoại đạo, gọi là nhiếp về Như Lai, gọi là điều hiểu biết của đấng Thập lực, gọi là chư thiên cúng dường, gọi là Phạm vương lễ bái, gọi là Ðế Thích đi theo sau, gọi là rồng, thần cúi lạy, gọi là Dạ xoa tùy hỷ, gọi là Khẩn đà la khen ngợi, gọi là Ma hầu la già xưng dương, gọi là sự tu của Bồ tát, gọi là chỗ mong cầu của bậc trí, gọi là được đạo vô thượng, gọi là chẳng phải thí tài vật, gọi là thuốc trừ bệnh phiền não của chúng sanh, gọi là kho trí, gọi là Biện tài vô tận, gọi là xuất sanh các lời dạy, gọi là trừ các bệnh khổ, gọi là biết ba cõi, gọi là thuyền bè đưa người, gọi là che chở qua bốn dòng nước, gọi là phát sanh danh dự, gọi là Như Lai tán thán, gọi là sự lợi ích của Như Lai, gọi là khen ngợi hào quang của đấng thập lực, gọi là xuất sanh đạo đức của Bồ tát, gọi là lòng từ diệt trừ sự bực tức, gọi là lòng từ bi trừ bỏ não hại, gọi là tâm hoan hỷ tịch tịnh, gọi là người xả bỏ buồn rầu, gọi là hơi thở sống động của người đại thừa, gọi là có thể rống tiếng sư tử, gọi là Phật đạo, gọi là tất cả Pháp ấn, gọi là dẫn đạo Nhất thiết trí, gọi là khu vườn du hý của Bồ tát, gọi là sự phá tan ma quân, gọi là đường an toàn, gọi là thành các nghĩa tốt, gọi là ngăn chận kẻ thù địch, gọi là dùng pháp hàng phục oán thù, gọi là sự vô úy chân thật, gọi là sức mạnh không vọng cầu như thật, gọi là cội gốc của mười tám Bất cộng pháp, gọi là trang nghiêm pháp thân, gọi là oai lực của các hành, gọi là trang nghiêm Phật huệ, gọi là bỏ các trói buộc của ái, gọi là trưởng tử của Phật vui mừng, gọi là trí Phật đầy đủ, gọi là không phải địa vị của Bích chi Phật, gọi là tâm thanh tịnh, gọi là thân thanh tịnh, gọi là thành tựu giải thoát, gọi là không có các tạp dục, gọi là không có các tạp nhuế, gọi là không phải địa vị ngu si, gọi là trí A hàm, gọi là hay khởi các kỹ thuật, gọi là trừ các vô minh, gọi là đầy đủ giải thoát, gọi là sự vui mừng của người thiền định, gọi là con mắt cần thiết để người thấy, gọi là du hý thần thông, gọi là hay hiện thần túc, gọi là Văn trì đà la ni, gọi là nhớ nghĩ, thọ trì không quên, gọi là sự gia bị của chư Phật, gọi là phương tiện của đạo sư, gọi là sự không tương ưng, vi tế khó biết, gọi là xả bỏ văn tự, gọi là biết sâu nghĩa trí, gọi là trí của tri kiến, gọi là trí phân biệt, gọi là trí bất khả ngôn thuyết, gọi là trí có thể điều phục sự sai, gọi là trí chất trực, gọi là trí thiểu dục, gọi là nhiếp trì tinh tấn, gọi là hay gìn giữ không quên, gọi là hay tiêu các khổ, gọi là pháp vô sanh, gọi là một lời diễn thuyết có thể biết được sự sanh diệt trong các loài. Ðó gọi là Tam muội không hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả pháp.

Khi đức Phật nơi pháp môn này, trong hội có tám mươi na do tha người, trời được Vô sanh pháp nhẫn, chín mươi hai na do tha trời, người được nhẫn tùy âm thanh, bảy mươi sáu na do tha người, trời được thuận nhẫn, sáu vạn người, trời được xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, một ngàn Tỳ kheo hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, hai trăm năm mươi Tỳ kheo ni hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, năm trăm Ưu bà tắc được quả A na hàm, tám trăm Ưu bà di được quả Tư dà hàm.

Bấy giờ ba ngàn đại thiên thế giớisáu thứ chấn động, đó là:

1. Ðộng biến động, đẳng biến động.

2. Dũng biến dũng, đẳng biến dũng.

3. Khởi biến khởi, đẳng biến khởi.

4. Hống biến hống, đẳng biến hống.

5. Chấn biến chấn, đẳng biến chấn.

6. Giác biến giác, đẳng biến giác.

Vọt lên ở Ðông thì mất ở Tây. Vọt lên ở Tây thì mất ở Ðông. Vọt lên ở Nam thì mất ở Bắc. Vọt lên ở Bắc thì mất ở Nam. Vọt lên ở giữa thì mất ở một bên. Vọt lên ở một bên thì mất ở giữa. Nhờ pháp lực nên bỗng nhiên khởi lên ánh sáng chưa từng có, có thể chiếu sáng ở những nơi tăm tối xa xôi, cho đến địa ngục A tỳ, không chỗ nào không rực sáng.

Lúc ấy, khoảng giữa núi Thiết vi của thế giới, chúng sanh tăm tối lại được thấy nhau, thảy đều kinh ngạc nói rằng:

–Tại sao ở đây bỗng nhiên có những người này?

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta nhớ kiếp xưa sáu vạn Phật

Vốn sống ở tại núi Kỳ xà

Khi ta cầu đạo thời quá khứ

Theo các Thế Tôn nghe định này

Lúc đó sáu ức Phật sau cùng

thế gian nên làm ánh sáng

Tên là Phật Ta la Thọ Vương

Ta theo vị ấy hỏi định này

Lúc ấy ta sanh dòng Sát lợi

Là bậc tối tôn giữa các vua

Có đến năm trăm các người con

Ðầy đủ tất cả các tài nghệ

Với họ, ta là Vô thượng tôn

Tạo dựng Già lam đến cả ức

Toàn dùng đại chiên đàn thắng diệu

Xen lẫn vàng bạc và các báu

Lúc ta làm vua, người kính yêu

Tên là vua Tỳ Sa Mô Ðạt

Rông bày các cúng dường lên Phật

Ngót cả vạn tám trăm ức năm

Lúc đó Lưỡng túc tôn tối thắng

Tên là ngài Ta La Thọ Vương

Trong suốt bảy ức sáu vạn năm

Sống ở thế gian hoằng hóa đạo

Có tám mươi ức các Thanh văn

Ba minh, sáu thông thường tại định

Ðã sạch hết lậu, thân cuối cùng

Thánh chúng như vậy không gièm pha

Ta dâng các thứ thật tối thắng

Cúng dường bậc độ các ác thú

Vì muốn lợi ích các người, trời

Cho nên mới cầu tam muội này

Ta và vợ con đồng xuất gia

Giữ lời Phật dạy không ai bằng

Trong một ngàn bốn vạn ức năm

Ta thường thưa hỏi Tam muội này

Tám vạn na do kệ xưng tán

Kệ tụng khác nhau tám vạn triệu

Ðức Phật đem ra dạy cho ta

Một phẩm duy nhất luận định này

Ðầu, mắt, tay chân cùng vợ con

Các thứ trân bảoẩm thực

Tất cả của cải đều bỏ hết

Vì để cầu tam muội như vậy

Nhớ xưa trăm ức các Như Lai

Lại có hằng hà sa số Phật

Các ngài sống tại núi Kỳ xà

Tuyên thuyết định thắng tịch như vậy

Cũng đồng một tên là Thích Ca

Con Phật đồng tên La Hầu La

Thị giả đồng tên là Khánh Hỷ

Thành vua đồng tên Ca Tỳ La

Bậc trí tuệ đệ nhất ở đời

Ðồng tên Mục Liên, Xá Lợi Phất

Thế giới đồng tên là Ta Bà

Các ngài đều sanh đời ác trược

Ta dùng phẩm vật dâng Thế Tôn

Vì muốn thực hành hạnh Bồ đề

Các vật cúng dường đều dâng lên

Vì muốn trì tụng chánh định này

Phát tu thắng hạnh được định này

Ðược hạnh định này vô lượng thứ

An trụ tất cả các đức hạnh

Ðược tam muội này chẳng khó khăn

Không đắm các vị, lìa náo động

Không gần thế tục, không ganh ghét

An trụ Ðại bi, lìa sân hận

Ðược tam muội này chẳng khó khăn.

Xa tục không sợ mất thế lợi

Thanh tịnh tà mạng không phiền não

Với giới trong sáng không sợ hãi

Ðược tam muội này đâu khó khăn

Tinh tấn, dõng mãnh thường không nghỉ

Ưa thích nhàn tịnh hành đầu đà

An trụ vô ngã diệu pháp nhẫn

Ðược tam muội này đâu khó khăn

Khéo điều phục tâm không hý luận

An trụ oai nghi tất cả hạnh

Thích làm bố thí không keo kiết

Ðược tam muội này đâu khó khăn

Các tướng tốt đẹp của Như Lai

Cùng với mười tám pháp bất cộng

Lực, vô úy thảy được không khó

Bởi hay thọ trì định này vậy

Mắt Phật nhìn thấy các chúng sanh

Giả sử một lúc đều thành Phật

Mỗi đức Phật ấy có thọ mạng

Ngàn vạn ức kiếp khó nghĩ được

Mỗi Phật đều có vô lượng đầu

Giống như số cát trong biển cả

Mỗi đầu đều có vô lượng lưỡi

Số lượng cũng như cát đại hải

Cứ mỗi một lưỡi đều xưng dương

Công đức giữ đinh một bài kệ

Vẫn nói phần nhỏ không hết được

Huống chi biên chép và thọ trì

Nếu có thuận định, đức đầu đà

Thiên, A tu la, quỷ hộ trì

Và các vị vua thường theo hầu

Thọ trì tịch định khó thấy này

Vì có vô biên vô ngại biện

Tuyên thuyết vô lượng trăm ngàn kinh

Trong mọi thời gian thường không đoạn

Vì trì kinh này, nghe tạng này

Nếu muốn được thấy Phật Di Ðà

Cùng với thế giới an lạc kia

Sau này đời ác rất đáng sợ

Cần phải nghe trì tam muội này

Ta nay vì ngươi mà phó chúc:

Ta, Nhân trung tôn tự khuyên ngươi

Sau ta Niết bàn, lúc mạt thế

Phải nên nghe, trì tam muội này

Tất cả chư Phật ở mười phương

Trong đời quá khứhiện tại

Các ngài đều học tam muội này

Ðược đến vô vi, Phật Bồ đề.

Này đồng tử! Vì nghĩa này nên nếu có Bồ tát ma ha tát, muốn nói với công đức chân thật của Như Lai, khai thị biện thuyết ý nghĩa của danh hiệu thì không thể cùng tận. Tất cả những điều được Phật nói ra, nay ngươi phải nên đọc tụng thọ trì, nói rộng tam muội như vậy cho người khác nghe.

Này đồng tử! Sao gọi là danh hiệu thật đức của Như Lai? Nếu Bồ tát ma ha tát trụ nơi thanh vắng, hoặc dưới gốc cây, nhàn hạ, ngồi im lặng một mình, phải học như vầy: Ðức Như Lai, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, tích tập công đức thắng diệu của Như Lai, tu các thiện căn mà không hoại mất, dùng đại nhẫn lực, được các tướng tốt, và các vẻ đẹp để tự trang nghiêm thân, là sắc khả ái thuộc loại bậc nhất, người xem không chán, kính tin, ái lạc, với các trí huệ không ai có thể hơn được, năng lực bất khả hoại, hóa độ các chúng sanh, là cha của Bồ tát, vua của Hiền thánh, là Ðạo sư hướng tới Niết bàn, trí huệ vô biên, biện tài vô lượng, Phạm âm thanh nhã, âm thinh lời lẽ thông suốt, tướng tốt hy hữu, người có mắt chiêm ngưỡng, tùy theo chỗ quán sát, muốn không xem nữa nhưng vẫn không được. Ðược thân không ai bằng, không bị dục nhiễm, không bị sắc nhiễm, hơn cả vô sắc giới, xa lìa các khổ, vất bỏ các pháp, giải thoát các cõi, chẳng nhập tương ưng, đoạn trừ các trói buộc, sạch hết khát ái, vượt qua bốn dòng sông, đầy đủ trí huệ, an xử Niết bàn, trụ nơi thật tế.

Này đồng tử! Ðó là ta nói rõ công đức chân thật của Như Lai. Nếu nói rộng về danh nghĩa của nó thì không bao giờ cùng tận tất cả những điều chư Phật nói ra.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:

Với vô lượng số trong ngàn kiếp

Không thể nói hết đức Như Lai

Tập lâu tất cả diệu thiện căn

Ðể cầu được thắng định như vậy

Thân mỹ nữ trang nghiêm vi diệu

Sắc đáng yêu tối thượng lạ lùng

Ta quyết tâm thí, lòng không dối

Ðể cầu được thắng định như vậy

Bỏ cả tài sản và tôi tớ

Ma ni đại bảovàng bạc

Dùng tâm thắng thượng mà bố thí

Vì để cầu tam muội như vậy

Dùng ngọc báu ma ni, anh lạc

Mão trời, ấn tay và dây vàng

Xưa từng dâng thí các đạo sư

Ðể cầu được thắng đinh như vậy

Các diệu hương hoa, vô lượng quả

Ðều là hương Kiền Ðà Bà Sư

Ta dùng hoa ấy rải tháp Phật

Tâm thắng diệu thuần chí tăng thượng

Ta dùng vô lượng các pháp thí

Hoan hỷ khai đạo các chúng sanh

Với các danh vănlợi dưỡng

Trước ta không khởi tâm như vậy

Ta vốn thực tập đức đầu đà

Riêng ở dưới cây, im không nói

Từ bi vô lượng thương chúng sanh

Ðể cầu quả Bồ đề Vô thượng

Với người đồng giới không cạnh tranh

Thường ái ngữ, lời êm ái

Ngôn từ nhỏ nhẹ, người thích nghe

Mọi người nhìn thấy không nhàm chán

Sống ở Tha Xá Ly Gia Xan

Vô lượng ức đời không ganh ghét

Hoan hỷ, thường tự đi khất thực

Các nơi mời thỉnh đều vất bỏ

Nếu ai nghe nhiều, hay thọ trì

Bốn câu kệ của tam muội này

Như vậy tức là cúng dường ta

Nhờ tâm thù thắng thường tôn kính

Xưa ta thực hành các thứ thí

Với giới mãi mãi không vi phạm

Dùng vô lượng thứ cúng dường Phật

Ðể cầu mong tịch định như vậy

Ta ở trong vô lượng thế giới

Ðầy ngọc ma ni đem thí khắp

Nghe tam muội này trì bài kệ

Phước ấy lớn hơn không thể lường

Nếu có tất cả các loại hoa

Và các diệu hương rất hy hữu

Cúng dường tất cả các đức Như Lai

Thích tu thiện căn vô lượng kiếp

Các kỹ nhạc có trên thế gian

Aåm thực ngon bổ và y báu

Tâm tăng thượng trong vô lượng kiếp

Thường đem cúng dường các Thập lực

Nếu ai hưng khởi nguyện Bồ đề

Sẽ được Ðại Pháp vương vô thượng

Nếu ai với kinh Tam muội này

Nghe một bài kệ, phước hơn kia

Trong sông Hằng hà bao nhiêu cát

Bao nhiêu kiếp số nói sự lợi

Phô diễn đức ấy không cùng tận

Nhờ giữ phước định vô lượng vậy.

Này đồng tử! Chính vì nghĩa này nên Bồ tát ma ha tát cần phải chí tâm thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác, phân biệt hiển thị, giáo hóa rộng rãi cho chúng sanh tu tam muội này.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Chỗ Phật kia ta nghe như vầy

Ðược lợi ích vô thượng thắng diệu

Cho nên nay ta nói cho ngươi

Thắng tam muội chư Phật đã nói

Chỗ bảy ức ba ngàn vạn Phật

Thời quá khứ ta từng cúng dường

Tất cả các đức Như Lai ấy

Cũng nói Tu đa la như vậy

Nhờ đó mới vào tâm đại bi

Cho nên nói rõ tam muội này

Nếu có người tập học, nghe nhiều

Ðược trí Như Lai sẽ không khó

Nếu có thể vào thời mạt thế

Ðạo sư thế gian đã diệt độ

Có kẻ báng pháp, Tỳ kheo ác

Với người nghe nhiều, không ưa thích

Tuy nói giới pháp để mưu sinh

Nhưng mình không thích hành giới pháp

Tuy nói thiền định để mưu sinh

Nhưng mình không thích hành thiền định

Tuy nói trí tuệ để mưu sinh

Nhưng mình không thích hành trí tuệ

Tuy nói giải thoát để mưu sinh

Nhưng mình không thích hành giải thoát

Tuy nói tri kiến để mưu sinh

Nhưng mình không thích hành tri kiến

Như người miệng nói hương chiên đàn

Là hương tối thượng trong các hương

Có người hỏi kẻ nói hương ấy:

“Ông biết thứ hương ông đã nói?”

Ðáp rằng: “Tôi thật không nghe hương

Chỉ nhờ nói hương để mưu sống”.

Sau Phật diệt độ, đời ác thế

Có các Tỳ kheo không giữ giới

Chỉ nói giới pháp để mưu sinh

Tự mình không thể hành giới pháp

Sau Phật diệt độ, đời ác thế

Có các Tỳ kheo không thiền định

Tuy nói pháp định để mưu sinh

Tự mình không thể hành pháp định

Sau Phật diệt độ, đời ác thế

Có các Tỳ kheo không pháp huệ

Tuy nói pháp huệ để mưu sinh

Tự mình không thể hành pháp huệ

Sau Phật diệt độ, đời ác thế

Có các Tỳ kheo không giải thoát

Tuy nói giải thoát để mưu sinh

Tự mình không thể hành pháp giải thoát

Sau Phật diệt độ, đời ác thế

Có các Tỳ kheo không tri kiến

Tuy nói tri kiến để mưu sinh

Tự mình không thể hành pháp tri kiến

Thí như kẻ nghèo bị người khinh

Sau đó phú quý người cung kính

Người, trời, rồng, quỷ, Cưu bàn trà

Quyết không cúng dường người không định

Nếu được tam muội vi diệu địa

Bậc trí liền được kho trí rộng

Ðược các hàng nhân thiên cung kính

Hay dùng thượng thí cho chúng sanh

Ta nghe được lợi ích như vậy

Hết sức cao tột, Phật nói ra.

Thân thuộc, tài sản đều xả hết

Vì muốn nghe nói tam muội này.

Ðồng tử Nguyệt Quang tâm hoan hỷ

Chấp tay hướng Phật nói lời rằng:

“Sau khi Phật tiên đã diệt độ

Con xin hộ trì thắng pháp Phật

Với thân mạng mình hay thí xả

Cùng các thú vui ở thế gian

Sau này đời ác thật hãi hùng

Con hộ trì thắng diệu định này

Con thấy thế gian khổ vô lượng

Khởi tâm đại bi mà cứu họ

Với họ, lại khởi tâm đại bi

Nói họ nghe thắng tam muội này”.

Trong chúng năm trăm người đều đứng

Cũng xin hộ trì tam muội này

Khi ấy đồng tửthượng thủ

Cũng hộ trì thắng tam muội này

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang bạch đức Phật:

–Thưa Thế Tôn, gọi tam muội ấy thế nào cho đúng?

Ðức Phật bảo:

–Này đồng tử! Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe. Ta sẽ nói cho. Ðó là:

1. Hay vắng lặng đối vơi tâm.

2. Tâm không khởi lên.

3. Trí không hòa hiệp

4. Bỏ gánh nặng xuống

5. Ðược trí Như Lai.

6. Thành oai lực của Phật

7. Ðối trị sự đắm trước dục.

8. Diệt trừ sân nhuế.

9. Ðoạn trừ ngu si.

10. Trụ tâm tương ưng.

11. Xả tâm không trụ

12. Ưa thích thiện pháp.

13. Tước đoạt hữu vi.

14. An trụ chánh tín.

15. Ðêm vẫn tỉnh thức.

16. Không bỏ thiền định.

17. Tăng trưởng thiện căn.

18. Không thích sự sanh.

19. Không tạo các nghiệp.

20. Không chấp nội nhập.

21. Không chấp ngoại nhập.

22. Không khen thân mình.

23. Không chê người

24. Không ở nhà thế tục.

25. Giới hạnh thuần thục.

26. Không khinh chê ai.

27. Có đại phước đức.

28. Tự tri.

29. Không khinh tháo.

30. An trụ oai nghi.

31. Bỏ lời nói thô ác.

32. Không co tâm sân hận.

33. Cứu hộ mọi người.

34. Che chở thiện tri thức.

35. Hộ trì lời bí mật.

36. Không sanh tâm độc hại đối với các chúng sanh.

37. Không não loạn người trì giới.

38. Luôn nói lời êm dịu.

39. Không nương vào ba cõi.

40. Thuận nhẫn đối với tất cả trí.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta đã mở cửa cam lồ này

Ta đã nói tự tánh các pháp

Ta đã chỉ lỗi lầm sanh tử

Ta mở bày lợi ích Niết bàn

Ta đã dạy lìa ác tri thức

Phải thường thân cận thiện tri thức

Lìa các huyên náo ở tịch tịnh

Thường tu tâm từ không gián đoạn

Phải thường hộ trì giới thanh tịnh

Hoan hỷ ưa thích hạnh đầu đà

Nếu hay thường tập sự xả huệ

Ðược tam muội này sẽ không có

Người ấy hay được tịch diệt địa

Quyết không rơi vào hàng Thanh văn

Nhất định sẽ chứng trí huệ Phật

Liền được vô lượng đức chư Phật

Thấy các chúng sanhtrí huệ

Dùng trí huệ Phật nói cho họ

Nếu ai hay cầu trí vô thượng

Ðược tam muội này đâu có khó

Hoặc vì ăn, khởi tâm ganh ghét

Nên biết ăn rồi thành bất tịnh

Dụng công vô lượng mới được thành

Nếu quán thật sau mới đắc định

Không vật nào đem định này tới

Chỉ do tịnh giới mới sanh ra

Thể tánh chư pháp thường tịch diệt

Phàm phu vô trí không thể hiểu

Nếu ai trụ tâm nơi tịch định

Người ấy luôn luôn thường có Phật

Nhân tôn hằng thấy các chúng sanh

Thường tu định tịch diệt như vậy

Nhớ tướng tốt và đức hạnh Phật

Hay khiến các căn không loạn động

Tâm không mê loạn hợp với pháp

Ðược nghe được trí như biển cả

Bậc trí trụ nơi tam muội này

Nhiếp niệm hành nơi chỗ kinh hành

Hay thấy ngàn ức chư Như Lai

Cũng gặp vô lượng hằng sa Phật

Nếu người trong tâm có mê hoặc

Ơû trong Phật pháp bị hạn lượng

Ơû trong vô lượng không hữu lượng

Như Lai các đức bất tư nghì

Tất cả thế gian không ai bằng

Huống lại có người hơn Ngài được

Các trí các đức đều tương ưng

Với Ngài không nghi sẽ thành Phật

Ðược thân Như Lai sắc vàng tía

Tất cả đoan trang để gần đời

Nhờ duyên như vậy tâm an trụ

Mới gọi là Bồ tát đắc định

Nhờ nương tướng Phật là hữu tác

Hay trừ tất cả tưởng hữu tướng

Sau đó an trụ nơi vô tướng

Mới hay đạt được các pháp không

Hay được an trụ nơi pháp thân

Biết tất cả hữu nhưng vô hữu

Ðã tu tập tướng vô hữu rồi

Sau đó quán Phật không sắc thân

Nay ta vì ngươi nên khéo nói

Người người đến được chỗ như vậy

Mới gọi hay biết các sự duyên

Vô lượng suy nghĩ thường không đoạn

Nếu ai hay sanh tâm như vậy

Nhớ tướng tốt và trí huệ Phật

Người kia hay tu niệm như vậy

Một lòng hướng về không thối chuyển

Hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc kinh hành

Không nghi hoặc với trí chư Phật

Ðược không nghi rồi phát nguyện rằng:

“Khiến con được Phật Tam giới tôn

Chắc sẽ thấy được các Như Lai

Vào trong Phật pháp hay tuyển chọn

Nơi tam muội này mà khởi lên

Cúi đầu đảnh lễ mười phương Phật

Thân, miệng và ý đều thanh tịnh

Tán thán chư Phật thường không dứt”.

Thường tu như vậy nhớ tướng Phật

Ngày đêm hằng thấy các Như Lai

Gặp lúc sắp chết, bệnh ngặt nghèo

Bệnh đau bức bách không chịu nổi

Niệm tam muội Phật thường không xả

Không để khổ thống đoạt nhất tâm

Người ấy vì tự biết pháp này

Nên biết tất cả các pháp không

Nhờ trụ các giáo môn như vậy

Với Bồ tát hạnh không chán ghét

Ðược nghe lợi ích như vậy rồi

Cầu trí vô đẳng của Như Lai

Sau đó không sanh tâm hối tiếc

Bồ đề tối thượng không đạt được

Nay ta vì ngươi nói các thứ

Ngươi đói pháp này nếu không thành

Như người tuy giữ thuốc thật hay

Tự thân mình bệnh không thể trị

Cho nên cần phải biết lựa chọn

Gọi là cầu nơi thắng tam muội

Giới, văn, bố thí thường tu tập

Ðược tam muội này sẽ không khó.


QUYỂN 2/10

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo đồng tử Nguyệt Quang:

–Vào thời quá khứ lâu xa, hơn cả A tăng kỳ kiếp, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Khi ấy có một đức Phật hiệu là Thanh Ðức Như Lai, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời.

Này đồng tử! Bấy giờ đức Như Lai Thanh Ðức, Ứng chánh biến, hội chúng đầu tiên của ngài tập hợp tám ức Thanh văn, đều là bậc A la hán, đã hết các lậu đã được tự lợi, sạch hết hữu kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt được tất cả tâm tự tại.

Hội chúng thứ hai gồm có bảy ức chúng, hội chúng thứ ba gồm có sáu vạn chúng. Tất cả những vị đó đều là Ðại A la hán, các lậu đã tận, đạt được tự lợi, sạch hết các kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, hay đạt đến tất cả tâm tự tại.

Này đồng tử! Khi ấy đức Phật thọ bốn vạn năm, bấy giờ cõi Diêm phù đề được an ổn, giàu có sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.

Này đồng tử! Bấy giờ ở Diêm phù đề có hai vị đại vương, một vị tên là Kiên Cố Lực, vị thứ hai tên là Ðại Lực. Hai vị đại vương này mỗi người thống lãnh một nửa cõi Diêm phù đề. Lãnh thổ của hai vua an ổn, giàu có sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.

Khi ấy đức Như Lai Thanh Ðức xuất hiện ở đời tại nước của vua Ðại Lực. Này đồng tử, bấy giờ vua Ðại Lực thỉnh đức Như Lai Thanh Ðức và Tỳ kheo tăng ngót cả ngàn năm, dùng tất cả y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc thang, không sai trái, tùy thuộc thanh tịnh để cúng dường.

Này đồng tử! Ðức Như Lai Thanh Ðức và tăng chúng Thanh văn được nhiều lợi dưỡng, cung kính tán thán. Lúc đó có các Bà la môn, trưởng giả, tịnh tín đối với đức Như Lai Thanh Ðức và Tỳ kheo tăng đã phát ý dõng mãnh, học với vua Ðại Lực cách cúng dường. Ðó là lấy tiền của thế gian làm vật cúng dường thù thắng. Người ấy không biết cách thực hành cúng dường. Vậy thực hành cúng dường bằng cách nào?

–Ðó là thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đi đến chỗ đức Phật, thân cận thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa.

Này đồng tử! Lúc đó đức Như Lai Thanh Ðức nghĩ như vầy: “Các chúng sanh này ý chí hạ liệt, không thể thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đến chỗ Phật, thân cận thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa, tu các phạm hạnh tịch tịnh, viễn ly, thọ giới cụ túc, được phần Tỳ kheo và dùng thọ hành, thiện căn rốt ráo. Tịch diệt như vậy, nhạc cụ, diệu lạc vô thượng thảy đều xa lìa, chỉ dùng của cải thế gian để cúng dường ta. Các chúng sanh này chỉ mong sự vui nhỏ mà cho là vui cùng tột. Các chúng sanh này chỉ trọng pháp hiện tại và pháp đời sau mà không thể yêu quý căn lành cứu cánh.

Sao gọi là coi trọng pháp hiện tại? Ðó là ưa thích ngũ dục.

Sao gọi là quý trọng căn lành đời sau? Ðó là ưa thích sanh lên trời.

Sao gọi là căn lành cứu cánh? Ðó là sự thanh tịnh cứu cánh, tốt đẹp cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, cùng tận cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết bàn cứu cánh.

Nay ta muốn nói pháp như vậy khiến cho chúng này sanh hạnh bố thí, không vì sự cúng dường tối thắng cứu cánh, chỉ vì hạnh vô thượngcúng dường ta”.

Này đồng tử! Lúc ấy đức Như Lai Thanh Ðức muốn giác ngộ cho vua Ðại Lực và các trưởng giả Bà la môn đó ... nên bài kệ:

Người muốn thực hành thí tài thực

Còn tâm bỉ thử không kính nhau

Việc làm như vậy không đáng khen

Chư Phật, bậc trí đã xa lìa

Nếu nói bậc trí huệ vô ngã

Thắng nhơn như vậy nên phụng sự

Nếu với Thánh đế tin bất động

Phụng kính như vậy Phật mới khen

Nếu đem tài thực mà dâng thí

Chỉ được ít lợi nơi hiện tại

Nếu hay viễn ly thí như vậy

Người ấy thành tựu hạnh xuất gia

Nếu ai hay khởi tâm không của

Lại hay hiển thị pháp không của

Cũng hay tịnh tín người không của

Người đó mau thành đạo vô thượng

Không có ở trong năm dục lạc

Với vợ và con sanh ái trước

Kẻ ngu mãi sống ở trong nhà

Người đó đâu hay được lậu tận

Nhàm chán ngũ dục như hầm lửa

Hay lìa ái nhiễm với vợ con

Sợ hãi cư gia cầu ra khỏi

Chứng đặng Bồ đề mới không khó

Không có chư Như Lai quá khứ

Cùng với hiện tạivị lai

Thường ở cư gia sống trong dục

Ðâu hay đạt được thắng diệu đạo

Vất bỏ ngôi vua như nước miếng

Sống nơi viễn ly chỗ không nhàn

Ðoạn trừ phiền não hàng phục ma

Ngộ rõ đạo vô vi ly cấu

Nếu có hằng sa bậc Thế hùng

Ngàn vạn ức năm mà cúng dường

Người hay sợ hoạn ở tại gia

Công đức như vậy mới tối thượng

Chẳng phải ẩm thựcy phục

Các diệu hoa hương và hương xoa

Những thứ như vậy cúng dường Phật

Nếu hay xuất gia phụng hành Pháp

Nếu ai thích cầu đạo Bồ đề

Hay lợi chúng sanh chán thế gian

Hướng đến không nhàn đi bảy bước

Phước báu như vậy mới tối thượng.

Này đồng tử, khi vua Ðại Lực nghe đức Như Lai Thanh Ðức, bậc Ứng chánh biến tri nói về nghĩa lợi của sự xuất gia tu hành như vậy xong, lại suy nghĩ rằng: “Như ta đã hiểu ý nghĩa lời Phật dạy, đức Như Lai chẳng phải Như Lai nói Ðàn ba la mật để được thanh tịnh cứu cánh, tốt đẹp cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, cùng tận cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết bàn cứu cánh.”

Vua Ðại Lực lại nghĩ như vầy: “Không phải sống tại gia mà có thể đắc vô thượng, tu được vô thượng, tu hành nghĩa lợi. Nhưng ta hiện nay xa lìa hạnh này. Nay ta nên phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa xuất gia hành đạo!”.

Này đồng tử! Khi ấy vua Ðại Lực cùng với quyến thuộc là tám vạn người trước sau vây quanh, đến chỗ đức Phật Thanh Ðức, đảnh lễ dưới chân ngài, nhiễu bên phải ba vòng, ngồi xuống một bên.

Này đồng tử! Bấy giờ đức Như Lai Thanh Ðức biết vua Ðại Lực cùng với quyến thuộc trong tâm có sự ưa thích, ngài liền tuyên nói Tam muộihý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp ngài phân biệt hiển thị.

Này đồng tử! Khi vua Ðại Lực nghe Tam muội này hoan hỷ nhảy nhót trong lòng hết sức yêu thích, liền ở chỗ đức Phật Thanh Ðức xả bỏ ngôi vua, chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y. Khi vua đã xuất gia, đối với Tam muội này có thể thính thọ rộng rãi, đọc tụng, nhớ nghĩ, gìn giữ, phân biệt ý nghĩa, tu hành tương ưng với Tam muội ấy. Nhờ thiện căn này, trong hai ức kiếp không đọa ác đạo, tuần tự lại gặp hai ức các đức Phật, ở trong Phật pháp thường được xuất gia, ở nơi mỗi mỗi đức Phật đối với Tam muội này, vua thính thọ, đọc tụng, phân biệt nghĩa lý, tu hành tương ưng. Nhờ thiện căn này nên tuần tự ngót một trăm ức kiếp được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Trí Dũng, bậc Ứng chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, làm lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh sau đó mới nhập Bát Niết bàn.

Này đồng tử! Ngươi nên quán Tam muội này, có thần lực ấy hay khiến cho Bồ tát chiêu cảm được trí Phật.

Này đồng tử! Vua Ðại Lực ấy đã dẫn tám vạn quyến thuộc đến nghe Tam muội này, làm cho hoan hỷ, nhảy nhót, rất ưa thích. Họ cũng theo vua chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp y. Các người xuất gia ấy nghe Tam muội này đọc tụng, thọ trì, phân biệt, giải thuyết, tu hành tương ưng. Nhờ thiện căn này nên đối với hai ức kiếp không đọa ác đạo. Trong mỗi mỗi kiếp họ gặp ngàn vạn đức Phật, ở chỗ các đức Phật ấy thường được xuất gia. Ðã xuất gia rồi nghe Tam muội này đọc tụng, thọ trì, ứng dụng trong sự tu hành. Nhờ thiện căn này nên sau đó ngót một trăm ngàn kiếp mỗi vị ở mỗi thế giới đều thành Phật đạo, đồng một danh hiệuNhư Lai Kiên Cố Dõng Kiện, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, làm lợi ích vô lượng chúng sanh rồi sau đó các ngài mới nhập Vô dư Niết bàn.

Này đồng tử! Tam muội này có đại oai lực như vậy hay khiến cho các Bồ tát đạt đến A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên nói bài kệ:

Ta nhớ đời quá khứ lâu xa

Bất tư nghì kiếp có đức Phật

Hay làm lợi lạc cho chúng sanh

Hiệu là Thanh Ðức Ðại Tiên Tôn

Hội đầu tập chúng ngót tám ức

Ðều là các đệ tử Thanh văn

Hội hai tập chúng số bảy ức

Hội ba sáu ức A la hán

Ðã sạch hết lậu không phiền não

Các sức thần thông đã rốt ráo

Ðức Phật sống đến bốn vạn tuổi

Thế giới quốc độ rất nghiêm tịnh

Cõi Diêm phù đề có hai vua

Tên là Ðại Lực, Kiên Cố Lực

Lãnh thổ của hai vị vua này

Mỗi vua thống lãnh nửa Diêm phù

Phật sanh trong nước vua Ðại Lực

Các Thắng nhân thiên dâng cúng dường

Nhà vua tịnh tín nơi đức Phật

Cung kính cúng dường ngót ngàn năm

Vô lượng dân chúng học theo vua

Cúng dường đức Như Lai các thứ

Chỉ vì thế tài phi pháp cúng

Phật và Thanh văn đều đầy đủ

Bấy giờ Thế Tôn mới nghĩ rằng:

“Ta nói pháp này để bỏ dục

Sẽ khiến nhà vua sanh nhàm chán

Ở trong pháp ta mà xuất gia”.

Khi ấy Nhân Tôn nói kệ rằng:

“Vất bỏ pháp ác là Phật giáo

Tại gia lỗi nhiều đủ các khổ

Tu hành như pháp là cúng Phật”.

Khi vua nghe nói kệ như vậy

Ðến chỗ không nhàn nghĩ như vầy:

“Nay ta không thể ở gia đình

Mà làm pháp cúng dường tối thắng”.

Liền bỏ ngôi vua như nhổ dãi

Cùng với tám vạn các quyến thuộc

Ðồng lúc đi đến chỗ đức Phật

Ðầu mặt đảnh lễ đứng trước ngài

Phật biết tâm họ đều ưa thích

Nên nói định tịch diệt khó thấy

Họ nghe ái kính và vui mừng

Mọi người hoan hỷ liền xuất gia

Khi xuất gia rồi với định này

Ðọc tụng, thọ trì rộng phân biệt

Thứ lớp trong số hai ức kiếp

Chưa từng đọa lạc ba ác đạo

Vị ấy nhờ các thiện nghiệp này

Ðược thấy trăm ức các Như Lai

Ở trong Phật pháp thường xuất gia

Tuyên thuyết thắng Tam muội như vậy

Về sau họ sẽ được thành Phật

Ðồng hiệu: Kiên Cố Ðại Tinh Tấn

Lợi ích vô lượng ức chúng sanh

Sau nhập Niết bàn như lửa tắt

Vào thuở xa xưa vua Ðại Lực

Thành Phật từ lâu hiệu Trí Dũng

Lợi ích vô lượng trăm ức chúng

Chứng Bồ đề rồi nhập Niết bàn

Ðã nghe lợi ích lớn như vậy

Mạt thế trì kinh Phật khen ngợi

Nếu hay phụng trì Phật pháp tạng

Họ sẽ mau thành nhân trung thượng.

Này đồng tử! Ðó là Bồ tát ma ha tát vì yêu thích định này nên phải tu tập định này trước tiên. Này đồng tử, vì sao Bồ tát đối với Tam muội này phải tu trước tiên?

Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát dùng tâm đại bi làm đầu. Nếu Phật ở tại thế hay Phật đã diệt độ, thường xuyên cúng dường, đó là: vòng hoa, hương bột, hương xoa, dù lọng báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh. Nhờ thiện căn này đều đem hồi hướng Tam muội như vậy. Lại không mong cầu các việc khác, mà để cúng dường Phật, không cầu sắc đẹp, không cầu tiền của, không vì sanh lên trời, không cầu quyến thuộc chỉ nhớ pháp Tam muội này. Bồ tát ấy vẫn ở trong pháp, không thấy có Phật, huống lại ngoài pháp mà thấy có Phật!

Cho nên, này đồng tử, đó là cúng dường Phật chân chánh mà cũng không thấy có Phật để thành, không chấp ngã tưởng, không cầu quả báo. Bồ tát ấy Tam luân thanh tịnh, dùng vòng hoa, hương bột, hương xoa, phan, lọng, dù báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh ... cúng dường đức Như Lai để hồi hướng A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Nhờ thiện căn này nên được công đức không thể nghĩ bàn, quả báo không thể nghĩ bàn. Ðược Tam muội này nên mau thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nếu ai dâng hương Vô biên trí

Hay được vô lượng quả báo hương

Trong ngàn vạn kiếp lìa đường ác

Hoàn toàn không có các xú uế

Trong ngàn vạn kiếp hành thắng hạnh

Cúng dường trăm vạn ức Như Lai

Thành Phật đạt được thắng giới hương

Nếu lại hiểu rõ không chúng sanh

Thí hương, nhận hương không cả hai

Nếu hay khởi tâm thí như vậy

Sẽ được nhẫn thắng thuận nhu nhuyến

Nếu ai tiến lên tu nhẫn này

Bị người cắt thân giống như trước

Trong ngàn vạn ức hằng sa kiếp

Mà tâm kiên cố không thối chuyển

Vì sao mà được tên là Nhẫn?

Vì sao lại gọi là tùy thuận?

Vì sao được gọi Bất thối chuyển?

Vì sao lại gọi là Bồ tát?

Tự tánh hân hoan không ngã chấp

Vì không ngã tưởng không phiền não

Hay biết các pháp đều tận diệt

Do nhân duyên này gọi là Nhẫn

Ðiều chư Phật học, tùy thuận học

Người trí như pháp thường tu hành

Biết pháp chư Phật không nghi hoặc

Cho nên được gọi là tùy thuận

Nếu tu hành lúc đời có ma

Hiện làm thân Phật nói lời rằng:

–Phật đạo khó được làm Thanh văn

Không hẳn tín thọ gọi Bất thối

Giác ngộ các chúng sanh ác kiến

Họ không thể chứng đạo cam lồ

Khuyên bỏ ác đạo, trụ thiện đạo

Cho nên được gọi là Bồ tát.

Người nhẫn trụ nơi đạo tùy thuận

Nhờ không ngã pháp khiến khai ngộ

Cho đến trong mộng không khởi niệm

Há có tưởng chúng sanh, thọ mạng.

Nếu ma vô lượng như hằng sa

Hóa làm thân Phật đến chỗ ta

Ðều nói trong thân có “Hằng ngã”

Liền nói “Vô ngã” người phi Phật

Nhờ trí liễu đạt các pháp Không

Biết rồi không sống cùng phiền não

Do hý luận nên nói là Có

Thấy rồi tịch diệt sống thế gian

Thí như người đời đã sanh con

Tùy ý của mình đặt tên gọi

Tìm tên khắp nơi cũng không có

Nên biết tên ấy không chỗ đến

Vì đặt tên Bồ tát như vậy

Bồ tát khắp nơi không thể tìm

Cho đến thật tế cầu không được

Người biết tên Bồ tát như vậy

Giả như trong biển đốt lửa cháy

Bồ tát không hề khởi thân kiến

Bồ tát được trụ sơ phát tâm

Ðoạn sạch ác kiến, hết phiền não

Không thấy có các pháp sanh diệt

Gọi là “Chúng sanh” và “Thọ mạng”

Thể các pháp không giống như huyễn

Việc này ngoại đạo không thể biết.

Nếu sanh tham trước việc ăn uống

Khởi tâm yêu tiếc nơi y bát

Cùng với trạo cử và khinh tháo

Thì không thể biết Phật Bồ đề

Ham thích ngủ nghỉ và lười biếng

Gian ngụy, hung bạo không thu nhiếp

Không lòng tịnh tín nơi chư Phật

Thì không thể biết Phật Bồ đề.

Hủy phá giới cấm không hổ thẹn

Ở trong Phật pháp không uy tín

Không kính các phạm hạnh đồng tu

Thì không thể biết Phật Bồ đề.

Không hủy tịnh giớihổ thẹn

Ở trong Phật pháp rất ưa thích

Hay cung kính người đồng phạm hạnh

Thì mới biết được thắng Bồ đề.

Niệm xứ chính là cảnh giới Phật

Hoan hỷ chính là giường, ngọa cụ

Lấy thiền làm cơm, định làm canh

Như vậy mới biết Phật Bồ đề.

Vô ngã, nhẫn là chỗ kinh hành

Ở trong rừng trống hành chánh niệm

Thất giác là hương hoa khả lạc

Ngửi xong liền thành đạo Vô thượng.

Thể đạo Bồ tát đã tu hành

Không phải việc làm của người khác

Gọi là Thanh vănDuyên giác

Chỉ có người trí không tham đắm

thọ mạng ta rất lâu dài

Như cát sông Hằng vô lượng kiếp

Ðức của Phật không thể nói hết,

trí huệ Như Lai vô biên

Nếu nghe lợi ích lớn như vậy

Không sợ những điều Thế Tôn nói

Mau tự dạy người giữ định này

Ðược Bồ đề Vô thượng không khó.

Này đồng tử! Cho nên Bồ tát ma ha tát phải biết nhập vào ba pháp nhẫn một cách khéo léo. Ðó là biết nhẫn thứ nhất, nhẫn thứ hai và nhẫn thứ ba. Trong nhẫn này phải biết một cách khéo léo. Lại đối với trí ấy cũng phải biết một cách khéo léo. Vì sao vậy? Nếu Bồ tát ma ha tát đối với trong Nhẫn trí mà biết một cách khéo léo thì Bồ tát ma ha tát ấy mau được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Cho nên, này đồng tử, Bồ tát ma ha tát nếu cầu mau chứng A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề thì cần phải thọ trì ba môn pháp nhẫn này, thọ trì rồi phân biệt, nói rộng cho người khác nghe, làm lợi ích an lạc chư thiênloài người.

Bấy giờ, đức Thế Tônđồng tử Nguyệt Quang liền nói câu kệ tụng pháp môn nhập vào ba nhẫn này:

Ðối với chúng sanh không tranh cãi

Miệng không nói ta lời vô ích

Thường hay an trụ pháp lợi sanh

Gọi đó tên là Nhẫn đầu tiên.

Biết tất cả pháp giống như huyễn

Liền đối với tướng không nắm giữ

Hay ở trong trí không tăng giảm

Cho nên gọi là Thắng nhẫn đầu

Ðã tu học các Tu đa la

Trí và khéo nói hằng tương ưng

Không nghi trí vô lượng của Phật

Gọi đó tên là Thắng nhẫn đầu.

Nếu nghe tất cả, khéo thuyết pháp

Giống như Phật thuyết không có nghi

Hay tin tất cả, các pháp Phật

Gọi đó tên là Thắng nhẫn đầu.

Với kinh liễu nghĩa thường tuyên đọc

Như điều Phật nói mà diễn thuyết

Nếu nói: ngã, nhân và chúng sanh

Liền biết phương tiệntiếp dẫn

Các dị kiến của các ngoại đạo

Với họ, tâm Bồ tát không đọng

Lại đối vơi họ thêm xót thương

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.

Các đà la ni đến trước mặt

Với môn tổng trì không nghi hoặc

Những lời nói ra đều chân thật

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.

Giả sử tướng bốn đại chuyển biến

Ðó là đất, nước, gió và lửa

Với Bồ đề Phật vẫn không lùi

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.

Có các nghề hay ở thế gian

Bồ tát thảy đều khéo tu học

Không thấy có người giỏi hơn mình

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Sức Xa ma tha được điều phục

Núi Tỳ Bà xá Na bất động

Tất cả chúng sanh không thể khinh

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Những lời nói ra thường tại định

Ði, dưng, nằm, ngồi hằng Tam muội

Chánh định kiên cố đến bờ kia

Gọi là tướng Thắng định thứ ba.

Trụ nơi chánh định được thần thông

Ðến nhiều cõi Phật để thuyết pháp

Bậc trí, sức thần túc không giảm

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Nếu khi tu tịch định như vậy

Ðối với tất cả quần sanh khác

Không thể biết ngằn mé tâm họ

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Giả sử các chúng sanh thế giới

Cùng lúc thành Phật diễn nói pháp

Người đó đều hay lãnh thọ hết

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Ðông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương phụ

Hai phương trên dưới cũng như vậy

Ở trong các phương đều thấy Phật

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Ðều hay biến hiện vô lượng thân

Tất cả đều có sắc vàng ròng

Ðến vô lượng cõi để thuyết pháp

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Các cõi Diêm phù thế giới Phật

Tất cả đều thấy hình Bồ tát

Chư thiên và người đều hay biết

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Trong các Phật pháp, chỗ Phật làm

Có các oai nghi của đạo sư

Bậc trí đều hay khéo tu tập

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Có các chúng sanh trong thế giới

Ðều đến khen ngợi Bồ tát này

Bồ tát với họ tâm hân hoan

Là với trí Phật chưa tu học.

Có các chúng sanh trong thế giới

Mắng nhiếc, hủy báng Bồ tát này

Với họ, nếu khởi tâm sân hân

Nên biết trí Phật chưa tu học

Nếu được lợi dưỡng tâm không mừng

Khi bị chống trái không buồn khổ

Tâm mình an trụ giống như núi

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Một là: Nhẫn tùy thuận âm thanh

Hai là: Nhẫn tư duy tùy thuận

Ba là: Nhẫn tu tập vô sanh

Học ba Nhẫn này được Bồ đề

Nếu đối với Tam Thắng nhẫn này

Bồ tát nào có thể đắc được

Thiện Thệ khi thấy Bồ tát ấy

Liền thọ ký Vô thượng Bồ đề.

Nếu ai một mình nghe thọ ký

Số ức chúng sanh không nghĩ bàn

Ðều phát tâm Vô thượng Bồ đề

Ta cần phải làm Nhân trung tôn

Nghe nói tiếng thọ ký như vậy

Tức thời đại địa sáu chấn động

Hào quang chiếu khắp mười phương cõi

Mưa hoa thắng diệu nhiều vô lượng

Nếu đối ba thắng nhẫn như vậy

Chỉ có Bồ tát mới đạt được

Lại không còn thấy có chúng sanh

Nơi đó khởi diệt cũng như vậy

Nếu với ba thắng nhẫn như vậy

Chỉ có Bồ tát mới được vậy

Ðã già, hiện già đều không thấy

An trú trong pháp được như vậy

Bồ tát biết rõ các thứ pháp

Thể tánh không tịch giống như huyễn

“Không” ấy cũng lại chẳng sanh diệt

Vì thể các pháp vốn không tịch

Nếu có chúng sanh đến cung kính

Lễ bái, tôn trọngcúng dường

Với họ Bồ tát không yêu riêng

Vì thâm đạt thể tánh thế gian

Nếu có chúng sanh lại đánh mắng

Với họ, Bồ tát không khinh ghét

Lại khởi lòng từ với người ấy

Vì muốn khiến mình được giải thoát

Nếu dùng dao gậy và ngói đá

Với họ trong lòng không tức giận

An trụ trong pháp nhẫn vô ngã

Bồ tát biết rõ các thứ pháp

Thể tánh không tịch, giống như huyễn

Nếu hay an trụ trong pháp này

Vì các nhân thiên đã cúng dường

Có người tay cầm dao bén nhọn

Cắt đứt từng phần cơ thể ta

Tâm hay nhẫn chịu không tức giận

Thêm lớn tình thương, trước không hoại

Khi dùng dao cắt từng chi tiết

Bồ tát liền sanh ý nghĩ này:

“Nếu ngươi chua chứng đạo Bồ đề

Ta nguyện chớ chứng được Niết bàn”.

Nhẫn lực như vậy rất vô thượng

Vì nhờ an trụ nhẫn vô ngã

Là đai danh xưng các Bồ tát

Tu tập vô lượng na do kiếp

Lại hơn số ấy như hằng sa

Vẫn chưa thể chứng được Bồ đề

Ngay trong lúc đó tu hạnh Phật

Huống lại giác trí đâu nói được

Dù nói ức kiếp bất tư nghì

Ðức hiệu của ngài vô cùng tận

Khéo an trụ nơi nhẫn vô ngã

đại danh xưng các Bồ tát

Nếu muốn hay biết được Bồ đề

Cần phải trụ nơi diệu trí tụ

Nếu tu pháp nhẫn chư Phật dạy

Ðược Thắng Bồ đề sẽ không khó.

Bấy giờ, đức Phật bảo đồng tử Nguyệt Quang:

–Vào thời quá khứ rộng lớn lâu xa vô lượng vô số không thể nghĩ bàn, vượt hơn A tăng kỳ kiếp, khi ấy có đức Phật tên là Vô Sở Hữu Khởi Như Lai, bậc Ứng chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời. Sao gọi là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, bậc Ứng chánh biến tri?

Này đồng tử! Khi đức Phật này sanh ra, ngài bay trong hư không cao đến bảy cây đa la, bước bảy bước mà nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu! Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”. Tiếng ngài vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Khi ấy thần đất dần dần báo cho nhau đến trời Phạm thiên rằng: “Trong thế giới này có Phật ra đời, hiệu là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, bậc Ứng chánh biến tri. Lúc ngài mới sanh, ở trên hư không, bước đi bảy bước nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.

Này đồng tử! Do nhân duyên đó nên hiệu của Phật là Vô Sở Hữu Khởi. Khi đức Phật ấy thành chánh giác, tất cả cây cối, rừng rậm, dược thảo đều phát ra tiếng nói: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.

Này đồng tử, thế giới lúc ấy đều phát ra các âm thanh cũng nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.

Này đồng tử, bấy giờ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi khi đang thuyết pháp có một vị vương tử tên là Tư Duy Ðại Bi, hình mạo đoan chánh, ai cũng yêu thích, tâm hành điều hòa, nhu nhuyến.

Này đồng tử, khi ấy Vương tử đi đến chỗ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, đảnh lễ dưới chân ngài, nhiễu quanh ba vòng, lui về ngồi một chỗ. Bấy giờ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi biết Vương tử Tư Duy Ðại Bi thâm tâm ưa thích. Ngài liền nói:

–Tam muội Vô hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp này.

Vị Vương tử nghe cong, được tâm tịnh tín, xuất gia hành đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa. Khi đã xuất gia, vương tử đói với Tam muội này đọc tụng, thọ trì, vì người khác phân biệt hiển thị rộng rãi. Nhờ thiện căn này nên vương tử ấy trong hai mươi kiếp không đọa ác đạo, cứ trong mỗi kiếp gặp được hai ức đức Phật, hơn hai mươi kiếp thì được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Tư Thiện Nghĩa, bậc Ứng Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời.

Này đồng tử, ngươi nên quán thấy Tam muội này có oai lực ấy, hay khiến cho Bồ tát chiêu cảm được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Này đồng tử, Bồ tát ma ha tát nên an trụ trong pháp Nhẫn sâu ấy. Vì sao Bồ tát ma ha tát hay an trụ trong pháp Nhẫn sâu?

–Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát nên quán như vầy: tất cả pháp giống như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không. Nên biết như vậy.

Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát nếu quán như thật về tất cả pháp như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không. Ðó gọi là Bồ tát ma ha tát an trụ Nhẫn sâu.

Nếu thành tựu được Nhẫn sâu, Bồ tát đối với pháp nhiễm thì không nhiễm, pháp sân thì không sân, pháp si thì không si. Vì sao vậy? Vì Bồ tát này không thấy nơi pháp, cũng vô sở đắc, không thấy người ô nhiễm, không thấy nghiệp ô nhiễm, không thấy người sân, không thấy việc sân, không thấy nghiệp sân, không thấy người si, không thấy việc si, không thấy nghiệp si.

Bồ tát ma ha tát đối với pháp như vậy đều vô sở hữu , cũng vô sở đắc. Ðó là hoặc nhiễm, hoặc sân, hoặc si. Bồ tát ấy nhờ vô sở kiến, liền không bị nhiễm, không sân, không si. Bồ tát ấy như thật không nhiễm, không sân, không si, nên tâm không điên đảo, được gọi là định, gọi là không hý luận, gọi là đáo bỉ ngạn, gọi là đất bằng, gọi là đến chỗ vô úy, gọi là thanh lương, gọi là trì giới, gọi là bậc trí, gọi là bậc huệ, gọi là phước đức, gọi là thần túc, gọi là nhớ nghĩ, gọi là thọ trì, gọi là trí huệ, gọi là người ra đi, gọi là người xấu hổ, gọi là người tín nghĩa, gọi là người công đức đầu đà, gọi là người không đắm trước nữ sắc, gọi là người không nhiễm trước, gọi là bậc ứng cúng, gọi là người lậu tận, gọi là người tự tại không phiền não, gọi là người tâm giải thoát, gọi là người huệ giải thoát, gọi là người điều phục, gọi là Ðại long, gọi là việc làm đã xong, gọi là không còn gì để làm nữa, gọi là xả bỏ gánh nặng, gọi là đã được tự lợi, gọi là sạch hết hữu kết, gọi là nương chánh giáo, tâm khéo giải thoát, gọi là đến tất cả tâm tự tại, gọi là Sa môn, gọi là Bà la môn, gọi là người tắm rửa, gọi là người đã qua sông, gọi là bậc minh liễu, gọi là người nghe, gọi là Phật tử, gọi là Thích tử, gọi là người vất bỏ gai góc, gọi là người vượt qua hầm hố, gọi là người nhổ tên độc, gọi là người không nóng, gọi là người không còn bụi bặm, gọi là Tỳ kheo không ngăn che trói buộc, gọi là trượng phu, gọi là thiện trượng phu, gọi là thắng trượng phu, gọi là đại trượng phu, gọi là sư tử trượng phu, gọi là Ðại long trượng phu, gọi là Ngưu vương trượng phu, gọi là khéo điều phục trượng phu, gọi là Dõng kiện trượng phu, gọi là trượng phu gánh vác, gọi là tinh tấn trượng phu, gọi là hung dữ trượng phu, gọi là Như hoa trượng phu, gọi là Liên hoa trượng phu, gọi là Phân đà lợi trượng phu, gọi là Ðiều ngự trượng phu, gọi là Mặt trăng trượng phu, gọi là Mặt trời trượng phu, gọi là tác nghiệp trượng phu, gọi là Lưỡng túc trung thượng, gọi là tận cùng bờ trí, gọi là hơn bậc đa văn tối thắng, gọi là đã tu phạm hạnh, gọi là việc làm rốt ráo, gọi là không nhiễm tất cả điều ác.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ tụng:

Như trước, sau cũng vậy

Dụ các pháp cũng thế

Khi tai hoại, kiếp tận

Thế giới trở thành không

Xem khởi tạo thế gian

Ðều trụ ở trên nước

Như dưới trên cũng vậy

Các pháp cũng như thế

Như bầu trời không mây

Bỗng nhiên nổi âm u

Biết nó từ đâu sanh

Các pháp cũng như thế

Như Lai Niết bàn rồi

Ý tưởng thấy hình Phật

Như trước sau cũng vậy

Các pháp cũng như thế

Giống như đống bọt nước

Bập bềnh trên dòng thác

Thấy nó không chắc thật

Các pháp cũng như thế

Như trời mưa trên nước

Bọt nước nổi nơi nơi

Sanh đâu liền diệt đó

Các pháp cũng như thế

Thí như trong ngày xuân

Ánh sáng chiếu rực rỡ

Bóng nắng giống như nước

Các pháp cũng như vậy.

Như cây chuối ẩm ướt

Nếu chặt tìm gỗ chắc

Trong ngoài đều không chắc

Các pháp cũng như vậy.

Như huyễn, tạo nhiều thân

Là nam, nữ, voi, ngựa

Tướng ấy chẳng chơn thật

Các pháp cũng như thế.

Thí như có đồng nữ

Ðêm nằm mộng sanh con

Sống mừng, chết ưu khổ

Các pháp cũng như vậy.

Như người mộng hành dâm

Tỉnh giấc chẳng thấy gì

Ngu si trọn chẳng được

Các pháp cũng như vậy.

Như trăng sáng bầu trời

Bóng hiện nơi ao sạch

Mặt trăng đâu vào nước

Các pháp cũng như vậy.

Như người tự ưa thích

Lấy kiếng soi mặt mình

Bóng gương bất khả đắc

Các pháp cũng như vậy.

Thấy ngựa hoang như nước

Người ngu muốn đến uống

Không thật, sao đỡ khát!

Các pháp cũng như vậy.

Như người ở hang núi

Tiếng ca khóc, nói cười

Tiếng vang bất khả đắc

Các pháp cũng như vậy.

Như bảng cấm các nước

Thiện ác theo đó làm

Ngôn giáo chẳng đến đó

Các pháp cũng như vậy.

Như người uống rượu say

Thấy mặt đất xoay chuyển

Kỳ thật đất chẳng động

Các pháp cũng như thế.

Pháp duyên khởi không có

Không có lại chẳng có

Phân biệt cái không có

Cho nên khổ không diệt.

Phân biệt sự có không

Tranh luận tịnh, bất tịnh

Xa lìa hai bên ấy

Bậc trí trụ trung đạo

Quán thân lúc ban đầu

Với thân tưởng không thân

Nếu hay biết như vậy

Chính là tánh vô vi

Mắt, tai, mũi vô hạn

Lưỡi, thân, ý cũng vậy.

Nơi căn mà phân biệt

Với thánh đạo vô dụng

Với các căn vô hạn

Thể ngoan, không, vô ký

Muốn mong vui Niết bàn

Phải tu nghiệp Thánh đạo

Diễn thuyết Tứ niệm xứ

Ngu bảo thân chứng mạn

Thân chứng không ngã mạn

Vì hay diệt các mạn

Diễn thuyết về Tứ thiền

Ngu bảo đắc thiền hành

Người diệt mê không mạn

Nhờ huệ quán đoạn mạn

Diễn thuyết bốn chơn đế

Kẻ ngu bảo thấy đế

Thấy thật thì không mạn

Thế Tôn nói như vậy.

Tuy đọc hết các kinh

Ý nghe nhiều, hủy giới

Nghe nhiều không thể cứu

phá giới, khổ địa ngục

Tự thị, ý trì giới

Mà không học Ða văn

Quả báo trì giới hết

Trở lại thọ các khổ

Ða văn cùng trì giới

Cả hai không ỷ lại

Khinh mạn người phước mỏng

Do đó sanh các khổ

Mạn là gốc các khổ

Các đạo sư đã nói

Có mạn, khổ tăng trưởng

Lìa mạn, khổ liền diệt.

Ðời tuy tu Tam muội

Mà không lìa ngã tưởng

Lỗi lầm lại khởi lên

Giống như ưu Ðiệt Ca

Nếu tu sự vô ngã

Trong đó sanh vui mừng

Là nhân vui Niết bàn

Chẳng do pháp thế gian

Như bị lũ giặc vây

Vì sống muốn chạy trốn

Không chân, không thể chạy

Liền bị giặc giết hại

Vậy, kẻ si phá giới

Muốn ra khỏi thế gian

Không giới, không thể đi

Bị già, bệnh giết chết

Như giặc mạnh cầm đao

Cướp giật hại khắp nơi

Phiền não cũng như vậy

Hại thiện căn chúng sanh

Nhiều người nói Ấm không

Không biết ấm vô ngã

Nếu hỏi Ấm có không?

Nhăn mày, giận đối đáp

Nếu biết Ấm vô ngã

Nghe chửi, tâm không giận

Có hoặc buộc, thuộc ma

Ngộ, không, không phẩn nộ

Như người bệnh, thân đau

Nhiều năm khổ bức não

Bệnh này qua nhiều năm

Tìm thuốc muốn chữa trị

Người ấy hỏi nhiều nơi

Liền gặp được thầy hay

Xót thương cho thuốc tốt

Bảo uống, bệnh không lành

Không phải lỗi thầy thuốc

Nên biết lỗi người bệnh.

Nơi pháp này xuất gia

Ðọc tụng Ðạo phẩm giáo

Nói và làm không giống

Làm sao được giải thoát?

Thể tánh chư pháp không

Con Phật quán việc ấy

Tất cả hữu đều không

Ngoại đạo không hề có

Trí không cạnh tranh ngu

Dũng mãnh nên lìa bỏ

Bị mắng không báo lại

Pháp ngu ngươi chớ ghét

Trí, không ngu, qua lại

Khéo biết do tánh tập

Tuy lại cùng thân nhau

Sau trở thành oán ghét

Trí không thân với ngu

Biết chí họ không bền

Thể tánh tự phá hoại.

Ðừng làm bạn với ngu

Nếu nghe lời như pháp

Người hủy giới không vui

Tự nhiên khởi sân hận

Nên biết là người ngu

Người ngu hợp người ngu

Như phân trộn với phân.

Trí với trí cùng ở

Như hợp hai đề hồ

Không quán lỗi thế gian

Nên không tin nhân quả

Không tin lời Phật dạy

Ở đời bị hoại ly

Bần cùng không của cải

Không sống, cầu xuất gia

Pháp ta, đã xuất gia

Lại tham trước y bát

Họ gần ác tri thức

Phá hủy cấm giới ta

Không tự quán việc mình

Trong tâm không an trú

Ngày đêm sống phi pháp

Làm ác không biết chán

Thân tâm luôn phóng dật

Miệng thường nói lời thô

Luôn rình mò lỗi người

Thất rồi nói người khác

Tự che lỗi của mình

Là tướng rất ngu si.

Người ngu ham ăn uống

Vẫn không tâm báo đền

Ðược món ăn thượng diệu

Mà không đúng với pháp

Lại ăn vào bị hại

Như voi ăn sen bùn

Tất cả món thượng vị

Người trí tuy ăn vào

Căn tịch tịnh không tham

Như pháp chọn món ăn

Tuy có người trí sáng

Hỏi ngu đến từ đâu?

Với họ, không thân luyến

Chỉ khởi lòng xót thương

Người trí lợi kẻ ngu

Kẻ ngu làm suy tổn

Ta thấy lỗi này rồi

Như nai ở chỗ trống

Người trí thấy lỗi này

Không ở chung với ngu

Nếu qua lại với ngu

Mất cả trời Bồ đề

Người trí thường từ bi

Từ bi hợp với hỷ

Thường xả tất cả hữu

Tu định, chứng Bồ đề

Ngộ đạo, trừ lo sợ

Thấy người già chết khổ

Nên khởi lòng xót thương

Nói lời hợp chân nghĩa

Nếu người biết Phật pháp

Lìa ngôn thuyết thánh đế

Nếu ai nghe pháp này

Lìa tham thực, thanh thương.

Này đồng tử, về ý nghĩa đó, muốn được thành tựu hạnh kiên cố, Bồ tát nên học như vậy. Vì sao? Này đồng tử, nhờ hạnh kiên cố nên Bồ tát đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề không khó khăn, huống gì là Tam muội này!

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang bạch đức Phật:

–Hy hữu thay! Thế Tôn, Như Lai, bậc Ứng chánh biến tri đã khéo nói về hạnh kiên cố này để nhập vào pháp Tam muội ấy. Ngài đã khéo nói khéo kiến lập điều tất cả Bồ tát phải học. Ðó chính là tất cả hành xứ của Như Lai, không phải là địa vị của Thanh văn, Bích chi Phật làm được, huống chi là ngoại đạo!

Bạch Thế Tôn, nay con sẽ trụ hạnh kiên cố này. Vì sao? Vì con muốn như Phật đã học. Nay con muốn học vì con muốn biết A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề ấy. Con muốn phá hoại ma Ba tuầnquyến thuộc của chúng. Con muốn giải thoát tất cả khổ cho chúng sanh. Cúi mong đức Như LaiTỳ kheo tăng cùng các quyến thuộc chứng minh chấp nhận sự thỉnh cầu của con, thương xót con.

Bấy giờ đức Như LaiTỳ kheo tăng im lặng chấp nhận. Ðồng tử Nguyệt Quang thỉnh PhậtTỳ kheo tăng sáng ngày mai đến thọ thực và được Phật chấp nhận.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang đã được đức Như Lai chấp nhận sự cúng dường nên vui mừng nhảy nhót, rất đổi hân hoan, liền từ tòa đứng dậy, trạch vai áo bên hữu, đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh bên hữu ba vòng rồi cáo từ ra về.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang hướng về thành Vương xá trở về nhà mình. Về đến nhà, liền ngay đêm ấy chuẩn bị các thứ ẩm thực thượng vị nhiều vô số. Tại thành Vương xá, nơi nơi đều treo lụa năm màu, rải các loại hoa, treo phướn lọng, đốt các hương thơm, bố thí các mùng màn, quét sạch đường sá, vứt bỏ ngói gạch. Tại ngã tư đường rưới nước làm cho sạch sẽ, rải tung bột chiên đàncác loại quý báu khắp nơi. Lại tung các loại hoa, các thứ hao báu xen kẻ trên mặt đất giống như hình vẽ. Lại dùng vô lượng vật dụng chạm trổ, trang nghiêm các nẻo đường. Trong thành, khắp nơi đều có hoa Ưu bát la, hoa Câu vật đà, hoa Bát đầu ma, hoa Phân đà lợi. Ở trong nhà toàn dùng ngưu đầu chiên đàn rải quanh, dùng các thư trang nghiêm, trương các trướng báu. Vì đức Phật Thế Tôn, đồng tử đặt những món ăn thượng vị.

Khi đồng tử làm những việc trang nghiêm thành quách, đường sá, nhà cửa như vậy, bày các vật cúng dường suốt đêm đầy đủ, đến lúc sáng sớm, cùng với tám mươi na do tha Bồ tát, Bồ tát A Dật Ða làm thượng thủ. Các vị ấy là: Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Ðại Thế Chí, Bồ tát Hương Thượng, Bồ tát Bảo Tràng, Bồ tát Man Thắng, Bồ tát Ðồng Tử Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Dũng Kiện Quân, Bồ tát Diệu Tý, Bồ tát Bảo Hoa, Bồ tát Bất Hư Hiện. Các Bồ tát ma ha tát như vậy ... đối với các Bồ tát khác là bậc thượng thủ, cùng các chúng Ðại Bồ tát như vậy, trước sau vây quanh, ra khỏi đại thành Vương xá, đến chỗ đức Như Lai, sửa lại y phục, đầu mặt đảnh lễ, nhiễu quanh bên hữu ba vòng, bạch đức Phật:

–Thưa Thế Tôn, đã đến giờ thọ thực, trai soạn đã dọn xong, mong ngài hạ cố vào thành Vương xá, đến nhà con, vì lòng xót thương, thọ nhận sự cúng dường của con.

Bấy giờ đức Thế Tôn, trước đó đã đắp y, cầm bát, cùng Ðại Tỳ kheo ngót đến trăm ngàn vị, vô lượng trăm ngàn ức na do tha Bồ tát ma ha tát, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già ... vô lượng trăm ngàn vị đồng tử đã thiết lễ cúng dường, cung kính tán thán đại oai lực của Phật, đại thần túc của Phật, đại biến hiện của Phật, đại oai nghi của Phật, đã phóng ra trăm ngàn vạn ức na do tha ánh sáng, tấu lên trăm ngàn loại kỹ nhạc, mưa các thứ hoa trời. Vì thọ nhận sự cúng dường của đồng tử Nguyệt Quang, nên đức Phật vào thành Vương xá.

Ðức Phật với sự tích tập vô lượng thiện căn từ lâu, đưa bàn chân mặt có bánh xe ngàn căm bước vào thành. Khi ấy hiện ra vô số sự thần biến chưa từng có. Chư Phật Như Lai, nếu khi vào thành, pháp đều như vậy là hiện sự thần biến. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà nói.

Khi đức Phật vào thành, có thần đức nói kề tụng rằng:

Ðại tiên vào thành vua

Chân ngài bước vào thành

Oai lực động đại địa

Chúng sanh đều hoan hỷ

Các người thiếu ăn uống

Ðược lìa khổ đói khát

Trong tâm đều no đủ

Nhờ Phật vào của thành

Người điếc, đui, câm, ngọng

Kẻ bần cùng phước mỏng

Các căn đều đầy đủ.

Nhờ Phật vào cửa thành

Ngạ quỷ cõi Diêm la

Ăn đờm, mủ, phân, tiểu

Ðược món ăn của trời.

Nhờ Phật bước vào thành

Các núi và núi báu

Các thứ rừng hoa quả

Cong mình hướng về ngài.

Nhờ Phật bước vào thành

Biển cả, thành, tụ, ấp

Ðất có sáu chấn động.

Không bức não chúng sanh.

Nhờ Phật bước vào thành

Người, trời, Cưu bàn trà

Hoan hỷ giữa không trung

Cầm lọng báu che Phật

Phát tâm đại Bồ đề

Các âm nhạc không đánh

Tự nhiên phát tiếng hay

Mọi ngươi đều hoan hỷ

Nhờ Phật bước vào thành

Trăm ngàn vạn ức cây

Dâng Phật đủ hao quả.

Chư thiên đứng giữa không

Vật cúng khác loài người

Trăm ngàn các Ngưu vương

Vua thú, sư tử rồng

Voi, ngựa đều cúi lạy.

Nhờ Phật bước vào thành

Ðại vương trong các nước

Thấy Thế Tôn Thập lực

Ðạo sắc thắng diệu

Hoan hỷ nên đảnh lễ

Mọi người tâm mừng khen

Hoặc tung các diệu hoa

Chấp mười ngón tay lại

Khen Phật là đại bi

Hoặc tung các anh lạc

Ấn Cừ Tý kim ngân

Tung lên trên sư tử (?)

Phát tâm đại Bồ đề

Người nữ dâng tóc vàng

Hoặc rải các hoa thơm

Hoặc cởi vàng, anh lạc

Trang điểm nơi thân thể

Có người tung hoa vàng

Các vật để trang sức

Một lòng dâng cúng hết

Mong cầu các Phật đạo

Dân chúng mặc y đẹp

Hoặc lại rải đảnh châu

Và giăng các lưới báu

Khi Phật vào của thành.

Nếu người bệnh khổ bức

Vì các nổi ưu sầu

Tất cả đều an lạc

Nhờ oai đức đạo sư.

Câu xí la, Anh võ

Khổng tướcTần già

Các chim trong không trung

Phát tiếng hay hòa nhã.

Các chim tâm vui mừng

Khi phát diệu âm này

Người tu hành diệt được

Tham, sân, si, phiền não

Vô lượng ức chúng sanh

Nghe tiếng được thuận nhẫn

Ðược bậc Thánh thọ ký

Vị lai đều thành Phật

Thấy thân Phật Thập lực

Chúng sanh thích trí Phật

Con làm sao để được?

Phật biết muốn thọ ký

Mỗi lỗ chân lông Phật

Phóng trăm ngàn ánh sáng

Chiếu khắp các cõi Phật

Do Phổ Nhãn vào thành

Mặt trời bị lu mờ

Ma ni, Bảo thiên hòa

Các ánh sáng không hiện.

Vì Phật vào cửa thành

Trăm ngàn hoa sen nở

Ngàn cánh ra khỏi bùn

Ðấng Thập lực bước lên

Cùng chúng dạo khắp thành

Ðường đi thật sạch sẽ

Trải toàn bằng hương quý

Khắp thành đốt hương thơm

Mùi thơm thật khả lạc

Ðường sá thật tráng lệ

Trừ khử hết ngói gạch

Nhờ công đức Thập lực

Ðủ các thứ hương hoa

Trăm ngàn ác Dạ xoa

Thấy thân Phật sắc vàng

Khởi tâm đại bi mẫn

Tịnh tâm quy y Phật

Các thiên cung trống không

Ðều đến chiêm ngưỡng Phật.

Hư không mưa các hoa

Khi Phật vào thắng thành

Nếu có ai rải hoa

Chỗ đức Nhân thiên

Thành lọng hoa che Phật

Trang nghiêm thân tốt đẹp

Người, trời và Tu la

Thấy Phật bậc Thập lực

Tâm hoan hỷ vui mừng

Chưa từng có nhàm chán

Bên mặt, trăm ngàn Phạm

Bên trái trời Ðế thích

Vô số trời không trung

Cung kính bậc Tam giới

Khi Phật thần biến xong

Khai thị thắng diệu pháp

Trăm ngàn chúng nghe xong

Phát tâm đại Bồ đề

Tướng tốt, hoa làm thân

Như sao đầy bầu trời

Phật đi đường của vua

Như trăng tròn trên trời

Như báu tịnh ma ni

Trong sạch, không tỳ vết

Phóng ánh sáng mười phương

Cõi Phật chiếu cũng vậy

Chúng cư thiên vây quanh

Nhân tôn vào thành vua

Ði trên đất như sẽ

Vào nhà của Nguyệt Quang

Thành quách đều trang nghiêm

Trăm ngàn ức phướn lọng

Chiên đàn rải mặt đất

Tung hoa để trang nghiêm

Ði Phật đi trên đường

Phát lòng thương rộng lớn

Từ miệng tuôn ánh sáng

Tỏa hương mà thuyết pháp

Thấy thân Phật liền vui

Hoan hỷ bất tư nghì

Khi nào chúng ta được

Cúng dường bậc Pháp vương

Vô lượng người phát tâm:

“Sáng mai ta thỉnh Phật

Bậc cứu tế lân mẫn

Rất lâu khó gặp được”.

Hoặc dọn sạch đường thành

Thắng diệu tự trang nghiêm

Ðủ các hoa, anh lạc

Cúng Phật, vì Bồ đề

Hoặc vòng hoa chiêm ba

Bà sư, Mục đa già

Hoặc là giăng vải lụa

Phát chí tâm thuần thắng

Hoặc tại gia tâm tịnh

Y đẹp tự trang nghiêm

Dùng lụa đẹp, các hoa

Cúng dường chúng Tỳ kheo

Với hoa Ưu bát la

Lại tung hoa Diệu kim

Các thứ báu ma ni

Hoặc tung bột chiên đàn

Hiện các việc hy hữu

Không thể tính vô lượng

Khi Phật đi vào thành

Nhiều người phát tâm đạo

Không phiền não thấy đế

Trời Thiên hiện, Thiện kiến

A ca ni ly dục

Tất cả đến xem Phật

Thân ngọt ngào quả lớn

Trăm na do tha chúng

Như ma ni chiếu sáng

Ðều lại chiêm ngưỡng Phật

Vô số Tịnh thiên tử

Và các trời Thiểu tịnh

Vô lượng Tịnh thiên tử

Ðều đến xem Ðại tiên

Các Thiên tử Thiểu quang

trời Vô lượng quang

Các Thiên tử Quang Âm ...

Ðều đến xem đức Phật

Thiên tử trời Phạm phụ

Cùng với trời Phạm chúng

Các định tạng Ðại Phạm ...

Ðều đến xem Thế Tôn

Tha hóa thiên hoan hỷ

Hóa lạc thiên thiện tâm

Chúng Ðâu suất, Diêm ma

Thiên vương Ba mươi ba

Bốn Thiên vương bốn phương

Tài chủ Tỳ Lâu Lặc

Án Nhãn Ðề Lại Tra

Liền đến lễ kính Phật

Ðại Lực vua Dạ xoa

Cùng quyến thuộc tâm tịnh

Thân tộc trên hư không

Mưa các diệu hoa trời

Hằng Túy cầm hoa trời

Nắm các thứ vòng hoa

Cùng quyến tộc tâm mừng

Cúng dường thắng trượng phu

Bách Khí Túc Dạ xoa

Cùng vợ và quyến thuộc

Tự tấu âm nhạc hay

Cúng dường đức Như Lai

Vui mừng say sưa hát

Là vua Khẩn na la

Sống ở cảnh Hương Sơn

Vui mừng đến tập hội

Bà Nhã Chim Bà Lợi

La Hầu, Tỳ Ma Chất

Cùng đại oai đức khác

Mưa các loại vật báu

Nhiều vô lượng La sát

Số đông đang vây quanh

Ðều cầm các diệu hoa

Cung kính tung lên Phật

Ðại long vương A Nậu

Nữ Thiện học âm nhạc

Tấu trăm thứ tiếng hay

Thành tâm cúng dường Phật

Năm trăm Nậu Long tử

Cầu trí Bồ đề rộng

Cùng quyến thuộc vây quanh

Ðều cúng Vô thượng tôn

Long vương A Ba La

Chấp tay hướng về Phật

Cầm trân châu Long thắng

Trên không cúng dường Phật

Long vương Mục Chân Ðà

Nhảy nhót rất vui mừng

Tung các áo thật đẹp

Tịnh tâmcúng dường

Họ khởi tâm cung kính

Nhớ các đức tánh Phật

Các thân quyến vây quanh

Ðều đến khen ngợi Phật

Nan Ðà, Bạt Nan Ðà

Ðức Xoa, Hắc Cù Ðàm

Cùng quyến thuộc đến Phật

Quỳ gối lạy Thiện Thệ

Long vương Y La Bát

Trăm quyến thuộc khóc lóc

Nhớ nghĩ Phật Ca Diếp

Chán ghét sự thọ sanh

Xưa ta mãi nghi hoặc

Phá Tiểu Y Lan Diệp

Nên sanh nơi nạn xứ

Không thể biết Phật pháp

Rất ghét thân rắn này

Muốn mau bỏ loài rồng

Hay biết pháp thanh lương

Ðã đạt được đạo tràng

Hằng ngàn Long vương khác

Hải Long, Ma Na Tư

Ðem áo rồng thượng diệu

Ðến dâng Nhân Trung Tôn

Ðiều Ðạt đôi đá Phật

Dạ xoa hư không nắm

Tên là Kim Tỳ la

Cung kính đến trước Phật

Thành A Tra Dạ xoa

Ðại Dạ xoa Không Thiên

Giao hẹn cùng tập hội

Cúng dường bậc Ðại tiên

Dạ xoa Khôi Mao Châm

A Tra Bà đáng sợ

Tuyết Sơn, Ðà Ða Sơn

Lừa Dạ xoa quy Phật

Các thân hình khác nhau

Mặc áo rách đáng sợ

Quỷ Ða Na Do Tha

Dâng vật quý cúng Phật

Kim sí điểu Thực Hải

Biến thành Bà la môn

Mão báu tự trang nghiêm

Trên hư không lạy Phật

Các thành ở Diêm phù

Tất cả trời Ðại Lâm

Thần của thành đồng đến

Cúng dường Thế gian giải

Vô lượng Lâm thiên đến

Cùng với các thọ thần

Cùng tất cả thần sông

Vân tập đến Pháp vương

Thần núi Phong Nham Lãnh

Trời Ðội Phụ cùng đến

Thần suối với ao hồ

Cùng Hải thần mừng đến

Trời, người, quỷ, tu la

Ca Lâu với Cưu bàn

Ngạ quỷ, Phú đơn na

Ðều đến cúng dường Phật

Chư thiên, chúng tu la

Ly mạn, đều cúng dường

Thấy Phật vào Vương thành

Nhìn mãi mà không chán

Hơn tu Bồ tát hạnh

Cúng dường Phật Thế Tôn

Ngài làm tịnh nghiệp này

Chúng sanh nhìn không chán

Núi Tu di luân thảy

Và các núi Diêm phù

Không thể làm chướng ngại

Chư Phật chiếu sáng cõi

Các biển Ta bà này

Ðất đai đều bằng phẳng

Cõi Phật đều biến khắp

Rải dẫy đầy các hoa

Trăm ngàn các ánh sáng

Phóng dưới chân Pháp vương

Ðịa ngục đều mát mẻ

Trừ khổ được an lạc

Ðấng Thập lực thuyết pháp

Trời, người được tâm tịnh

Vô lượng trăm ngàn chúng

Quyết định nơi Phật đạo

Vô Ðẳng Ðẳng vào thành

Hiện sự thần biến này

Vô lượng trăm ngàn kiếp

Phật nói vãn không cùng

Thắng đức tụ như vậy

Ngưu vương vượt bờ kia

Tất cả đức cứu cánh

Cúi lạy Phật phước điền.

Bấy giờ đức Thế Tôn cùng các Tỳ kheo trước sau vây quanh, đi đến chỗ ở của Ðồng tử Nguyệt Quang, ngồi lên tòa đã đặt sẵn. Các Tỳ kheo thứ lớp ngồi xong, khi ấy đồng tử Nguyệt Quang biết đức Phật, Bồ tát, Tỳ kheo đã ngồi xong, tự tay bưng dọn các món ăn tuyệt hảo. Ðó là: Khư thiền ni, Bồ thiền ni, Lê kha na, Chư xa ni ... lại đem nước uống, dùng thức ăn trăm vị, làm cho đức Như Laiđại chúng được no đủ. Khi thấy chư Tôn đã no đủ, đồng tử vui mừng nhảy nhót, hết sức hân hoan.

Ðức Phật và đại chúng đã thọ thực xong, cất bát, rửa tay. Ðồng tử dùng y giá trị vạn ức dâng lên Như Lai. Chúng Tỳ kheo tùy theo thứ lớp: thượng, trung hay hạ, đồng tử đều thứ lớp dâng cúng. Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang dâng y lên Phật và tăng xong, trạch vai áo bên phải, quỳ gối mặt xuống đất, chắp tay đảnh lễ, đứng trước đức Phật im lặng, nói bài kệ để hỏi đức Thế Tôn:

Bồ tát, bậc trí làm hạnh gì?

Thường hay biết rõ các pháp tánh?

Làm sao thay vào nghiệp đã tạo?

Cúi mong Ðạo sư nói cho con

Làm sao biết được kiếp quá khứ?

Làm sao không vào bào thai nữa?

Làm sao để được chúng không hoại?

Làm sao để được vô lượng biện?

Ðịnh huệ Vô thượng Lưỡng túc tôn?

Như điều con hỏi xin ngài nói

Biết được tâm hạnh các chúng sanh

Với tất cả pháp không còn nghi

Phật biết thể tánh tất cả pháp

Pháp lìa ngôn ngữ dùng ngôn thuyết

Như sư tử hống dã can sợ

Phật hàng ngoại đạo cũng như vậy

Biết việc làm của chúng sanh

Thông đạt các pháp đến bờ kia

Trí huệ vô ngại, cảnh giới tịnh

Cúi mong Thế Tôn nói cho con

Biết đời quá khứvị lai

Với đời hiện tại ngài biết rõ

Trí vô ngại ba đời biết được

Cho nên con hỏi Thích sư tử

Các Phật pháp tất cả ba đời

Thế Tôn Pháp vương đều biết rõ

Với thể tánh pháp khéo giác ngộ

Cho nên con hỏi Ðại trí hải

Hay lìa tất cả lỗi các pháp

Vì hay đoạn trừ tâm ô uế

Cắt đứt tất cả dây si uế

Mong Phật nói cho hạnh Bồ đề

Mà Phật đạt được các pháp tướng

Như tướng sở đắc nói cho con

Con nghe pháp tương như vậy rồi

Nương tướng đã nghe hành Bồ đề

Hành tướng chúng sanh nhiều sai biệt

Con làm hạnh gì để hiểu được?

Mong nói cho con pháp nhập hạnh

Con nhờ nghe được nên mới biết

Tất cả các pháp đều sai biệt

Thế thì không tịch tánh xa lìa

Bồ đề làm sao hay biện chứng?

Mong nói cho con pháp mẫu này

Với tất cả pháp đến bờ kia

Ngôn thuyết pháp cú đã tu học

Chính mình không nghi trừ nghi người

Vì con hiển thị Bồ đề Phật.


QUYỂN 3/10

Bấy giờ đức Thế Tôn biết đồng tử Nguyệt Quang trong lòng thầm nghĩ, nên làm bài kệ để hỏi, bảo đồng tử Nguyệt Quang rằng:

–Nếu Bồ tát cùng tương ưng với một pháp, đều có thể đạt được công đức tối thắng, mau thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Sao gọi là một pháp? –Này đồng tử! Ðó là, nếu Bồ tát đối với thể tánh của tất cả pháp, hiểu biết như thật.

Này đồng tử! Sao gọi là đối với thể tánh tất cả pháp, hiểu biết như thật?

–Ðó là tất cả pháp xa lìa danh tự, xa lìa âm thanh, xa lìa ngôn ngữ, xa lìa văn tự, xa lìa sanh diệt, tướng của nhân, tướng của duyên, tướng của phan duyên. Ðó gọi là Vô tướng, xa lìa nơi tướng, chẳng phải tâm xa lìa nơi tâm mà biết các pháp.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Các pháp chỉ nói một

Ðó là pháp Vô tướng

Là bậc Trí nói ra

Như thậthiểu biết

Nếu nói pháp như vậy

Bồ tát mà biết rõ

Liền được Vô ngại biện

Nói ức Tu đa la

Ðược Ðạo sư gia hộ

Hiển thị nơi thật tế

Không phân biệt giả danh

Không có điều để nói

Dùng một biết tất cả

Dùng tất cả biết một

Tuy có các ngôn thuyết

Nhưng không khởi kiêu mạn

Trong tâm hay biết rõ

Tất cả pháp không tên

Tùy thuận học các tên

diễn thuyết chơn thật

Các âm thanh nghe được

Biết rõ gốc âm thanh

Biết rõ nguồn gốc rồi

Không bị tiếng làm nhiễm

Biết ngằn mé âm thanh

Tướng các pháp cũng vậy

Nếu hay hiểu một pháp

Không còn đi đầu thai.

Tất cả pháp không sanh

Hay rõ Vô sanh này

Biết sanh nói kẻ sanh

Thì hay biết kiếp trước

Nếu đối với kiếp trước

Hay biết tạo nghiệp gì

Nếu thường biết nghiệp tạo

Ðược quyến thuộc kiên cố

Nếu đối “pháp không” này

Bồ tát hay biết rõ

Không có gì không biết

Chẳng phải bờ phiền não

Ðối với chẳng phiền não

Phàm phu vọng phân biệt

Cho nên trong ức kiếp

Mãi lưu chuyển sanh tử

Không thể biết vọng tưởng

Giống như Ðại Ðạo sư

Ngài không tạo ác nghiệp

Nên không đọa ác đạo

Vì các phàm phu này

Không thể biết nghĩa ấy

Mới khởi tâm hủy báng

Như vậy pháp diệt khổ

Các pháp không thể được

Chẳng không các pháp tưởng

Nếu hay biết như vậy

Tưởng ấy cũng không thấy

Ta biết tưởng như vậy

Phàm phu vọng phân biệt

Nơi pháp lìa phân biệt

Người trí không mê hoặc

Ðó là nơi bậc trí

Chẳng phải cảnh giới ngu

việc làm Bồ tát

Gọi không, vô phân biệt.

Ðó là Bồ tát địa

Việc làm của Phật tử

Phật pháp diệu trang nghiêm

Gọi là tịch diệt không

Tất cả Bồ tát này

Ðoạn trừ các hữu tập

Không bị sắc hủy hoại

An trụ nơi Phật tánh

Tất cả pháp không trụ

Vì không có trụ xứ

Nếu ai biết như vậy

Ðược Bồ đề không khó.

Tu Thí, Giới, Văn, Nhẫn

Tập gần thiện tri thức

Nếu ai biết nghiệp này

Mau chứng đạo Bồ đề.

Người này thương được chư thiên kính

Càn thát, Dạ xoa và ma hầu

Rồng, Quỷ, La sát, Khẩn na la

Tất cả thường đến cúng Bồ tát

Hằng được chư Phật hết lời khen

Ðem lại lợi ích các thế gian

Trí huệ tương tục, thích tịch diệt

Bồ tát thắng diệu thương xót thân

Nếu có Bồ tát hay biết không

Lợi ích vô lượng ức chúng sinh

Xử chúng nhu hòa, diễn thuyết pháp

Người nghe ưa thích nên ái kính

Trí huệ rông lớn càng thêm sáng

Nhờ trí huệ này hay thấy Phật

Cũng thấy cõi tịnh diệu trang nghiêm.

Chư Phật thuyết pháp nghe, thọ trì

Biết tất cả pháp như huyễn hóa

Giống như hư không, tự tánh không

Hay biết thể tánhkhông vô

Hay làm như vậy không ô nhiễm

Có ai tu hành Bồ tát hạnh

Trong các sự việc không đắm trước

Biết tất cả pháp như biến hóa

Nhưng với các cõi hiện biến hóa

Hay vì chư Phật làm Phật sự

Thể tánh huyễn pháp không đến đi

Tùy điều mong cầu được lợi ích

Là người hay an trụ Bồ đề.

Hằng nhớ ân tất cả Như Lai

Mong nối giống Phật, không đoạn tuyệt

Hay được thân tịnh diệu sáng rạng

Ðược thành tựu ba mươi hai chủng tướng

Ngoài ra vô lượng thứ lợi ích

Hành thắng Bồ đề, thường kết quả.

Thành tựu đại lực, không thể động

Oai đức các vua không thể bằng

Ðầy đủ phước đức, rất đoan nghiêm

Phước và công đức, oai quang chiếu

Chư Thiên thấy oai không dám nhìn

Là người trí huệ hành Phật pháp

Trụ nơi tâm Bồ đề kiên cố

Cùng các chúng sanh làm thiện hữu

Người ấy không còn các tối tăm

Hiển thị đạo Bồ đề diệu thắng

Lìa đường ngôn ngữ, không còn dục

Chư Pháp tịch diệt như hư không

Có ai hay biết nghiệp như vậy

Thành tựu vô lượng thắng biện tài

Diễn thuyết trăm ngàn tu đa la

Chỉ bày nghĩa vi tế pháp ấy

Bậc trí luôn thành vô ngại huệ

Hay biết thể tánh pháp vi tế

Thường khéo biết chúng sanh tín ấy

Học tập tất cả âm ngôn ngữ

Vì người chỉ bày lý nhân quả

Hay được việc thắng diệu như trên

Giữ đủ lực năng không giảm thiểu

Bậc phạm hạnh vào chúng, không sợ

Hằng nhớ gìn giữ không quên mất

Vì hay khéo ngộ hiểu pháp tánh

Tai không nghe lời không ái ngữ

Thường hằng nghe tiếng thật khả lạc

Miệng thường tuyên nói lời đẹp lòng

Người đó khéo biết pháp tánh vậy

Trí niệm huệ pháp đều thành tựu.

Trong lòng thanh tịnh không uế trược

Nói trăm ngàn kinh không ngừng trệ

Nếu ai diễn thuyết không hư ngụy

Câu chữ sai biệt để tu học

Khéo hiểu ngàn ức các ngữ ngôn

Nghĩa thú danh từ đều khéo hiểu

Nhờ ngộ pháp tánh, có đức ấy

Dạ xoa, La sát, Thiên, Tu la

Ca lâu, Khẩn na, Ma hầu trà

Ðược tám bộ chúng thường kính yêu

Bởi nhờ ngộ rõ pháp tánh vậy

Chúng thần ác tâm Tỳ Xá Xà

Uống máu, ăn thịt rất độc hại

Có ai gìn giữ tịch định này

Thì họ thường hay được hộ vệ

Nghe bậc trí giả, lời rộng lớn

Trong lòng hoan hỷ, lông dựng đứng

Với Bồ đề ấy rất yêu kính

Hay được phước rộng lớn khó nghĩ

Phước báo như vậy khó biết được

Trong trăm ngàn kiếp nói không hết

Hộ trì pháp Bảo Tạng Thiện Thệ

Vô lượng vô biên vô số kể

Liền đem cúng dường tất cả Phật

Các Thế Tôn quá khứ, vị lai

Cùng với hiện tại khắp mười phương

Vì hay tuyên thuyết tịch định vậy

Nếu ai ưa thích sự phước đức

Cúng dường đấng Thập lực, Ðại bi

Chư Phật vô lượng vô số ức

Thời gian như cát trong biển cả.

Lại có người khác thích phước đức

Ðối với thắng nghĩ, trì bài kệ

Vào lúc kiếp tận thời ác thế

Phước đức như vậy rất thù thắng

Nếu ai có thể nghe bài kệ

Người ấy liền cúng tất cả Phật

Vào đời sau cùng, thời ác thế

Ðó là tối thắng thượng cúng dường

Người ấy liền được lợi ích lớn

Thọ nhận cung kính của thế gian.

Các Thập lực, sanh con tối thắng

Với ngài mãi mãi đem cúng dường

Ngài thấy ta ở núi Kỳ xà

Ta liền được thọ ký Bồ đề

Ta đã phó chúc Di Lặc Tôn

Phật kia cũng riêng thọ ký rằng

Người ấy lại làm Phật Di Ðà

Vì nói vô lượng thắng lợi ích

Hoặc lại đi đến nước An Lạc

Lại muốn thích thấy Phật A Súc

Vô lượng vô biên trăm ngàn kiếp

Người ấy không dọa các ác đạo

Ðối với Bồ đề hành thắng hạnh

Thành tựu vô lượng các khoái lạc

Công đức vô lượng, lợi ích lớn

Nay ta đã tuyên thuyết như vậy

Nếu muốn được công đức như ta

Nên giữ kinh này đời sau cùng.

Này đồng tử! Vì ý nghĩa ấy, cho nên Bồ tát ma ha tát có thể biết thể tánh các pháp bất khả tư nghì như vậy sẽ được công đức lợi như thế, khen ngợi công đức chân thật của Như Lai, không hủy báng Như Lailời nói không chân thật.

Vì sao vậy?

Như Lai đã được các pháp do đời mà biết. Người ấy biết như thật đối với pháp kia, cũng biết vô lượng công đức của Như Lai, có thể biết như thật về Phật pháp bất tư nghì.

Vì sao vậy?

–Này đồng tử! Ðức Phật có vô lượng, vô biên công đức, không thể nghĩ bàn, xa lìa nơi tâm. Chính vì nghĩ này, nên những người khác không thể nghĩ bàn, không thể so sánh.

Vì sao?

–Này đồng tử! Vì tâm không có tánh, lại không có hình sắc, không thể xem thấy.

–Này đồng tử! Thể tánh của tâm như vậy, chính là thể tánh công đức của Phật. Thể tánh công đức của Phật như vậy, chính là thể tánh công đức của tất cả các pháp. Chính vì nghĩa ấy, này đồng tử, nếu Bồ tát nói về nghĩa thể tánh của tất cả pháp, mà biết như thật. Gọi đó là Bồ tát tịch diệt đối với tâm, khéo hiểu ba cõi, xuất sanh thiện căn, liễu tri như thật, tri kiến như thật, nói như thật, không có nói khác, tùy theo lời nóithực hành, không có chấp trước, vượt qua tất cả cảnh giới phiền não, vượt qua dục giới, sắc giới, giải thoát khỏi vô sắc giới, vượt qua cảnh giới của tên gọi, vượt qua cảnh giới tiếng nói, khéo giải thoát pháp văn tự, trí khéo hiểu phân biệt chữ, khéo hiểu lìa pháp ngôn ngữ, biết rõ văn tự, giỏi về văn tự, giỏi về chữ bằng trí sai biệt, trí rộng lớn, trí về chữ, khéo hiểu tất cả pháp bằng trí sai biệt, khéo đối với tất cả pháp bằng trí sai biệt rộng, khéo phân biệt tất cả xứ bằng trí về pháp, cùng tương ưng với Phật pháp bất khả tư nghì, Ma vương Ba tuần và các ma dân, không thể phá hoại.

Khi đức Phật nói pháp này, có tám ức na do tha các trời, người ... được pháp Nhẫn tu vô ngại, tất cả đều được chư Phật thọ ký quả A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề trải qua bốn trăm tám mươi vạn A tăng kỳ kiếp chứng được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề , các thứ danh hiệu, quốc độ khác nhau, nhưng thọ mạng thì giống nhau. Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:

Nếu có các Bồ tát trí huệ

Hướng đến đạo Bồ đề thắng diệu

Giỏi nơi thắng nghĩa các ngôn thuyết

Hay hành thể tánh tất cả pháp

Miệng thường tuyên thuyết lời chân thật

Khen Phật thật đức nên diễn nói

Hay biết tất cả pháp chư Phật

Ba cõi tôn kính không còn nghi

Tất cả các pháp đồng một nghĩa

Nhờ pháp “Không” nên biết như thật

Chúng không có các tướng dị biệt

Với một nghĩa này đã tu học

Không tưởng phân biệt, tưởng phân biệt

Tưởng chúng sanh, thọ mạng, ngã, nhân

Tưởng tận và vô tận như vậy

Ðọa các tưởng này không còn sót

Không thấy Như Laisắc tướng

Bởi biết các pháp vô tự tánh

Cũng không có tướng đẹp tùy hình

Ðể đoạn tất cả điên đảo vậy

Tất cả chư Phật không nghĩ bàn

Xa lìa nơi tâm, thể tịch diệt

Nếu ai hay được biết như vậy

Mới thấy vô thượng lưỡng túc tôn

Nếu ai hay biết tưởng thần ngã

Trong đó phát sanh thắng trí huệ

Biết được các pháp như vậy rồi

Liền được tên gọi thanh tịnh nhãn

Người ấy không có các chướng ngại.

Ðại trí biết rõ đường xuất ly

Sung mãn, đầy đủ hai loại nhân

Không có tất cả các mong ước

Với chỗ chân thật, thấy như thật

Không có tất cả lời không thật

Người ấy khi có các ngôn luân

Tùy thuận tất cả pháp nghi thức

Người trí vượt ra khỏi dục giới

Và sắc, vô sắc, đất phiền não

Hay lìa nhiễm trước nơi ba cõi

Sống ở thế gian, lợi chúng sanh

Vượt qua tất cả các danh tự

Cùng với âm thanh thể tánh không

Tùy thời gian lâu diễn thuyết pháp

Ðối với ngôn thuyết không sở y

Xa lìa các tưởng và hý luận

Ðoạn trừ điên đảo các ác kiến

Ðối với trí huệ, khéo quyết định

Người ấy dũng kiện hạnh như không.

Nếu ma nhiều ức na do tha

Vì để loạn ý nói lời rằng:

“Ai hay chiếu sáng ma quân này

Không theo ma lực, tự tại nhiếp

Vất bỏ tất cả các việc ma

Giới hạnh thanh tịnh, không phiền não

Ai hay ưa thích vui với Thiền

Thì có thể biết thế gian Không

Nếu nói ngũ ấmthế gian

Ðã biết pháp ấy thể không tịch

Ðã không có diệt cũng không sanh

Tất cả các pháp như hư không

Thà nên vứt bỏ thân mạng mình

Trọn không hủy phạm lời Như Lai

Với giới, hộ trì đến bỉ ngạn

Tùy theo nguyện ước được vãng sanh

Du hành vô lượng các cõi Phật

Thấy nhiều na do tha ức Phật

Trọn không mong ước sanh lên trời

Xa lìa tất cả ước nguyện vui

Người ấy không bỏ sự tinh tấn

Trong thời gian ngắn hành pháp hạnh

Ở trong mười phương chỗ các Phật

Khéo hay ca vịnhxưng tán

Khi ấy thân đồng tử Nguyệt Quang

Ðược nghe định tịch diệt như vậy

Vứt bỏ tất cả sự lợi dưỡng

Tu hành pháp chư Phật khen ngợi

Nếu có muốn được trí tự nhiên

Tu vì tất cả người thế gian.

Cần phải học Thắng Tam muội này

Nếu học như vậy, hơn trời người.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Nguyệt Quang đồng tử:

–Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát ấy, đối với trí Tam muội nói rõ này, cần phải khéo tu tập, hiển thị cho người khác.

Này đồng tử! Thế nào là hiển thị? Ðó là đối với tất cả pháp, khởi tâm bình đẳng, không có bỉ thử, không có phân biệt, không có không phân biệt, không tạo, không khởi, không sanh, không diệt, tất cả vọng tưởng phân biệt, ức tưởng, khởi tưởng, thảy đều đoạn trừ, tâm đã phan duyên, ý đã suy nghĩ, và các giả danh, cũng đều đoạn trừ, cũng đoạn trừ tất cả các giác quán ác, đối với ấm giới, nhập, không có tự tánh, đoạn trừ tham, sân, si. Ðó gọi là: Niệm huệ giải thoát, tàm, quý, kiên cố, tu hành nghi thức, là hành xứ cần thiết. Ðó là chỗ không nhàn, chỗ trí huệ, dứt hẳn khứ lai, là điều tất cả Bồ tát phải học, là hành xứ của tất cả Như Lai, thành tựu tất cả công đức.

Này đồng tử! Ðó gọi là hiển thuyết về Tam muội như vậy. Nếu ai có thể hiển thuyết về Tam muội như vậy, liền không lìa các định trong tâm. Không mất tất cả Tam muội, không có mê hoặc, khởi tâm đại bi, làm lợi ích vô lượng, vô biên chúng sanh.

Bấy giờ đức Thế Tôn ngay lúc đó nói bài kệ:

Bình đẳng, không hiểm trở

Rất tịch khó thấy được

Ðoạn trừ tất cả tưởng

Nên gọi là Tam muội

Không vọng tưởng phân biệt

Lìa kiến không thể giữ

Tâm ấy bất khả đắc

Nên gọi là Tam muội

An trụ định như thật

Không giữ tất cả pháp

như thật không giữ

Nên nói định Tịch diệt

Pháp không có mẩy may

Cũng không được phần nhỏ

Vì không được phần nhỏ

Nên gọi là Tam muội

Có được cái vô đắc

Ðó gọi là vọng tưởng

Với pháp lìa phân biệt

Nên gọi là Tam muội

Nhờ tiếng nên nói nghĩ

Tiếng này là chẳng có

Giống như tiếng dội lại

Lại giống như hư không

Chúng sanh vô sở trụ

trụ xứ bất khả đắc

Tiếng được cùng không được

Tự tánh không thể được

Hoặc bỏ hoặc đọa lạc

Bỏ đạo bất khả đắc

Tiếng bỏ cùng không bỏ

Với đạo biết như vậy

Còn có định là thủ

Còn không định cũng vậy

Vô trước hành Bồ đề

Chứng Thánh đạo cũng thế

Lìa hiểm trụ bình đẳng

Ðịnh huệ này vô tướng

Phật tử tu tập

Khéo tu định tương ưng

Văn tự chẳng có thể

Vào nghĩa thú sâu này

Bỏ các việc ngôn ngữ

Lược định vô sở thủ

Bồ tát được định này

Như nói trụ tương ưng

Dù lửa thiêu thế giới

Ở trong không bị thiêu

Vô lượng kiếp hỏa thiêu

Như hư không, không cháy

Nếu biết pháp như không

Người ấy lửa không đốt

Nếu khi thiêu cõi Phật

Trong định phát nguyện này

Diệt sạch hết lửa ấy

Người và đất không hoại

Thần túc ấy vô biên

Qua hư không không ngại

Tùy học định mà trụ

Bồ tát được Bồ đề

Hoặc sanh hoặc biến mất

Không khởi cũng không diệt

Nếu hay biết như vậy

Ðược định này không khó

Thế giansanh diệt

Ðức Như Lai đã nói

Nếu hay biết định này

Nên biết thân cận đời

Với thế gian không nhiễm

Thế pháp không thể ngại

Thân nếu không chướng ngại

Hay đối các cõi Phật

Thường thấy nơi tịnh độ

Và thấy thế đạo

Nên được nghe chánh pháp

Diễn thuyết tại các cõi

Ngài không khởi vô tri

Vào lúc nói pháp tánh

Hay thông đạt các pháp

Như tùy theo pháp tánh

Diễn thuyết trong ức kiếp

Biện tài không đoạn tuyệt

Hay biến làm nhiều thân

Ngoài các Bồ tát khác

Biến hóa các Bồ tát

Qua lại các cõi Phật

Trên hoa sen ngàn cánh

Kiết già mà an tọa

Hiển thị Bồ đề Phật

Tổng trì Tu đa la

Cùng hằng ức kinh khác

Nhờ tu tập Tịch định

Chỉ trừ bất thối chuyển

Người bất tư nghì khác

Không thể hết biện tài

Hiển thị Bồ đề Phật

Bỏ đi các lầu gác

Các thứ báu nghiêm sức

Tung rải các diệu hoa

Hương thơm thật đáng ưa

Tung rải các hương bột

Cùng đốt các hương thơm

Hoặc tung vô lượng báu

Vì chứng được Bồ đề

Bồ tát bậc cứu tế

Vô lượng đức như vậy

Ðoạn trừ các phiền não

Ðạt được thần túc cao

Không thể sanh phiền não

Thanh tịnh thật chói sáng

Vô vi không thể hoại

cảnh giới Bồ tát

Tịch tịnh, càng tịch tịnh

Lìa não, không phiền não

Vượt qua sự hý luận

Thích pháp không hý luận

Văn tự không thể vào

Vì các pháp vô tướng

Trí biết chỉ âm thanh

Cho nên gọi là định

Thắng tịch diệt vô tận

Vô công dụng, không thấy

Tất cả cảnh giới Phật

Thật tế không nhà cửa

Theo chư Phật tu học

Tự tánh tất cả pháp

Học công đức Phật này

Ðược công đức bỉ ngạn

Chẳng đây cũng chẳng kia

Bổn tế vô phân biệt

Cho nên tất cả Phật

Ðạt công đức bỉ ngạn

Với vị lai không bỏ

Vì đã biết pháp tánh

Vô công dụng hý luận

Ðạt công đức bỉ ngạn.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang bạch đức Phật:

–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Như Lai, bậc Ứng cúng Chánh biến tri, mới có thể khéo nói về thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp. Ðó là nói về thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp mà Bồ tát phải học. Nếu Bồ tát có thể tu học Tam muội đã được nói ra ấy, sẽ mau chứng được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Con lại muốn nói. Bạch Như Lai! Con lại muốn nói. Bạch Thiện Thệ! Con muốn nói một phần nhỏ.

Ðức Phật nói:

Này đồng tử! Nếu muốn nói cứ nói.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang ở trước đức Phật, chấp tay hướng về đức Phật, xưng dương thật đức của ngài bằng bài kệ khen ngợi:

Thấy sanh, bị già bệnh chết khổ

Tham sân và si thường mê hoặc

Phật vốn đã phát tâm Bồ đề

Mong thành chánh giác mở các trói

Lành thay, vô lượng kiếp tu hành

Bố thí, điều phục giữ các lỗi

Trì giới, nhẫn nhục, siêng tinh tấn

Khéo tu thiền định và trí huệ

Dùng không hy vọng, bỏ ngôi vua

Vợ con của cải đều bỏ hết

Ðầu, mắt, tay chân và thọ mạng

Tâm ấy ban đầu không mệt mỏi

Cấm giới trong sáng sạch không dơ

Vất bỏ thân mạng thường gìn giữ

Khéo hay cấm chế thân, miệng, ý.

Quy mạng Thiện Thệ chế ngự tâm

An trụ trí huệ trong sức nhẫn

Vì bị cắt thân không phẫn nộ

Nhờ lòng từ máu biến thành sữa

Quy mạng Như Lai rất kỳ đặc

Thành tựu sức mạnh trụ Thập lực

Dùng trí vô lượng chọn các pháp

Phật đem lòng thương đến thế gian

Cứu độ lợi ích đến cõi khác

Ðã biết bản thể các pháp không

Thấy các thế gian đều hư vọng

Ngộ đạo khế hội tánh vô ngã

Biết sự giải thoát vốn không thoát

Xa lìa phiền nãophóng dật

Hàng phục ma lựcma quân

Biết đạo không cầu trí vô ngại

Nói pháp thanh tịnh vô ngại tịch

Giả sử tinh tú trên trời rớt

Ðất biển thành ấp đều hoại diệt

Hư không vô vi tánh đổi khác

Như Lai hoàn toàn không nói dối

Thấy sự khổ não các chúng sanh

An trụ, đắm trước trong phân biệt

Vì họ hiển thị lìa đắm trước

Gọi là tịch diệt, thậm thâm không

Bất khả tư nghì vô số kiếp

Ðại hùng dũng mãnh học từ lâu

Ðã tu học không đắm tất cả

Cho nên Phật không có các lỗi

Phật đã tu học tất cả pháp

Như pháp đã đắc nói cho người

Nó chẳng phải phàm phu ngu si

Lại chẳng phải tất cả ngoại đạo

Tâm thường an trụ nơi ngã tưởng

Gọi là các phàm phu lỗi lầm

Nếu hay biết được pháp vô ngã

Không có tất cả các lỗi lầm

Ðại hùng đã nói lời chân thật

Hằng thường an trụ nơi thật pháp

An trụ thật pháp như vậy rồi

Lại hay diễn thuyết lời chơn thật

Quá khứ từng tu hạnh chân thật

Mới hay xứng đáng nơi bổn nguyện

Ðạt được diệu quả báu chân thật

Nhờ vậy hay nói lời chân thật

Ðã hành hạnh chân thật đầy đủ

Khéo hay biết được chân thật tế

Ðã tu hạnh chân thật như vậy

Quy mạng Nhân Tôn đại trí huệ

Trí ngài tối thắng không ai bằng

Trí huệ đầy đủ rất sáng rạng

Cuối cùng đạt được thắng trí huệ

Quy mạng bậc ngôn thuyết trí huệ

Hay cùng chúng sanh làm bạn hữu

Từ lâu tu tập tâm từ bi

Hay khéo an trụ nơi bất động

Bất động giống như núi Tu di

Làm thầy trời, người, đầy đức lớn

Giáo thọ đại chúng các quần sanh

Thiện Thệ thắng trí tuệ thậm thâm

Dạy chúng vô úy làm chấn động

Sư tử rống vô úy như vậy

Như vua sư tử oai hùng mãnh

Hàng phục tất cả các ngoại đạo

Giống như sư tử vồ dã can

Ðại hùng điều phục kẻ không điều

Ðiều phục lại hay khéo điều ngự

Hay khiến thành tựu làm thiên hữu

An trụ kiên cố mà không hoại

Thấy các chúng sanh kia khổ não

Chính vì nương vào nơi ngã kiến

Vì họ diễn xướng pháp vô ngã

Không có tham ái và không ái

Người phàm phu ngu si không học

Nương nơi hiểm nạn đường không lành

Vì họ hiển thị đạo chân thật

Ðó là hướng đến đường Niết bàn

Nếu ai đắm trước vào ngã tưởng

Người ấy liền sống rất khổ não

Bởi vì không hiểu pháp Vô ngã

Pháp ấy diệt trừ nơi khổ não

Trong kiếp số bất khả tư nghì

Ðại trí từ lâu từng tu học

Tu học xa lìa đắm trước rồi

Cho nên không có các tội lỗi

Diễn thuyết các pháp cú lìa tội

Thế Tôn xa lìa các lỗi lầm

Khéo nói lời chân thật vi diệu

Miệng thường giải thoát trăm điều sợ

Vô lượng na do trăm ngàn ức

Thiên, Long, Dạ xoa giữa hư không

Ưa thích pháp tối Thánh vô thượng

Người nghe ai cũng hiệp nghĩa chơn

Lời Như Lai hoan hỷ thiện mỹ

Oân hòa hợp thời vừa lòng người

Tiếng hòa hợp vi diệu vô lượng

Thương xót giải thoát vô số người

Kỹ nhạc âm thanh trăm ngàn loại

Một lúc tấu lên tiếng hợp nhau

Chính là tiếng hay trong trời này

Một tiếng Như Lai hay lan khắp

Các loại chim Ca lăng tần già

Ðồng lúc cùng phát tiếng vi diệu

Hay khiến người khác sanh hân lạc

Gặp âm thanh Phật chẳng sánh bằng

Tấu lên âm nhạc của hoan hỷ

Khéo hợp tất cả các cung đàn

Thổi loa, trống, sáo đờn, không hầu

Gặp âm thanh Phật đều không hiện

Tiếng ca múa vua Khẩn na la

Ðã từng khéo học trăm ngàn nhạc

Nếu ai nghe được đều hoan hỷ

Gặp âm thanh Phật đều không hiện

Tiếng Câu Sí, Anh vũ, Xá lợi

Khổng Tước, Ai Loan và Uyên Ương

Có tất cả tiếng chim hay ấy

Gặp âm thanh Phật, đều không hiện

Tiếng mỹ diệu, vui thích, khả ái

Những ca vịnh hay ở thế gian

Dồn tất cả lại đồng tấu lên

Tiếng Phật Tối Thắng vượt hơn chúng

Chư thiên, Dạ Xoa vua Tu La

Tất cả quần sanh trong ba cõi

Thân ngài thượng diệu và tối thắng

Phật phóng hào quang liền che hết

Sắc thân Như lai như hoa nở

Với tất cả tướng tốt rực sáng

Sanh ra quả phước rất thanh tịnh

Hào quang chiếu sáng khắp mười phương

Tiếng ốc, tiếng trống và không hầu

Tiếng hay đồng, bạc, sanh và tiêu

Các âm như vậy cùng hòa hợp

Trăm phần một không bằng một tiếng Phật

Càn Thát, Tu la và Ma hầu

Các tiếng hay ho của Dạ xoa

Cùng với tiếng hay khắp ba cõi

Với Phật trăm phần không bằng một

Tất cả ánh sáng của Phạm thiên

Và các thân sáng trời Hữu đảnh

Thế Tôn nếu phóng ánh hòa quang

Sáng kia không bằng một phần trăm

Thân khẩu ý nghiệp đều thanh tịnh

Bố thí tịnh, đời không nhiễm

Bảo tụ công đức Nhân Trung Vương

Công đức tự nhiên không ai bằng

Tán thán thập lực lời thật xong

Ðồng tử vui mừng nói như vầy:

“Vì con cúng dường Phật, pháp vương

Nguyện phước này thành Thích Ca Văn”.

Phật biết tịnh hạnh, tối thắng kia

Thiện Thệ bấy giờ liền mỉm cười

Di lặc thấy ngài cười, thưa hỏi

“Cúi mong Nhân tôn nói duyên cười

Bấy giờ đại địa sáu chấn động

Trời, Rồng hoan hỷ đứng hư không

Hân hoan chiêm ngưỡng Lưỡng túc tôn

Xin Phật nói cho Nhân duyên cười.

Trí huệ chư Phật đã rõ biết

Chẳng phải Thanh văn đệ tử Phật

Nay muốn vì ai nói Tối thắng?

Xin ngài xót thương, nói cho con

Ngoại trừ Mâu Ni Tôn, từ bi

Tất cả thế gian, ai làm được

Có thể trao cho quả Pháp vương

Xin ngài thọ ký quả Bồ đề.

Nay con khéo hỏi Thế Ðạo sư

Thích Ca, Ngưu vương, đại oai đức

Ðã đến bờ, trí huệ quang minh

Ðoạn trừ tham sân si ô uế

Không thể nghĩ bàn, hằng sa ức

Ðạo sư bao kiếp đã tu hành

Ðể cầu hạnh Bồ đề thắng diệu

nhân duyên gì hiện mỉm cười?

Hay bỏ thân mình với tay chân

Vợ con, quyến thuộc người thân yêu

Thường hay tu hành Thắng hạnh này.

Cho nên con hỏi đấng Mâu Ni?

Voi, ngựa, xa cỡi và trâu, dê

Nô tỳ, ma ni, chơn châu vàng

Không thấy có các vật sở hữu

Khi hành Bồ đề mà không bỏ

Trí ngài tối thắng, đều hiển hiện

Biết các việc làm của chúng sanh

Tín tâm, tánh dục đã khéo biết

Xin nói duyên gì miệng mỉm cười?

Ai từng cúng dường Nhân trung tôn?

Nay ai lại thành lợi rộng lớn?

Ai hay thực hành việc Phật làm?

Vì ai mà nay hiện nụ cười?

Mặt đất bấy giờ sáu chấn động

Ức hoa sen đẹp mọc từ đất

Hoa này chiếu sáng đủ ức cánh

Sắc vàng rực sáng thật khả ái

Phật tử ngồi trên hoa sen kia

Bồ tát đại thần thông bậc nhất

Vô lượng pháp sư đến vân tập

Cho nên con mới hỏi như vậy

Ðánh trống, khua linh, thổi tù và

Kỹ nhạc ức số như hằng sa

Những loại như vậy các âm nhạc

Trong đó tiếng Phật tối thắng diệu

Câu sí, Tần già, ngỗng và hạc

Các chim một lúc đến vân tập

Ðồng thời hót lên tiếng thật hay

Không thể sánh bằng âm thanh Phật

Ai từng bố thí, trì giới cấm

Tu tập trong vô lượng ức kiếp

Ai lại cúng dường Nhân trung tôn?

Mâu Ni vì ai hiện mỉm cười?

Vì ai xưa khởi tâm cung kính

Ðã từng thưa hỏi Lưỡng Túc Tôn

Nhờ nhân duyên gì được Bồ đề?

Mà nay hiện sự mỉm cười này?

Ðấng Thập lực ở thời quá khứ

Và đời hiện tại với vị lai

Ðạo sư Thiên nhân đều biết rõ

Cho nên con hỏi bậc Nhân Trung

Nên biết thứ lớp tâm chúng sanh

Với thần túc ngài mà không giảm

Lại biết chúng sanh tâm ưa thích

Cho nên con hỏi Mâu Ni

Tu hành hạnh tối thắng Vô thượng

Nhờ pháp tương ưng mà khéo học

Ðạo Bồ đề Phật làm sao được?

Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn

Các pháp vi tế khó thấy được

Không tịch khó quen bất tư nghì

Tu hành sở hành của thập lực

Cho nên con hỏi Thế Ðại sư

Nếu hay khéo tu tâm từ bi

Với bất tư nghì chỗ chúng sanh

Thường không khởi các chúng sanh tưởng

Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn

Cảnh giới tu hành khó nghĩ lường

Ðối với ngằn mé bất khả đắc

Ðã hay vượt qua cảnh giới tâm

Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn

Bố thí, trì giới cứu cánh rồi

Bậc trí sáng tịnh rõ ba đời

Xa lìa tất cả các tội ác

Vì nghĩa gì ngài hiện mỉm cười?

Xá Lơi, Mục Liên, Cư Luật Ða

đệ tử khác của Như Lai

Chẳng phải là việc làm của họ

Chỉ cảnh giới Phật tối vô thượng

Vì tất cả pháp đến bỉ ngạn

Các điều phải học đã cứu cánh

Ðạo sư phát sanh lòng thương lớn

Tuyên xướng tiếng bậc nhất vi diệu

Vô lượng A tăng kiếp quá khứ

Cũng từng hỏi nghĩa đức Như Lai

Ðược làm người thân đấng Cứu Thế

Nay đã chứng quả nói cho con

Dạ xoa, La sát, Rồng, Bàn trà

Chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn tối thắng

Tất cả cung kính đứng chắp tay

Ðều nghi Thế Tôn vì sao cười

Nhiều chúng Bồ tát đều vân tập

Thần thông đầy đủ nhiều ức cõi

Như Lai tâm sanh Tối Trưởng Tử

Tất cả cung kính đều chắp tay

Ðạo sư Thế Tôn chẳng duyên cớ

Tối thắng trượng phu hiện mỉm cười?

Ngôn ngữ vi diệu âm thanh trống

nhân duyên gì hiên mỉm cười?

Bồ tát Hương Tượng phương Ðông đến

Từ thế giới của Phật A Súc

Vô số chúng Bồ tát vây quanh

Vì hỏi Thích Ca nên đến đây

Lại nữa Diệu thế giới An lạc

Bồ tát Quán AÂm, Ðại Thế Chí

Vô số chúng Bồ tát vây quanh

Ðến hỏi Lưỡng Túc Thích Sư Tử

Vô lượng ức chỗ Phật quá khứ

Cúng dường vô biên đức Như Lai

Giống như số cát trong biển cả

Vì làm Thắng Bồ đề vô thượng

Tất cả chư Phật đều khen ngợi

Với đức Bồ tát đã cứu cánh

Thế giới mười phương đều nghe biết

Văn Thù Sư Lợi đứng chắp tay

Du hành qua vô số cõi Phật

Ðệ tử lớn như vậy khó thấy

Công đức Phật tử đã khéo học

Tất cả chắp tay đứng cung kính

Căn khí tối thắng không ai bằng

Bậc Nhu nhuyến điều phục như vậy

Hay giữ tất cả Pháp Tạng Phật

Xin ngài tuyên thuyết lời hòa dịu

Thế Tôn, Ðạo sư đâu vô cớ

Trượng phu tối thắng hiện mỉm cười?

Tiếng trống vi diệu xin diễn thuyết

nhân duyên gì hiện mỉm cười?

Câu sí, chim Yến, ngỗng, khổng tước

Tiếng rống Ngưu vương như sấm sét

Xin nói tiếng nhạc trời hay tuyệt

Cúi mong diễn thuyết tiếng thêm vui

Khéo tập từ bi lìa các lỗi

Trí huệ hiện tiền đoạn ngu si

Hiểu nghĩa chân thật lìa văn tự

Trong trăm ngàn kiếp đã tu trì

Quyết định không tịch biết các hữu

Hiển thị khổ diệt các câu nghĩa

Hay hoại tất cả trí ngoại đạo

Không vô chúng sanhthọ mạng

Chư Phật tu hành trăm ngàn hạnh

Trăm ngàn thứ phước để trang nghiêm

Trăm ngàn chư thiên đều khen ngợi

Trăm ngàn chư Phạm cũng như vậy

Dạ xoa, La sát đều tịnh tâm

Ma hầu, Kim sí, rồng hoan hỷ

Miệng thường tuyên thuyết không chướng ngại

Nghiệp quả tịnh diệu đã khởi ra

Nếu có chư Phật đã diệt độ

Cùng với hiện tại đời vị lai

Tất cả biết rõ không chướng ngại

Từ các công đức đã sanh ra

Ðại hải, đại địa và các núi

Tất cả thảy đều sáu chấn động

Chư Thiên, Tu La, Rồng, Ha hầu

Rải các hoa hương rất thắng diệu

Ðoạn trừ tham, sân và hôn, mạn

Kiềm chế tâm ý đều thanh tịnh

AÂm thanh tịch tịnh, khen vô tướng

Ðại Thánh, Sư Tử rống như vậy

Ðầy đủ biện tài danh xưng lớn

Với mắt, với pháp khéo bình đẳng

Thế gian ai bằng, ai qua nổi?

Cúi mong Ðại bi nói nghĩa cười?

Câu sí, Tần già, và Khổng tước

Mạn mạn các chim, diệu âm thinh

Cùng lúc hót lên thật khả ái

Ít tiếng của Phật cũng hơn xa.

Trống lớn, chiêng vàng, các trống nhỏ

Tù và, tiêu, đờn cầm, không hầu

Ngàn thứ âm nhạc đồng tấu lên

Ít tiếng của Phật cũng hơn xa.

Chư thiên ngàn thứ âm nhạc hay

Và tiếng ca hay các thiên nữ

Hợp lại cùng hát, người yêu thích

Ít tiếng của Phật cũng hơn xa.

Ðạo sư của đời dùng một âm

Tùy tín các thú, hiểu khác nhau

Tất cả đều bảo Phật vì mình

Mong đai Sa môn nói duyên cười?

Diệu âm thinh chư Thiên và Rồng

Ca lầu, Càn thác, Tỳ xá xà

Chúng nó không thể diệt phiền não

Chỉ âm thanh Phật hay đoạn trừ

Tuy lại khởi ái tâm, không nhiễm

Hành từ liền được lìa lỗi sân

Hay sanh trí huệ, lìa ngu si

Người được như vậy, lìa các cấu

Tiếng Phật không thoát ra ngoài chúng

Hay đoạn trăm thứ các nghi ngờ

Với âm thanh ngài không cao thấp

Tiếng hay Mâu Ni, tịch bình đẳng

Giả sử một niệm đều khô cạn

Trời trăng có thể rơi xuống đất.

Thế Hùng hoàn toàn không nói dối

Sáu mươi loại ngữ ngôn thanh tịnh

Tiếng rống rất hay, không sợ hãi

Tiếng Phạm Như Lai xin nói cho

Tịch tịnh nhân gì hiện mỉm cười?

Tất cả quần sanh trong ba cõi

Ðều hay rõ biết việc chúng làm

Quá khứ, hiện tạivị lai

Xin Nhân Tôn nói vì sao cười?

Có các Như Lai, bậc Ðại bi

Ở trong các lực được cứu cánh

Nhan sắc Như Lai như trăng rằm

Ðâu phải vô cớ hiện mỉm cười?

Bấy giờ, đức Thế Tôn ngay khi ấy nói bài kệ tụng để trả lời Bồ tát ma ha tát Di Lặc:

Ðúng như đồng tử Nguyệt Quang ấy

Tán thán Như Lai không ai bằng

Tán thán Như Lai như vậy rồi

Sau lại vì đời được khen ngợi

Ngày xưa ở thành Vương xá này

Ðã từng xem thấy nhiều ức Phật

Ở chỗ các Phật thường thua hỏi

Ðịnh tịch diệt thắng diệu như vậy

Khi tu hành Bồ đề đạo hạnh

Trong tất cả đời làm con ta

Thường hay đầy đủ vô ngại biện

Thường hằng an trụ nơi phạm hạnh

Người ấy thời cuối, lúc hãi hùng

Chỉ có Di Lặc mới chứng biết

Trong tất cả thời trụ phạm hạnh

Hay phân biệt rộng Tam muội này

Nếu muốn cầu thắng Tam muội này

Khen đạo đang hành, sẽ đạt được

Vô lượng ức Phật đều nhiếp thọ

Cúng dường Ðại Ðạo Sư tối thắng

Ta ở trong trí nên ký thuyết

Với hạnh Thắng Diệu Nguyệt Quang này

Ở thời cuối cùng, không chướng ngại

Ðối với phạm hạnhthọ mạng.

Biết được ngàn ức các Như Lai

Như xem quả xoài trong bàn tay

Lại nữa, vượt qua hằng sa số

Ở đời vị lai tu cúng dường

Chư thiên và Rồng có tám ức

Chúng Dạ xoa có bảy ngàn ức

Vị lai, cúng dường Lưỡng Túc Tôn

Bọn họ đều hay cùng hộ trợ

Ðược nghe thọ ký như vậy rồi

Hoan hỷ, yêu thích nên sung mãn

Nguyệt Quang nhảy cao bảy Ða la

Ðứng trên hư không lời hy hữu:

Than ơi! Phật nói không gì hơn

An trụ giải thoát trí thần thông

Nhờ an trụ thắng trí quyết định

Tất cả dị luận không thể phá

Xa lìa hai bên, chứng giải thoát

Quán sát sự việc, không đắm trước

Ở trong ba cõi, trí vô ngại,

Hoàn toàn không có các hý luận

Tất cả hý luận mà không nhiễm.

Giác quán các kiến đều đoạn trừ

Khéo tu nơi đạo, không nương tựa

Không vì người phá, chống lại người.

Lại với ba cõi không nương tựa

Ðoạn trừ các kết, hành thanh tịnh

Ðây ái trói buộc, đều xa lìa

Các hữu tương tục, đều diệt sạch

Hiểu rõ tự thể tánh phi hữu.

Thuyết pháp ly ngôn đều biết rõ

Ðối với người điên đảo, vô trí

Như sư tử rống, bắt dã can

Nay Phật vì hiện diệu pháp tạng

Con nay đạt được Diệu Bảo Tụ

Ðoạn trừ tất cả các đường ác

Nay con được Phật, định không nghi

Sắc vàng trăm phước, tay trang nghiêm

Xin đem tay báu xoa đầu con

Ðối với thiên, nhân, trước đại chúng

Cúi mong Nhân Tôn, quán đảnh con

Con nhớ quá khứ lúc tu hành

Nơi còn sư tử trong Phật pháp

Nơi có Tỳ kheo rất thông duệ

Tên gọi Hiền Thí làm pháp sư

Con làm vương tử, tên Hiệt Huệ

Thân gặp bệnh khổ rất nguy khốn

Lúc ngài Hiền Thí làm pháp sư

Nhu nhuyến, ngay thẳng, đầy đức tốt

Năm trăm lương y, không giảm thiểu

Thảy đều đi đến trị bệnh con

Quyến thuộc, thân thích đều sầu lo

Bấy giờ Ðại sư nghe con bệnh

Liền đến chỗ con mà thăm hỏi

Hiền Thí liền sanh tâm xót thương

Vì con mà thuyết Tam muội này

Con được nghe Tam muội này rồi

Không cần của cải, tâm ưa thích

Nhớ biết rõ thể tánh các pháp

Lúc ấy bệnh khổ liền tiêu trừ

Tỳ kheo thực hành hạnh Bồ tát

Ðược thành Phật đạo hiệu Nhiên Ðăng

Khi xưa con, vương tử Hiệt Huệ

Nhờ Tam muội này trừ khổ não

Do nhân duyên ấy nên đồng tử

Ta nhớ việc này nên dặn ngươi

Hay nhẫn mắng nhiếc và hủy nhục

Thọ trì, đọc tụng định như vậy

Tỳ kheo mạt thếvô lượng

Phóng dật, phá giới nhiều keo kiết

Ðắm trước y bát, ưa làm ác

Khởi tâm bài báng Tam muội này

Tật đố, khinh tháo, thả các căn

Sống nhà thế tụctham lợi

Thường nương quán sổ tức kiếm sống

Vì vậy, nên chê Tam muội này

Nắm tay, duỗi chân, mặc tình láo

Ði chạy nói cười tự ngắm bóng

Bạn bè múa tay, theo đường đi

Nếu vào tụ lạc hiện tướng lạ

Như vậy chẳng hợp nghi thức người

Ngày đêm đam mê nơi đồng nữ

Ðối với sắc, thinh, thường đắm trước

Dạo chơi thôn ấp hiện tướng này

Tâm thường ưa thích sự ăn ngon

Giỡn cười, ca múa và âm nhạc

Mua bán đổi chác thường cầu lợi

Ưa thích uống rượu và cỡi ngựa

Sau khi cất chứa nhiều ẩm thực

Chết rồi đọa lạc ba đường ác

Chuyên lo khai khẩn và cày ruộng

Bảo trì tự kỷ nơi trú xứ

Nghe người khác dạy, truyền thơ tín

Vứt bỏ giới cấmoai nghi

Thân cận bạch y, trái lời Phật

Hủy phá cấm giới, trụ các đạo

Thường tạo nghiệp Phật không khen ngợi

Ðó là lường cân, hay lừa dối

Tạo tác các nghiệp ác như vậy

ác hạnh này, đọa ác đạo.

Có nhiều của cải, vàng với ngọc

Vất bỏ người thân mà xuất gia

Không thể an trụ tu tịnh giới

Trở lại mua bán, tạo nghiệp xấu

Trâu, ngựa, trống mái cùng trứng sữa

Chỉ cho tiền lúa là hơn hết

Vì sao xuất gia, cạo râu tóc

Mà không giữ giới và nghi thức?

Thời quá khứ ta hành Bồ đề

Với trong ngàn kiếp tu khổ hạnh

Ðể cầu định tịch diệt như vậy.

Người ngu nghe vậy liền chê cười

Hành phi phạm hạnh thích nói dối

Thường tham lợi dưỡng rơi ác đạo

Mặc áo phạm hạnh để dối đời

Hủy báng giới định, nói phi pháp

Chỉ muốn tìm lỗi lầm của nhau

Chết rồi đọa lạc ba đường ác

Trong trăm ngàn người không được một

Ðó là hay trụ nơi nhẫn nhục

Bè đảng, đấu tranh, vô lượng người

Vất bỏ nhẫn nhục, thường giận nhau

Ðều tự xưng tánBồ tát

Muốn tiếng tăm mình lan các Như Lai ước

Nếu được hư danh tự vui mừng

Thiện hạnh không có huống chi đạo!

Ta từng không nghe cũng không thấy

Người muốn vui không có tịnh hạnh

Bài báng pháp này, không hâm mộ

Mà lại đạt được đạo Bồ đề?

Không mưu sinh , nên xuất gia

Không cầu tất cả Bồ đề phật

Người ngu an trụ trong ngã kiến

Nghe nói Vô ngã liền kinh sợ

Ðây, kia cùng nhau hằng tranh luận

Ngã mạn, tự cao, xâm lấn nhau

Tự cho mình đúng, người khác sai

Thường làm bất thiện, dối hoan hỷ

Thành tựu tịnh giới, các công đức

An trụ tâm từ, hành nhẫn nhục

Ðiều phục nhu nhuyến và thuần thiện

Những thiện nhân ấy đều bị khinh

Nếu ai đương lai khởi tâm ác

Hết sức chống lại điều bất thiện

Ưa thích đấu tranh, làm phi pháp

Bọn họ lúc đó được cúng dường

Ta nay thân thiện khuyên bảo ngươi

Ngươi nên với ta sanh tịnh tín

Như vậy Như Lai đã thuyết giáo

Bọn người ác ấy, chớ thân cận

Kẻ lắm tham ái và sân nhiều

Người rất ngu si, kẻ hôn, mạn

Không hổ, không thẹn, không điều phục

Với họ, người mau khởi sức nhẫn

Nay ta đã nói Vô lượng đức

Tỳ kheo nơi đó không an trụ

Ðâu phải miệng nói, được Bồ đề:

Cần phải kiên cố làm mới được.

QUYỂN 4/10

Bấy giờ Bà Già Bà ở trong đại chúng chỉ giáo việc lợi ích, hoan hỷ xong, liền từ tòa đứng dậy, đi đến thành Vương xá, vào núi Kỳ xà quật trải tòa mà ngồi. Các chúng Tỳ kheo, và chư Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, trước sau doanh vây.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang cùng tám trăm ức người và Thiên Long, tám bộ quỷ thần... với mười na do tha các chúng Bồ tátthế giới khác, cầm các vòng hoa báu, hương xoa, hương bột, y phục, phướn hoa, các thứ âm nhạc, dựng lên lọng, dù, treo các phướn lụa, ra khỏi thành Vương xá, hướng đến núi Kỳ xà quật, đi đến chỗ Như Lai, lấy đầu mặt lạy dưới chân Ngài, nhiễu quanh nhiều lần, dùng các hương hoa, y phục, bảo cái, tràng phan, tấu các âm nhạc, mở cuộc cúng dường lớn. Khi đã cúng dường xong, cúi đầu cung kính, vì để hỏi pháp, nên ngồi qua một bên.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang nói như vầy:

–Con đối với đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến tri có điều muốn thưa hỏi, cúi mong Ngài cho phép.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo đồng tử :

–Như Lai Ứng chánh biến tri, cho phép ngươi muốn hỏi gì cứ hỏi! Ðiều ngươi hỏi sẽ đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Ta sẽ phân biệt, giải thích cho ngươi để tâm ngươi được hoan hỷ.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang được đức Phật cho phép liền bạch:

–Bồ tát ma ha tát thành tựu bao nhiêu pháp, mới có thể được Tam muội Vô húy luận, thể tánh bình đẳng như vậy của tất các pháp?

Khi ấy đức Phật bảo đồng tử Nguyệt Quang :

–Bồ tát Ma ha tát thành tựu bốn pháp mới có thể được Tam muội vô húy luận, thể tánh bình đẳng như vậy của tất cả các pháp. Những gì là bốn?

1. Khéo học sự nhu nhuyến, đồng ở an ổn, đạt đến sự điều phục, hay nhẫn được sử hủy nhục, thấy pháp trừ ngã mạn. Ðó là pháp đầu tiên. Bồ Tát nếu có thể thành tựu như vậy, liền hay đạt được Tam muội không húy luận, thể tánh bình đẳng như vậy của các pháp.

2. Lại nữa, này Ðồng Tử! Bồ tát ma ha tát thành tựu, giới thiện, giới thanh tịnh, giới thanh tịnh thiện đệ nhất, giới không uế trược, giới không sứt mẻ, giới không thủng, giới không xen tạp, giới vô sắc, định, giới tự tại, giới không thể chê trách, giới không thối lui, rơi rớt, giới không nương tựa vào đâu, giới không thủ trước, giới vô sở đắc, giới thánh khen ngợi, giới bậc trí khen ngợi. Này Ðồng Tử ! Ðó là thứ hai. Bồ Tát đầy đủ pháp này, có thể đạt được Tam muội không húy luận, thể tánh bình đẳng của các pháp.

3. Lại nữa, này Ðồng Tử! Bồ tát ma ha tát rất sợ ba cõi nên khởi tâm sợ hãi, vì nhàm chán ba cõi nên khởi tâm không nhiễm ô, vì không đắm trước ba cõi nên khởi tâm cấp bách. Vì để giải thoát khổ ba cõi cho chúng sanh nên khởi tâm đại bi, vì hướng đến A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, nên phát tâm đại tinh tấn. Này đồng tử! Ðó là thứ ba. Bồ tát thành tựu như vậy, mới có thể đạt được Tam muội không hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp.

4. Lại nữa, này Ðồng Tử! Bồ tát ma ha tát cầu sự nghe nhiều, không bao giờ chán, vì tôn trọng pháp, nên không cầu tài lợi, vì tôn trọng trí huệ nên không cầu tiếng tăm, tùy theo sự nghe, rồi thọ trì, đem nói rộng cho người khác, hiển thị ý nghĩa ấy, vì lòng xót thương, nên không vì người thân thuộc Bồ tát lại nghĩ như vầy: “Làm sao để có thể khiến chúng sanh nào nghe pháp trước, đối với Vô thương Bồ đề, họ mau được bất thối chuyển”. Ðó là thứ tư. Bồ tát thành tựu như vậy có thể được Tam muộihý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp.

Ðồng tử nên biết, pháp môn Tam muội này được vô lượng chư Phật đã diễn thuyết, vô lượng chư Phật khen ngợi, vô lượng chư Phật hiển thị, vô lượng chư Phật tu tập.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta nhớ vô số vô biên kiếp

Phật hiệuÂm Thanh Thân

Ðức Như Lai Âm Thanh Thân ấy

Ở đời thọ mạng sáu ngàn năm

Tiếp theo Phật ấy lại có Phật

Tên Trí Tự Tại, người yêu mến

Ðức Trí Tự Tại, Chánh Biến Tri

Thọ mạng một vạn hai ngàn tuổi

Tiếp theo Phật ấy có đức Phật

Oai đức tự tại, đại thế lực

Ðức Phật oai đức, Nhân Trung Tôn

Thọ mạng bảy vạn sáu ngàn tuổi

Tiếp theo Phật ấy lại có Phật

Hiệu Ðại Tự Tại, Tự Nhiên Trí

Ðức Ðại Tự Tại Thiên Nhân Sư

Thọ mạng ngót cả ngàn vạn năm,

Tiếp theo đức Phật lại có Phật

Tên của ngài là Phạm Thanh

Ðức Phật Phạm Thanh, Lưỡng Túc Tôn

Thọ mạng ngót cả một ức năm

Tiếp theo đức Phật lại có Phật

Hiệu Chúng Tự Tại, bậc Vô Tỷ

Thọ mạng ngót cả sáu ức năm

Tiếp theo đức Phật lại có Phật

Tên của ngài là Thinh Tự Tại

Ðức Thinh Tự Tại, Bà Già Bà

Thọ mạng ngót cả ngàn vạn năm

Tiếp theo đức Phật lại có Phật

Hiệu là Thinh Thượng, là Thế Ðăng

Ðức Phật Thanh Thượng, Ðạo sư đời

Thọ mạng một vạn bốn ngàn năm

Tiếp theo đức Phật lại có Phật

Hiệu Mãn Nguyệt Diện, Phổ Danh xưng

Ðức Mãn Nguyệt Diện Phổ Danh xưng

Ở đời thọ mạng một ngày đêm

Tiếp theo đức Phật lại có Phật

Tên của ngài là Nhật Diện Mãn

Ðức Phật Nhật Diện, bậc Vô tỷ.

Thọ mạng một vạn tám ngàn năm

Tiếp theo đức Phật lại có Phật

Hiệu của ngài là Phạm Diện Thân

Ðức Phạm Diện Thân, Lưỡng Túc Tôn

Thọ mạng hai vạn ba ngàn tuổi

Tiếp theo đức Phật lại có Phật

Tên của ngài là Phạm Bà Tẩu

Ðức Phạm Bà Tẩu, Thiên Nhân Sư.

Thọ mạng một vạn tám ngàn tuổi

Các Phật như vậy, đồng một kiếp

Con số hai trăm Thế Ðạo sư

Nay ngươi nghe ta nói tên Phật

Ðều là bạn thân trong ba cõi

Phật Vô Hủy Thân, Phật Phổ Âm

Phật Biến Oai Ðức, Phật Biến Thịnh

Phật Thinh Cúng Dường, Phật Danh Thinh

Phật Thinh Thân Dũng, Phật Thinh Thân

Phật Trí Khởi, Trí Thiện Thính

Trí Quang Ánh Tế, Trí Ðẳng Khởi

Phật Trí Diễm Tụ, Phật Trí Dũng

Phật Phạm Thượng, Phạm Mạng, Phạm Thiện,

Phật Thiện Phạm Thiên, Thắng Phạm Thinh,

Phật Phạm Âm, Phạm Thiên, Phạm Thí,

Phật Oai Lực, Oai Chủ, Thiện Oai

Phật Oai Ðức Tự Tại Khởi Oai

Phật Oai Ðức Nhãn, Phật Thiện Thắng

Bố Thượng, Bố Huệ, Thiện Khả Bố

Phật Khả Bố Diện, Phật Bố Khởi

Phật Khả Bố, Bố Thương, Kiến Thật

Thiện Nhãn, Nguyệt Thương, Thắng Ðạo Sư

Phật Thâm Viễn Âm, Vô Biên Âm

Phật Tịnh Âm, Tự Tại Tịnh Âm

Phật Vô Lượng Âm, Thiện Hiện Thinh

Phật Ma Lực Âm, Hoại Thiện Nhãn

Phật Thiện Nhãn, Tịnh Diện, Tịnh Nhãn

Phật Vô Lượng Nhãn, Phật Phổ Nhãn

Phật Thiện Phổ Nhãn, Phật Thắng Nhãn

Phật Nhãn Ánh Tế, Phật Bất Hủy

Phật Ðiều Phục Thượng, Phật Ðiều Phục

Phật Thiện Ðiều Tâm, Phật Thiện Ðiều

Phật Tịnh Căn, Tịch Yù, Tịch Thượng

Tịch Ðức, Cực Tịch, Ðáo Bỉ Ngạn

Tịch Tâm, Vô Thượng, Bậc Như Lai

Phật Trụ Biện Tịch, Thiện Ðiều Tâm

Phật Thiện Ðiều, Tịch Căn, Ðịnh Yù

Phật Tịch Thượng, Tịch Ðức, Xí Thạnh

Phật Ðộ Tịch, Bỉ Ngạn, Ðịnh Dũng

Phật Chúng Nhân Ðà La, Vương Chúng.

Phật Chúng Tự Tại, Ánh Tế Chúng

Chúng Thắng Tịnh Trí, Ðại Chúng Vương

Phật Chúng Chủ, Dũng Kiện Ðại Chúng

Thắng Chúng, Giải Thoát, Chánh Biến Tri.

Phật Kiến Pháp, Pháp Tràng, Pháp Khởi

Phật Pháp Thể, Tánh Khởi, Pháp Lực

Phật Pháp Phật, Diệu Pháp, Dũng Kiện

Phật Tự Tánh, Pháp Khởi, Quyết Ðịnh

Như Phật Tự Tánh Pháp Khởi này

Gồm có tám ức, đồng một tên

Phật này xuất hiện kiếp thứ hai

Các Như Lai này ta từng cúng

Phật tự tánh Pháp khởi, Quyết định

Nếu ai được nghe tên của ngài

Nghe xong, thọ trì, người tịnh nghiệp

Thì mau đạt được Tam muội này

Ta nay đã nói vua Mâu Ni

Sau đức Phật đó có Phật khác

Vô số kiếp không thể nghĩ bàn

Phật hiệu Thiện Thắng, Phật Âm Vương

Ðức Thiện Thắng Vương Như Lai ấy

Thọ mạng bảy vạn sáu ngàn năm

Hội đầu tiên của Như Lai này,

Có chúng La hán ba mươi ức

Sáu thông, ba minh, căn điều phục

Ðủ đại oai đức bốn thần túc

Thọ thân cuối cùng các lậu hết

Không bị nhiễm ô bởi tám pháp

Bấy giờ lại có chúng Bồ tát

Gồm có cả thảy vạn vạn ức

Ðược sáu thần thông đủ biện tài

Ðã học rốt ráo các pháp thông

Nhờ sức thần thông dạo ức cõi

Dần dà giáo hóa hơn hằng sa

Hỏi đạo đã làm các Như Lai

Ở lại sống nơi thế giới mình

Thông suốt tất cả Tu đa la

Du hành thế giới làm đèn sáng

Ðó là Phật tử đại thần lực

Vì lợi chúng sinh đi các nước

Xa lìa xú uế hành phạm hạnh

Không vì dục lạc tạo các ác

Thường làm chư thiên được vui sướng

Ở trong các hữu không nương tựa

Ở chỗ nhàn hạ thường khất thực

Ở nơi không tịch tu đầu đà

Nghe nhiều, nói khéo phước đức lớn

Hay đối ba cõi không đắm trước

Thích sự thiền định không sợ hãi

Với nghĩa quyết định được biện tài

Với nghĩa câu từ đã khéo học

Phật tử đã nói điều rốt ráo

Nhiếp hộ tất cả các nghiệp thiện

Với số lượng kiếp tu hành xong

Thường được chư Phật đều khen ngợi

Diễn thuyết nghĩa câu đạo giải thoát

Trì giới thanh tịnh không ô uế

Như xe trong nước không đắm trước

Ðối với ba cõi thường nhàm chán

Không bị thế pháp làm nhiễm ô

Trong tâm thanh tịnh nghiệp thanh tịnh

Ít muốn, biết đủ, đày oai nghi

An trụ thường đến trong Thánh đức

Cũng trụ ba minh đạo thù thắng

Cần phải tu hành không phải nói

Tự an trụ pháp nói cho người

Vì các Như Lai khéo nhiếp thọ

Giao phó tất cả pháp tạng Phật

Ở trong ba cõi sanh sợ hãi

Dùng tâm tịch tịnh thường tu định

Thường được gia hộ bởi chư Phật

Nói ngàn ức loại Tu đa la

Nếu nói ức loại Tu đa la

Xa lìa tất cả thế gian giáo

Tin nơi không tịch nói nghĩa sâu

Tiếng tăm vô lượng đức như biển

Ðồng tử! Ta ở vô lượng kiếp

Thường khen ngợi nó không gián đoạn

Nay ta chỉ nói một phần nhỏ

Giống như giọt nước trong biển cả

Khi ấy Phật Thiện Thắng Âm Vương

Nói định Tối thắng tịch diệt này

Lúc đó cõi ba ngàn đại thiên

Chư thiên và người đều nhẩy đầy

Khi đức Phật nói tịch định này

Lúc đó đại địa sáu chấn động

Số chúng trời người như hằng sa

An trụ, không thối đạo Bồ đề

Nhân Trung Tôn Vương tối thượng

Hiệu: Công Ðức Lực, Ðại Oai Thần

Có cả thảy năm trăm người con

Nhan mạo đoan chánh rất đẹp đẽ

Có tám ức phu nhân mỹ diệu

Ðều là quyến thuộc trong cung vua

Vua Công Ðức ấy sanh con gái

Cả thảy một ngàn bốn trăm ức

Vua ấy ngày mười lăm tháng tám

Liền muốn thọ trì bát trai giới

Cùng với tám ức na do người

Ðồng thời đi đến chỗ Như Lai

Cúi lạy Vô Thượng Lưỡng Túc Tôn

Liền ở trước Phật ngồi một bên

Như Lai biết tâm vua ưa thích

Ngài liền nói Thắng Tam muội này

Ðức vua nghe xong Tam muội ấy

Vứt bỏ ngôi vua như nhổ dãi

Cùng bỏ tất cả người thân ái

Ở chỗ đức Phậtxuất gia

Phu nhân hậu cung con thuận thảo

Và các cung nữ đều xuất gia

Quyến thuộc hậu cung và thân tộc

Bảy mươi sáu vạn na do tha

Vợ con đức vua đã xuất gia

An trụ dõng mãnh thường tinh tấn

Kinh hành không nghỉ ngót tám năm

Khi đi kinh hành thì mạng chung

Vị Ðại Thánh Vương mạng chung rồi

Sanh lại nước mình nơi cung vua

Bỗng nhiên hóa sanh không thai nhiễm

Bấy giờ Như Lai còn tại thế

Cha vua tên là Kiên Cố Lực

Mẹ vua tên là Ðại Trí Tuệ

Nhà vua sanh rồi thưa phụ mẫu

Phật Thắng Âm Vương trụ thế chăng?

Khi ấy Như Lai Thắng Âm Vương

Từng nói cho ta Thắng Tam muội

Chẳng là nhân duyên, chẳng vô duyên

Ở trong các hữu chỉ nói một

Là ấn khởi tánh tất cả pháp

Sanh ra vạn ức Tu đa la

Vô thượng tài các Bồ tát

Nay Phật vẫn nói Tam muội chăng?

Thuyết pháp không hoại nổi nhân quả

Hay tu Bát Thánh Ðạo tối thắng

Trí huệ Như Lai thấy thế gian

Rõ biết các pháp nhập Thánh đế

Thân nghiệp khẩu nghiệp đều thanh tịnh

Ý nghiệp thanh tịnh, tri kiến tịnh

Vượt qua tất cả các nhân duyên

Là Phật vẫn nói Tam muội chăng?

Hay biết các ấm, giới bình đẳng

Xa lìa tất cả các nhập tướng

Chứng nơi nhẫn tịch diệt, vô sanh

Là Phật vẫn nói Tam muội chăng?

Biện tài vô ngại, nhập tịch trí

Mau hiểu văn tự trí sai biệt.

Hay qua tất cả việc thủ trước

Là Phật vẫn nói Tam muội chăng?

Biết các âm thanh được hân hoan

Thấy chư Phật rồi thêm ưa thích

Ðược con đường Thánh thẳng nhu nhuyến

Phật vẫn nói Tam muội này chăng?

Không khởi sân hận, thường thuận hòa

Nói lời hay đẹp luôn mỉm cười

Thấy các chúng sanh trước an ủi

Phật vẫn nói Tam muội này chăng?

Cung kính tôn trưởng không giải đãi

Lễ bái cúng dường mãi chiêm ngưỡng

Thân mình thanh tịnh đủ bạch pháp

Pháp vương vẫn nói Tam muội chăng?

Với các bạch pháp thường không chán

Sống nơi không nhàn lìa tà mạng

Nhớ nghĩ cấp bậc không quên mất

Pháp vương vẫn nói Tam muội chăng?

Với Ấm thiện xảo, trí thần thông

Xa lìa phiền não bậc điều phục

Hay đọa phàm phu nói lời đạo

Pháp vương vẫn nói Tam muội chăng?

Thường hay siêng tu các thắng hạnh

Xa lìa phạm giới, biết trì, phạm

Và lìa tất cả các thân ái

Pháp vương vẫn nói Tam muội chăng?

Vượt qua tất cả các hữu sanh

Tự biết kiếp trước lìa các nghi

Trong lòng kính pháp nghe tổng trì

Nay Phật vẫn nói Tam muội chăng?

Pháp sanh thâm lợi thắng trí huệ

Tin thích bất động như núi chúa

Ðược môn Tổng trì không thối chuyển

Thế thân vẫn nói Tam muội chăng?

Thường cầu tất cả pháp bạch tịnh

Với trong ác pháp thường xa lìa

Tâm không du nhập bạn phiền não

Như Lai vẫn nói pháp này chăng?

Các học cứu cánh được tự tại

Với các thiền định đã cùng tột

Trí huệ hay khiến tin hoan hỷ

Mâu Ni vẫn còn thuyết pháp chăng?

Tăng trưởng Thắng trí biết sanh trí

Trí huệ vô lượng trí bình đẳng

Biết nơi các thú tùy sanh trí

Vua Mâu ni, thuyết thắng pháp này

Tín tâm xuất gia bỏ thế tục

Không đắm ba cõi, không nương tựa

Ðiều phục tâm mình khiến hân hoan

Là Phật nói Thắng Bồ đề này.

Ở trong các pháp không chấp trước

Thường hay thọ trì tất cả pháp

Với các nghiệp quả tin bất động

Thế Tôn tối thắng nói pháp này

Trí quả báo, giới luật trì phạm

Diệt trừ tất cả các tranh luận

Hay nói không trái, không tranh cãi

Mâu Ni, Lưỡng túc nói pháp này.

Thọ trì nhẫn nhục không sân hận

Hay thiện xảo với các vấn đáp

Biết các pháp cú trí sai biệt

Thế Tôn Ðại bi nói pháp này

Biết ngằn mé quá khứ vị lai

Hay biết tánh Phật pháp ba đời

Biết được ba đời, trí phần đoạn

Thế Tôn tự khiến nói pháp này

Thường hay trụ tâm vào một chỗ

Thường hay an thân nơi Thánh địa

Với các oai nghi thường không đổi

Nhân Trung Ngưu vương nói pháp này.

Có hổ, có thẹn tự trang nghiêm

Biết được thế gian đúng thời nói

Tất cả thường đưa tay bố thí

Thế Thân Vô Thượng nói pháp này.

Thường hay nhiếp tâmhổ thẹn

Cũng luôn xa lìa ác bất thiện

Tùy thuộc đầu đà thường khất thực

Bậc Mâu Ni Vương nói thắng pháp.

Tâm thường hổ thẹn, thường hân hoan

Với Phật cúng dường, hằng cung kính

Xa lìa kiêu mạn, tu lễ bái

Như Lai nói thắng diệu pháp này

Giữ tâm hạ liệt, kiến an nhàn

Tự hay đo lường ngằn mé trí

Xa lìa vô tri các chướng ngại

Thắng nhân như vậy nói pháp này

Hay nhập tâm trí ngôn ngữ trí

Quyết định hay biết các ngôn từ

Xa lìa tất cả việc không lợi

Như Lai pháp vương nói pháp ấy

Thường được thân cận thiện tri thức

Xa lìa tất cả người bất thiện

Thường được tin Phật, không phóng dật

Mâu Ni nói pháp Vô thượng này

Biết đời giả danh, chỉ ngôn thuyết

Thường chán tất cả khổ thế gian

Với lợi, được mất không mừng, lo

Mâu Ni nói pháp tối thắng ấy

Nếu được cung kính không tự cao

Không được cung kính tâm buông xả

Nếu được xưng tán, tâm không mừng

Thế gian sư nói pháp ấy.

Thường bỏ tất cả các ác đạo

Không giao thông cùng người thế tục

Với chúng xuất gia không liên can

Bậc trí tự nhiên nói pháp ấy

Người dũng xa lìa chỗ làm sai

Thường an trụ nơi việc Phật làm

Ðầy đủ oai nghi khéo chế tâm

Ðó là gốc pháp Phật đã nói

Thường xa tất cả pháp phàm ngu

Cũng lìa các pháp nhà ô uế

Thường hộ tất cả các Phật pháp

Pháp này được nói bởi Ðại trí

Ít nói, tốt đẹp khéo tương ưng

Ðối với người thường nói nhỏ nhẹ

Như pháp hàng phục các oán địch

Giáo pháp của Huệ Nhật Ðại Trí

Biết thời, tiết lượng việc ăn uống

Cẩn thận chớ tin pháp phàm phu

Nếu gặp duyên khổ tâm không buồn

Là Thiện Thắng giáo của Như Lai

Nếu thấy người tham được của cải

Thấy người phá giới khởi lòng thương

Dùng lòng từ mẫn để khai hóa

Ðó là Thắng pháp Như Lai dạy

Thường dùng pháp nhiếp hóa chúng sanh

Và bỏ tất cả các tài sản

Ðối với tám pháp không chứa nhóm

Như Lai Ðại Thánh đã dạy vậy

Tán thán trì giới, trách phá giới

Kiên trì tịnh giới không dối trá

Không chứa của riêng hay vứt bỏ

Tối Thắng giáo của Như Lai

Hết lòng thưa hỏi các sư trưởng

Tùy theo lời dạy đều làm theo

Thường hay thân cận các pháp sư

Như Lai Tối thắng giáo như vậy

Tâm thường ưa thích hằng cung kính

Cũng thường an trụ nơi chánh kiến

Với các thiện nghiệp hay quyết định

Như Lai Tối thắng giáo như vậy

Tạo các Thiện hạnh là trên hết

Phương tiện thiện xảo vứt bỏ tướng

Xa lìa nơi tưởng và sự tưởng

Vô thượng giáo của Như Lai

Với Tu đa la hay hiểu biết

Câu nghĩa chân thật khéo tu học

Chứng trí giải thoát thường thiện xảo

Tối thắng giáo của Như Lai

Mở miệng nói ra lời chánh ngữ

Tâm cảnh đối nhau lời quyết định

Tuyên nói điều gì không nghi ngờ

Tối thắng giáo của Như Lai

Thường nên tu tập các pháp không

An trụ sức giới, vô sở úy

Du hành tất cả nơi tịch định

Tối thắng giáo của Như Lai

Không cầu thân áilợi dưỡng

Trong lòng không có các quanh co

Xa lìa tất cả các ác kiến

Tối thắng giáo của Như Lai

Với Ðà la ni được thắng biện

Trí huệ chiếu sáng rộng vô biên

Thuyết pháp không dứt biện tài tịnh

Tối thắng giáo của Như Lai

Với bốn pháp môn tụ tập lâu

Hay nhập vào hạnh tối hiền thiện

Với lời Phật dạy phụng tu hành

Tối thắng giáo của Như Lai

Với nhẫn tùy thuận Phật đã dạy

An trụ nhẫn ấy lìa các lỗi

Xa lìa phi trí, trụ nơi trí

Tối thắng giáo của Như Lai

Nhờ trí trụ nơi phương tiện địa

Tụ tập hạnh xảo thiện Bồ tát

Làm việc tu hành của trượng phu

tối thắng giáo của chư Phật

Thường lìa phương tiện không đúng pháp

Như Lai nói đó là Phật địa

Nếu có trí tuệ Phật tùy hỷ

Tối thắng giáo của Như Lai

Phật địa rộng lớn chẳng hai thừa

Phàm ngu không trí sanh hủy báng

Người trí được chư Phật nhiếp thọ

tối thắng giáo của Như Lai.

Như Lai khéo biết pháp môn này

Chư thiên cung kính nên cúng dường

Ngàn ức phạm chúng hằng tùy hỷ

Như Lai vẫn nói Tam muội chăng?

Vô lượng ngàn rồng hằng lễ bái

Khẩn na, Kim sí thường tán thán

Dưới cây Bồ đề đã chứng đắc

Như Lai vẫn nói Tam muội chăng?

Thường vì người trí có mong cầu

Chính là tài sản thiện thắng pháp

Thắng pháp tài thí vui bậc nhất

Như Lai vẫn nói Tam muội chăng?

Kho tàng trí huệ nói không cùng

Hay nói ức diệu Tu Ða La

Khéo biết ba cõi trí như thật

Như Lai vẫn nói Tam muội chăng?

Nói về thuyền bè đến bờ kia

Không bị bốn giòng làm trôi nổi

Khiến cho tiếng tăm được thăng trưởng

Cho nên nói định Tam muội này

Tán thán thập loại tối thắng lực

Và khen Nhân trung Ðại Ngưu Vương

Công đức Bồ tát nhiều vô tận

Chính nhờ được Tam muội này vậy.

Nói về tâm từ, trừ sân hận

Làm người đại bi, đại hỷ xả

Với người đại thừa được sức sống

Chính nhờ nói Tam muội này vậy.

Sư Tử hống nói Thắng hạnh

Ðó là trí Phật, thắng A Hàm.

Ấn thể tánh tất cả các pháp

Tam muội như vậy Phật đã nói.

Hay được trí tất cả chủng trí

Là khu vườn người cầu Bồ đề

Nó hay phá hoại Ðịnh thắng tịch

Hay sanh công đức của chánh giác

Là Ấn tự tánh tất cả pháp

Ấn Diệu Pháp, vô sanh tịch diệt

Ðạo sư đã nói thắng Tam muội

Với người trụ pháp làm đèn sáng

Ở trong oán thù mà không thù

Như pháp hàng phục các ma quân

Ðạo sư nói thắng Tam muội này

Hiển thị sự biện tài vô ngại

Các lực giải thoát và các căn

Mười tám pháp bất cộng tối thắng

Do Tam muội này được pháp ấy

Cầu mong thật pháp bậc Thập lực

Bổn nhân thắng trí của chư Phật

Phật Ðại Trượng phu đã thuyết pháp

xót thương, cứu hộ thế gian

Phật tử tối thắng đã nhiếp thọ

Người cầu giải thất được dục lạ

Nghe định tịch tịnh khó thấy này

Là điều yêu thích các phật tử

Các Phật đầy đủ sự trí huệ

Bồ tát trí huệ khởi tâm cầu

Trong tâm thanh tịnh không phiền não

Phải tu định tịch diệt như vậy.

Thân nghiệp thanh tịnh, miệng cũng vậy

Như Lai chỉ bày cửa giải thoát

Không có tạp uế, ái dục trói

Cần nên siêng tu Tam muội này

Không sanh tham áisân nhuế

Sẽ mau đạt được Ðại trí huệ

Hay khởi ánh sáng diệt vô minh.

Cho nên phải tu định tịch diệt

Ngươi cầu giải thoát được viên mãn

Người cầu Tam muội liền đạt được

Lìa sự khen chê, mắt Như Lai

Cần nên tu tập Tam muội này

Sức thông du hành nhiều cõi Phật

Thần thông hay thấy các Phật đức

Ðà La Ni môn, được không khó.

Phải tu định thắng tịch như vậy

Gia trì niệm căn, được Bồ đề

Cũng hay gia trì thấy nhiều Phật

Dùng trí vi tế nói vô sanh

Tu Tam muội này được không khó.

Nếu không đúng pháp khó giác ngộ

Nhờ xa lìa tất cả văn tự

Không dùng âm thanh, hay hiểu rõ

Không từng nghe định, nên không biết

Bồ tát trí huệ đã hiểu rõ

Như Pháp Vương nói mà hay biết

Tịch diệt không hủy, hay đo lường

Chỉ vì cứu độ thế gian vậy

Dũng mãnh, tinh tấn hay Thiện trì

Kiên cố hộ niệm hằng không mất

Trí huệ dứt khổ và diệt trí

Phật vẫn nói Tam muội này chăng?

Diễn thuyết tất cả pháp không sanh

Cũng nói tất cả các hữu sanh

Chư phật Như Lai diệu trí huệ

Phật vẫn nói Tam muội này chăng?

Pháp này đồng tử đã hiển thị

Tám mươi ức ngàn na do tha

Ðược nhẫn âm thanh, Thắng Tùy Thuận

Không thối chuyển với Thắng Bồ đề

Vua Kiên Cố Lực bảo con rằng:

“Ðức Phật Thế Tôn nay vẫn còn”.

Vua hỏi đồng tử như thế này:

“Ngươi ở chỗ nào nghe pháp này?”

Con thưa: –Sát Lợi Vương lắng nghe:

–Con Từng thấy được mười ức Phật

Cứ trong mỗi kiếp đều cúng dường

Thưa hỏi đầy đủ tịch định này

Ðã qua trong chín mươi bốn kiếp

Thường được hiểu rõ trí túc mạng

Từ đó không sanh trong bào thai

Chính nhờ tu sức Tam muội này

Ở chỗ đức Phật hằng nghe pháp

Nghe rồi thâm tíntu tập

Con thường kiên cố tin như vầy

Chắc chứng Bồ đề quyết không nghi

Khi thọ trì, đọc tụng Tam muội

Nếu có người đến hỏi với con

Cho đến trong mộng, không nghi hoặc

Cần phải thành được đạo vô thượng

Con nhờ đó được không tham ái

Tự biết quyết định sẽ thành Phật

Cũng thường sanh ưa thích như vầy:

–Không biết khi nào được Bồ đề?

Vì học thọ trì Thắng Tam muội

Nếu có Tỳ kheo dạy cho con

Con sanh cung kính với người đó

Cũng như cung kính với chư Phật

Người kia dạy con một bài kệ

Khi tu hành thuận nhẫn Bồ tát

Lòng thành chiêm ngưỡng như thầy hay

Khiêm hạ cung kínhcúng dường

Chỗ Tỳ kheo trung niên, già trẻ

Hổ thẹn thiên hạ sanh cung kính

Cung kính hiện tại được danh xưng

Phước đức đời sau tiếng tăng trưởng

Với chuyện tranh cãi không ưa thích

Lúc đó con an trụ thiểu sự

Hay biết ác nghiệp sanh ác đạo

Hay biết thiện nghiệp sanh thiện Như Lai đạo

Không nên nói pháp kẻ phóng dật

Với họ nghe toàn lời thô bỉ

Cũng tự suy tư nghiệp ác mình

Ðã tạo nghiệp rồi không hề mất

Lúc đó con không sân không mạn

Phật nói nhẫn lực siêng tu hành

Chư Phật luôn luôn khen sự nhẫn

Tu nhẫn để được đạo Bồ đề

Con vốn trì giới luôn thanh tịnh

Cũng khiến chúng sanh trụ tịnh giới

Luôn luôn tán thán giới tối thượng

Do sống tinh giới người tín thọ

Luôn luôn khen ngợi chỗ nhàn tịnh

Cũng tự an trụ trì tịnh giới

Khuyên người tu hành tám trai giới

Cũng lại dạy người học Bồ đề

Khuyên người tu tập tịnh phạm hành

Cũng lại dạy người trụ nghĩa pháp

Vì người hiển thị đạo Bồ đề

Sau khi mạng chung thấy nhiều Phật

Con nhớ khi ở kiếp quá khứ

Phật hiệuDiệu Thanh Nhân

Ở trước đức Phật phát nguyên lớn

Hằng trụ sức nhẫn không lay động

Khi phát lời thề nặng như vậy

Trải qua tám ức bốn vạn năm

Khi ma hủy báng đến ma nhục

Tâm con như trước không biến động

Bấy giờ hàng phục ma quân xong

Biết con từ nhẫn sức kiên cố

Với tâm thanh tịnh lạy dưới chân

Năm trăm chúng phát tâm Bồ đề

Thời quá khứ con không keo kiết

Luôn luôn tán thán hạnh bố thí

Giàu lớn, của cảitiếng tăm

Gặp thời đói kém làm thí chủ

Nếu có Tỳ kheo trì định này

Hoặc hay tu tập nói cho người

Liền tự cúng dường ngài mãi mãi

Nhờ có tâm này khiến thành Phật

Lúc đó con có nghiệp vô thượng

Thấy Phật Thế Tôn, nhân trung tôn

Ðời đời trường thọ giới cụ túc

Ðược làm Tỳ kheo nghe pháp

Con thường thích tu hạnh đầu đà

Cũng ở rừng không tịch lan nhã

Không vì ăn uống mà dối láo

Ðược một phần nhỏ thấy đầy đủ

Con có một thời không ganh ghét

Con thường không đắm trước cư gia

Không đắm trước nhà không ganh ghét

Ưa thích nhàn tịnh không thối lui

Lúc đó con luôn sống hạnh từ

Nếu bị chửi mắng không sân hận

Dùng tâm từ bi khéo điều phục

Vòng hoa danh tiếng khắp mười phương

Thường tập thiểu dụctri túc

Cũng thường khất thực không mệt mỏi

Thệ nguyện kiên cố không lay động

Tập hành tí tâm thường thanh tịnh

Ở chỗ Như Lai thêm niềm tin

Bởi nhờ tin Phật có thắng lợi

các căn không thuyết thường đoan chánh

Biết điều Phật nói thường thực hành

Thành tựu hạnh kiên cố như vậy

Hạnh kiên cố này có lợi gì?

Chư thiên cúng dường mừng khuyến thỉnh

Con đã nói công đức diễn thuyết

Thế gian thượng đức và đức khác

Nếu có người trí nên tu học

Vì người hành đạo cầu Bồ đề

Nay con hằng nhớ hạnh khó làm

Mà thuở xưa kia thường tu tập

Nếu nay diễn thuyết thời gian lâu

Cùng họ tương tùy đến chỗ Phật

Bồ tát thắng trí đạt lợi này

Ðạt được đầy đủ năm thần thông

Nhờ sức thần túc đến chỗ Phật

Cùng Phạm thiên vương cả ngàn vạn

Vua kiên cố lực tâm hoan hỷ

Cùng các quyên thuộc ức vạn chúng

Ðồng đi đến chỗ đức Như lai

Ðảnh lễ dưới chân đứng trước Phật

Khi Phật biết tâm vua hoan hỷ

Liền nói cho vua Tam muội này

Ðức vua nghe tam muội này xong

Vứt bỏ ngôi vua mà xuất gia

Vua đã xuất gia với định này

Thọ trì đọc tụng nói người khác

Mãi về sau hơn sáu mươi kiếp

Thành Phật hiệu là Liên Hoa Thượng

Vua có sáu trăm ức quyến thuộc

Ðồng lúc theo vua đến chỗ Phật

Họ nghe Thắng Tam muội như vậy

Hân hoan nhảy nhót cũng xuất gia

Họ xuất gia rồi với định này

Thọ trì đọc tụng nói người khác

Hơn sáu mươi na do tha kiếp

Ðồng trong một kiếp đều thành Phật

Hiệu: Phật Thiện Ðiều Phục Trí Thượng

Vô lượng người trời cùng cúng dường

Mỗi một đức Phật tiếng tăm lớn

Ðộ thoát chúng sanh hằng hà sa

Vua Kiên Cố Lực là thân ta

Tu hành hạnh Bồ đề thắng diệu

Thưởng xưa ta có năm trăm con

Bọn họ sau cùng làm hộ pháp

Ta ở như vậy ngàn ức kiếp

Dũng mãnh tinh tấn lìa giải đãi

Chuyên tâm cầu thắng Tam muội này

Chính vì vô thượng Bồ đề vậy

Ðồng tử! Nếu có các Bồ tát

Muốn đạt được như thắng định này

Tinh tấn dũng mãnh không tiếc mạng

Phải siêng tinh tấn học theo ta.

Xem thêm bản PDF


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12034)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12581)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10586)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10339)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7004)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13695)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9119)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11941)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11404)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14856)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13023)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20534)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17463)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant