Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02. Phẩm Thuần Đà

06 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 14537)
02. Phẩm Thuần Đà

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN 
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

II
PHẨM THUẦN ĐÀ THỨ HAI

(Hán bộ phần đầu quyển thứ hai)

Bấy giờ trong đại hội có vị ưu-bà-tắc, con nhà thợ thuyền trong thành Câu-Thi-Na, tên là Thuần- Đà cùng với mười lăm bạn đồng nghiệp, vì muốn đem qủa lành đến cho người đời nên đến trước Phật, quỳ gối chắp tay cúi lạy chơn Phật, buồn khóc rơi lệ, bạch rằng : “Ngửa mong đức Thế- Tôn và Tỳ-Kheo-Tăng thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con, cho vô-lượng chúng sanh được độ.

Bạch Thế-tôn! Chúng con từ nay nghèo cùng đói khổ không ai cứu giúp, không nơi nương nhờ, muốn xin phước lộc tương lai ở Đức thế-Tôn (17). Cúi xin xót thương nhận chút lễ mọn rồi sẽ nhập Niết-bàn. Bạch Thế-Tôn ! Ví như có người nghèo cùng đến xứ xa lạ ra sức làm ruộng, đặng trâu cày giỏi, ruộng đất tốt màu, bằng phẳng sạch cỏ, chỉ còn chờ trời mưa. Trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng, ruộng tốt bằng phẳng dụ cho trí huệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền não. Bạch Thế-tôn ! Nay đây con đã có trâu giỏi ruộng tốt sạch cỏ, chỉ còn trông chờ trận mưa pháp cam-lồ của Như-Lai. Người nghèo kia chính là con đây,nghèo nơi của báu pháp-bảo vô-thượng. Ngửa mong xót thương dứt trừ sự nghèo cùng khốn khổ của chúng con và cả vô-lượng chúng-sanh. Cúng phẩm của con dầu kém mọn, cũng mong đức Như-Lai và chư Tăng dùng được đủ. Ngày nay con không nơi nương nhờ, không ai nâng đỡ, xin đức Thế-tôn rủ lòng thương xót coi con như La-Hầu-La (18).

Đức Thế-Tôn, bực nhứt-thiết chủng- trí vô- thượng điều-ngự, bảo Thuần-Đà rằng Lành thay! Lành thay ! Hôm nay Như-Lai trừ sự nghèo cùng cho ông, mưa pháp vô-thượng xuống cho ruộng thân tâm ông mọc mầm pháp. Ông muốn cầu thọ-mạng, sắc, lực, an-lạc vô ngại, biện-tài nơi Như-Lai. Như-Lai sẽ ban cho ông các thứ ấy. “Thuần-Đà! Thí- thực có hai, đồng một quả báo; một là thọ xong liền chứng vô- thượng chánh-đẳng chánh-gíac, hai là thọ xong liền nhập Niết-Bàn. Hôm nay Như-Lai nhận phần cúng dường cuối cùng của ông, cho ông đầy đủ bố-thí ba-la-mật” 19).

Thuần-Đà liền bạch Phật rằng ;” Như Đức Thế-Tôn vừa dạy rằng hai lúc cúng-thí quả-báo đồng nhau, theo ý con nghĩ, e rằng không đúng ngĩa. Vì vị thọ-thí trước là bực chưa sạch phiền não, chưa chứng nhứt-thiết-chủng-trí (20) cũng chưa có thể làm cho chúng sanh đầy đủ bố-thí ba-la-mật. Còn vị thọ thí sau là bực nhứt-thiết chủng-trí, đã sạch phiền-não, có thể làm cho khắp chúng sanh đầy đủ bố-thí-ba-la-mật.
 
Vị thọ-thí trước còn là chúng sanh, vị thọ-thí sau là bực trời trong các trời. Vị thọ-thí trước là thân tạp-thực, thân phiền-não, thân vô-thường cuối cùng; vị thọ-thí sau là thân kim-cang không phiền- não, là pháp-thân chơn-thường vô cùng. Sao lại cho rằng hai sự cúng-thí quả báo đồng nhau ?
 
Vị thọ thí trước chưa được đầy đủ đàn-ba-la-mật nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật, chỉ có nhục nhãn chưa có huệ nhãn nhẫn đến Phật-nhãn (21). Vị thọ thí sau đã được đầy đủ cả sáu ba-la-mật nhẫn đến Phật-nhãn. Sao lại cho rằng hai sự cúng-thí được quả-báo đồng nhau?
 
Bạch đức Thế-Tôn ! Vị thọ-thí trước, thọ xong ăn nuốt vào bụng tiêu hóa đặng sống còn, đặng sức khỏe, xinh đẹp, an vui, vô-ngại-biện. Vị thọ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu, không năm sự quả. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau?”
 
Đức Phật phán ;” Thuần-Đà! Như-lai đã từ vô-lượng vô-biên vô số kiếp (22) không có những thân ăn uống, thân phiền não, thân sau cùng, mà là thân chân-thường, thân kim- cang, là pháp- thân.
 
Thuần-Đà ! Người chưa thấy Phật- tánh gọi là thân tạp-thực, phiền mão, cuối cùng. Lúc đó Bồ-tát thọ đồ ăn uống rồi nhập kim-cang tam-muội, đồ ăn tiêu hóa xong liền thấy Phật-tánh, chứng vô- thượng chánh đẳng chánh giác. Vì lẽ ấy nên Như-Lai nói hai sự cúng-thí được quả báo đồng nhau.
 
Lúc thành đạo, Bồ-tát phá hoại bốn ma (23), nay nhập Niết-bàn cũng phá hoạI bốn ma , nên Như-Lai nói hai quả-báo không sai khác.
 
Lúc trước dẫu Bồ-tát chẳng rộng giảng-diễn mười hai bộ kinh nhưng đã thông đạt rồi, nay nhập Niết- bàn rộng vì chúng sanh phân biệt giảng dạy. Vì thế nên Như-Lai nói hai quả báo đồng nhau.
 
Thuần-Đà ! Thân của Như-Lai đã từ vô-lượng vô số kiếp chẳng thọ sự ăn uống. Vì hàng Thanh-Văn mà nói rằng trước thọ cháo sửa của hai nàng chăn bò là Nan-Đà và Nan- Đà Ba- La, rồi sau mới chứng quả vô- thượng chánh-giác, nhưng chính thiệt Như-Lai không ăn. Hôm nay vì đại-chúng trong hội nầy, mà Như-Lai nhận sự cúng dường cuối cùng của ông dưng. thiệt ra Như-Lai không ăn”.
 
Đại-chúng nghe đức Thế-Tôn khắp vì đại-hội mà nhận sự cúng dường cuối cùng của Thuần-Đà, đều vui mừng hớn hở. Đồng rập tiếng khen rằng : Lành thay ! Lành thay ! Hi hữu thay cho Thuần- Đà ! Thiệt ông không uổng tên là Thuần-Đà. Vì hai chữ Thuần-Đà là “hiểu diệu-nghĩa”. Ông nay kiến lập diệu-nghĩa như thế, cứ nghĩa đặt tên gọi là Thuần-Đà. Hiện đời đây ông được đầy đu ûcả danh tiếng, tài lợi, đức hạnh, chí nguyện. Rất lạ cho ông Thuần-Đà ! Sanh trong loài người lại được quả lành vô- thượng rất khó đươc. Lành thay cho Thuần-Đà ! Trong đời khó có người thứ hai. khác nào hoa Ưu-Đàm. Đức Phật ra đời là rất khó. Gặp Phật sanh lòng tin, được nghe chánh pháp, lại là rất khó. Đức Phật sắp nhập Niết-Bàn, thỉnh được đức Phật nhận phần cúng dường cuối cùng lại càng khó hơn.
 
Nam-mô Thuần-Đà ! Nam-mô Thuần-Đàø ! Nay ông đã đầy đủ bố-thí ba-la-mật. Đại chúng liền nói kệ rằng :

Ông dầu sanh nhơn đạo
Đã siêu trời thứ sáu
Tôi cùng tất cả chúng
Nay xin yêu cầu ông :
Đấng tối-thắng trong người
Nay sẽ nhập Niết-bàn,
Ông nên thương chúng tôi
Xin kíp thỉnh đức Phật
Ở lâu lại thế gian
Diễn thuyết pháp vô-thượng
Mà bực trí tán thán
Hầu lợi ích chúng sanh.
Nếu ông không thỉnh Phật
Mạng tôi ắt khó toàn
Ông nên vì chúng tôi
Đãnh lễ đức Điều-Ngự.
 
Thuần-Đà vui mừng hớn hở như người có cha mẹ vừa chết bỗng sống lại. Ông đãng lễ Phật mà nói kệ rằng :
 
Vui thay được lợi mình !
Khéo thọ nơi thân người
Dẹp trừ tham sân si
Thoát hẳn ba ác đạo (24)
Thích thay được lợi mình !
Được gặp kho vàng báu
Gặp gỡ đức Điều-Ngự
Chẳng sợ đọa súc sanh
Phật như hoa Ưu-Đàm (25)
Khó gặp gỡ tin kính
Gặp rồi trồng căn lành
Dứt hẳn khổ ngạ-quỷ,
Laị cũng hay tổn giãm
Chủng loại A-Tu-La.
Hột cải ghim đầu kim (26)
Phật ra đời khó hơn,
Tôi đã đủ đàn độ (27)
Độ thiên nhơn sanh tử.
Phật chẳng nhiễm việc đời
Như hoa sen ở nước
Khéo dứt giống tam-giới (28)
Thoát hẳn giòng sanh tử,
Sanh làm người là khó
Gặp đời Phật cũng khó
Dường như trong biển lớn
Rùa mù gặp bọng cây.
Nay tôi dưng thực phẩm
Nguyện đặng báo vô thượng
Xô phá phiền –não kiết
Tất cả không bền chắc.
Nay tôi ở nơi đây
Chẳng cầu thân nhơn thiên
Dầu có được thân ấy
Cũng không lòng ham thích
Được Phật nhận cúng phẩm
Con vui sướng không lường
Khác nào bông Y-Lan (29)
Ngát mùi hương chiên đàn.
Thân tôi như Y-Lan
Thế-Tôn nhận cúng phẩm
Như ngát hương chiên đàn
Vì thế tôi vui mừng.
Tôi nay được hiện báu
Chỗ tối-thắng thượng-diệu
Đế-Thích cùng Phạm-Thiên (30)
Đều đến cúng dường tôi,
Tất cả các thế gian
Đều sanh lòng buồn khổ
Vì biết Phật Thế-tôn
Muốn nhập đại-niết-bàn
Đồng cất tiếng xướng to :
Đời sẽ không Điều-Ngự
Chẳng nên bỏ chúng sanh
Phải xem như con một
Phật ở giữa chư tăng
Diễn thuyết pháp vô thượng
Như núi báu Tu-di
Cao vọi giữa biển cả.
Trí Phật vay khéo dứt
Tối vô-minh của tôi
Dường như giữa hư không
Mây nổi đặng mát mẻ
Như –Lai khéo dứt trừ
Tất cả các phiền não(31)
Như mặt trời mọc lên
Tan mây sáng khắp soi
Các loài chúng sanh đây
Khóc than sưng cả mắt
Đều bị dòng sanh tử
Đẩy trôi rất khốn khổ.
Đức Thế-Tôn cần phải
Thêm căn lành chúng sanh
Vì dứt khổ sanh tử
Ở nán lại thế gian.
 
Phật bảo Thuần-Đà: ”Đúng như lời ngươi nói. Phật ra đời là khó như hoa Ưu-đàm. Gặp Phật sanh lòng tin lại khó hơn. Phật sắp nhập Niết-Bàn, dược cúng dường lần cuối cùng đầy đủ bố-thí ba-la-mật, lại là việc rất khó gấp bội.
 
Nay ông chớ buồn khổ, nên phải vui mừng vì đã được dịp cúng dường Như-Lai lần cuối cùng, do đây thành-tựu bố-thí ba-la-mật. Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lại nơi đời, mà phải quan sát cảnh giới của chư Phật thảy đều vô-thường, tánh và tướng của các hành-pháp cũng như vậy”.

Đức Phật liền vì Thuần-Đà mà nói kệ rằng :

Tất cả các thế gian
Có sanh đều có tử,
Dầu thọ-mạng vô-lượng
Tất có kỳ phải hết.
Có thạnh tất có suy,
Sum hiệp có biệt ly,
Tuổi trẻ chẳng dừng lâu
Khỏe mạnh bị bịnh xâm,
Sự chết nuốt mạng người
Không có gì thường còn.
Bực vua chúa tự-tại
Thế-lực không ai bằng
Tất cả đều dời đổi
Mạng sống cũng như vậy.
Sự khổ xoay không ngằn
Lưu-chuyển không thôi dừng
Ba cõi đều vô thường
Mọi loài không có vui.
Tánh tướng của pháp có
Tất cả đều trống không,
Pháp sanh diệt lưu-chuyển
Luôn có những lo khổ,
Sợ sệt, các lỗi ác,
Già, bịnh, chết, buồn rầu.
Những khổ ấy không ngằn
Hư rã nhiều tai hại,
Phiền não bao gói kín
Khác nào tầm ở kén,
Là người có trí huệ
Đâu nên thích chốn nầy.
Các khổ nhóm nơi thân
Tất cả đều nhơ nhớp,
Tai nạn, ghẻ nhọt thảy
Cội gốc của khổ đau,
Dầu là thân chư-Thiên
Đều cũng giống như vậy.
Dục ái đều vô-thường
Nên Phật chẳng tham ưa,
Ly dục khéo tư duy
Đặng chứng quả chơn thiệt
Rốt ráo dứt sanh tử
Nay sẽ vào Niết-bàn.
Phật đãvượt bờ kia
Đã thoát hẳn các khổ
Vì thế nên hiện nay
Thuần hưởng những diệu-lạc,
Do các nhơn duyên ấy
Chứng quả vị chơn thiệt
Dứt hẳn những triền phược
Hôm nay vào Niết-bàn.
Phật không già, bịnh, chết,
Thọ mạng vô cùng tận,
Phật nay vào Niết-bàn
Như ngọn lửa lớn tắt.
Thuần-Đà ! Ông chẳng nên
Suy lường nghĩa Như-Lai,
Nên xét tánh Như-Lai
Dường như núi Tu Di.
Phật nay vào Niết-bàn
Thọ-trì bệ nhứt lạc,
Pháp chư Phật như vậy
Các ông chớ nên khóc.
 
Thuần-Đà bạch Phật rằng : Bạch đức Thế-Tôn ! Đúng như lời Phật dạy. Trí huệ của con kém nhỏ như muỗi mòng, đâu có thể nghĩ bàn được nghĩa Niết-bàn sâu kín của Như-Lai.
 
Bạch Thế-Tôn ! Ví như người tuổi thơ ấu mới xuất gia, dầu chưa thọ giới cụ-túc, mà đã được dự vào số chúng tăng. Con nay cũng vậy, nhờ thần lực của Phật và BồTát, mà con được dự vào số đại Bồ-Tát, đã được cùng hàng với các bực Đại-Long-Tượng (32) dứt phiền não, như ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương –Tử v.v…
 
Thế nên hôm nay con muốn đức Như-Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn .
 
Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương-Tử (33) bảo Thuần-Đà rằng : Ông chẳng nên nói rằng muốn đức Như-Lai thường ơ nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn. Ông phải quán-sát tánh tướng của hành pháp, quán sát như thế đặng “không” tam-muội. Muốn cầu chánh pháp nên học pháp quán-sát như vậy.
 
Thuần-Đà nói ;” Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Đức Như-Lai là bực cao cả nhứt trong người trên trời. Đức Như-Lai như thế há lại là hành pháp sao? (34) Nếu là hành- pháp thời là pháp sanh diệt. Ví như bóng nước chóng nổi chóng tan, qua lại xoay vần như bánh xe lăn, các hành- pháp cũng thế. Tôi nghe chư Thiên sống rất lâu, tại sao đức Thế-Tôn là bực trời trong các trời mà lại sống chẳng đầy trăm tuổi.
 
Cách hành-pháp là pháp sanh tử, nếu đức Như-Lai nhập diệt thời đồng với hành-pháp, đâu được gọi là bực trời trong các trời, là pháp vương tự- tại. Vì thế chẳng nên xem đức Như-Lai đồng với hành-pháp.
 
Đức Như-Lai hàng phục phiền- não ma, ngũ-ấm ma, thiên-ma, tử ma do nhơn duyên ấy mà thành-tựu đầy đủ vô-lượng công-đức chơn thiệt, nên hiệu là Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến- Tri, hiệu là Tam-Giới-Tôn.
 
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi : Chẳng nên ức-tưởng phân biệt mà đem pháp Như-Lai cho đồng với các hành pháp. Ví như phú ông sanh con trai, nhà tướng số xem trẻ ấy có tướng đoản mạng. Phú ông biết rằng trẻ ấy không thể nối lấy gia nghiệp, nên chẳng ái trọng. Vả kẻ đoản thọ thời chẳng được mọi người kính trọng. Nếu đức Như-Lai đồng với các hành-pháp, ắt chẳng được sa-môn bà-la-môn tất cả trời người kính thờ, mà pháp chơn thiệt bất biến bất dị của Như-Lai dạy ra cũng không ai tín thọ. Vì lẽ ấy, ngài chẳng nên nói rằng Như-Lai đồng với các hành-pháp.

Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như bần-nữ đang có mang mà lại đói khát không nhà cửa, đẻ nhờ dưới mái nhà kia, chủ nhà xua đuổi, bần nữ bồng con muốn đến xứ khác để mưu sinh. Dọc đường phải lội qua con sông, ra giữa dòng bị nước chảy, xoáy mạnh, không nỡ buông con nên mẹ con đồng bị chết đuối. Vì tấm lòng từ ái ấy, bần nữ được sanh lên cõi phạm- thiên.
 
Nếu có thiện-nam-tử muốn hộ trì chánh-pháp, chớ nói Như-Lai đồng với các hành-pháp hay chẳng đồng với các hành-pháp. Chỉ nên tự trách mình ngu si không có huệ- nhãn, chánh-pháp của Như-Lai không thể nghĩ bàn, không nên tuyên nói Như-Lai quyết định là hữu-vi, hay vô-vi. Nếu là người chánh-kiến nên nói Như-Lai quyết định là vô- vi. Vì sao thế? Vì nói Như- Lai là vô-vi thời có thể sanh pháp lành cho chúng sanh.
 
Thiện-nam-tử hộ-trì chánh-pháp thà chết chớ chẳng nói Như-Lai đồng với pháp hữu-vi, mà chỉ nên nói Như-Lai đồng với pháp vô-vi. Nhơn vì hộ- trì chánh-pháp nói Như-Lai đồng với pháp vô-vi mà đặng quả vô-thượng chánh-giác. Như bần-nữ thà chết đuối giữa dòng chớ không chịu buông con, nhơn đó mà được sanh lên cõi phạm-thiên. Thiện nam-tử này chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến. Khác nào bần nữ kia chẳng cầu sanh phạm-thiên mà quả phạm- thiên tự đến.
 
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như người đi xa giữa đường mỏi mệt, nghỉ nhờ nhà người. Giữa lúc ngũ, nhà ấy bổng bốc lửa to. Người ấy choàng dậy biết chắc phải chết, lòng hổ thẹn sọ thân thể lõa lồ bèn lấy y áo vấn thân mà chết, liền được sanh lên cõi trời Đạo-Lợi. sau đó tám mươi đời làm Đại-Phạm-Vương, trăm ngàn đời làm Chuyển- Luân- vương, người ấy mãi hưởng phước lành như vậy, hẳn không bị đọa vào ác đạo. Vì duyên cớ ấy, nếu là người có tâm tàm-quý chẳng nên xem Như-Lai đồng với các hành- pháp.
 
Bọn ngoại đạo tà-kiến mới được nói Như-Lai đồng với pháp hữu-vi.
 
Là Tỳ-Kheo trì-giới đâu nên có quan niệm rằng Như-Lai là pháp hữu-vi.
 
Nếu nói Như-lai là pháp hữu-vi, đó chính là vọng-ngữ. Phải biết người nầy sẽ đọa địa ngục.
 
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như-Lai chơn thiệt, chính là pháp vô-vi, chẳng nên lại nói là hữu-vi. Từ nay ở trong đường sanh tử, ngài nên bỏ vô-trí mà cầu nơi chính-trí. Phải biết Như-Lai chính là vô-vi. Được chánh- quán như thế, sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng, chóng thành tựu quả vô-thượng bồ-đề.”
 
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát khen Thuần-Đà rằng :”Lành thay ! Lành thay ! Nay ông đã tạo nhơn duyên trường thọ, ông biết được Như-Lai là pháp thường-trụ, là pháp chẳng biến-dị, là pháp vô-vi. Nay ông khéo che đậy tướng hữu-vi của Như-Lai, sau nầy ông sẽ đặng đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình, mười tám pháp bất cộng, thọ mạng vô-lượng, luôn được an vui, không còn sanh tử sẽ thành bực Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri. Như người lữ khách bị lửa thiêu mà có lòng hổ thẹn lấy y áo vấn thân, nhờ tâm lành ấy nên được sanh lên cõi Đao-Lợi, lại nhiều đời làm Phạm-Vương, Chuyển- Luân-Vương, luôn được an vui chẳng sa ác đạo.
 
Tôi cùng ông cũng đều nên che đậy tướng hữu-vi của Như-Lai. Lát nữa đức Thế-Tôn sẽ giảng rộng về ý nghĩa ấy.
 
Nên để hữu-vi vô-vi lại đó. Ông nên kíp lo cúng-dường cơm nước cho kịp giờ, và cũng nên sắm sữa đồ cần thiết cho hàng tứ-chúng từ xa hội về đang mõi mệt. Cúng đường như thế chính là đầy đủ chủng-tử căn-bổn của đàn-ba-la-mật.
 
Thuần-Đà ! Nếu cúng dường đức Phậtchư Tăng lần cuối cùng, hoặc nhiều hay ít, đủ hay thiếu đều phải sớm lo cho kịp giờ. Đức Như-Lai sẽ nhập Niế-bàn”.
 
Thuần-Đà nói : “Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Sao ngài lại tham chút uống ăn mànói hoặc ít hoặc nhiều, đủ hay chẳng đủ, rồi bảo tôi lo cho kịp giờ ? Xưa kia đức Như-Lai khổ hạnh trọn sáu năm còn chịu nổi, huống là giây lát hôm nay. Ngài thiệt cho rằng đức Như-Lai chánh giác thọ đồ uống ăn nầy ư ? Tôi thời biết quyết định thân Như-Lai chính là pháp-thân, không phải thực-thân.
 
Phật bảo Văn-thù Sư-Lợi :’ Thật đúng như lời của Thuần-đà ! Lành thay Thuần-Đà ! Ông đã thành-tựu đại trí-huệ, khéo thâm nhập kinh- điển đại-thừa”.
 
Văn-Thù Sư-Lợi nói với Thuần-Đà : “ Ông cho rằng Như-Lai là vô-vi, thân Như-Lai là trường-thọ, hiểu biết như vậy đức Phật rất hài lòng”.
 
Thuần-Đà nói :” Đức Như-Lai chẳng riêng gì hài lòng nơi tôi, mà cũng hài lòng với tất cả chúng sanh”.
 
Văn-Thù Sư-Lợi nói :” Đức Như-Lai đối với ông, với tôi, với tất cả chúng sanh, đều hài lòng”.
 
 Thuần-Đà nói :’ Ngài chẳng nên nói đức Như-Lai hài lòng. Luận về hài lòng, chính là đảo-tưởng. Phàm có đảo-tưởng thời là sanh tử, có sanh tử thời là pháp hữu-vi. Vì lẽ ấy ngài chẳng nên cho Như- Lai là hữu-vi. Nếu nói Như-Lai là hữu-vi thời ngài cùng tôi đều điên-đảo cả.
 
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Đức Như-Lai không có ái- niệm. Luận về ái- niệm , như trâu mẹ kia ái-niệm con của nó, dầu là đói khát đi tìm cỏ nước, hoặc no hay chưa no, bỗng nhiên nhớ con liền trở về. Chư Phật Thế-Tôn không có ái-niệm như vậy, bình đẳng xem tất cả chúng sanh như La-Hầu-La. Từ-niệm bình đẳng như vậy chính là cảnh-giới trí-huệ của chư Phật.
 
Thưa ngài Văn-thù Sư-Lợi ! Ví nnư quốc vương ngự trên xe tứ mã, có người muốn cho xe bò theo kịp xe vua, tất không thể được. Ngài cùng tôi muốn cùng tận chỗ vi-mật thâm-áo của Như-Lai cũng không thể được.
 
Ví như Kim-Sí-Điểu (35) bay vọt trên cao vô lượng do-tuần, nhìn xuống biển cả thấy rõ những loài thủy tộc cùng loài rồng và bóng của nó. Kẻ phàm tục trí kém,
không thể suy lường chỗ thấy của Kim-Sí-Điểu. Cũng thế, ngài cùng tôi không thể suy lường được trí huệ của Như-Lai”.
 
 Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát bảo Thuần-Đà rằng : “ Đúng như lời ông vừa nói. Đối với những việc ấy không phải là tôi không hiểu. Chẳng qua vì muốn đem việc của Bồ-Tát thử ông đó thôi”.
 
Bấy giờ đức Thế-tôn từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng chiếu thân ngài Văn-Thù. Ngài Văn- Thù liền bảo Thuần-Đà rằng :” Nay đây đức Nnhư-Lai hiện thoại-tướng từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng như thế chẳng phải là không duyên cớ, đó
là điềm đức Phật sắp nhập Niết-bàn. Ông phải sớm lo dưng lễ cúng dường lên đức Phậtchư Tăng cho kịp giờ.”
 
Đức Phật bảo Thuần-Đà :” Đã phải giờ cho ông dưng thực phẩm cúng dường Phật và đại- chúng. Như-Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
 
Đức Phật bảo luôn ba lần như vậy.
 
Thuần-Đà nghe đức Phật dạy như vậy, bất giác nghẹn ngào khóc than nức nở:

“ Khổ thay ! Khổ thay ! Thế gian sẽ trống rỗng.” Rồi ông lại thưa cùng đại-hội :

“ Hôm nay chúng ta phải đồng tha-thiết đảnh lễ cầu đức Phật đừng nhập Niết-bàn.”
 
 Đức Thế-Tôn lại bảo Thuần-Đà :”Ông chớ nên khóc than tiều-tụy như vậy. Ông phải quán sát thân nầy như cây chuối, như ánh nắng, như bọt nước, như huyễn-hóa, như thành Càn-thát-bà, như đồ gốm chưa hầm, như làn chớp, như hình vẽ trên nước, Như tù sắp hành hình, như trái muồi, như cục thịt, như bức dệt đã hết khổ, như chày giã lên xuống. Phải quán sát các hành-pháp như món ăn lẫn chất độc, pháp hữu-vi nhiều tai hại.”
 
Thuần-Đà bạch Phật :” Đức Thế-Tôn chẳng muốn ở lại đời làm sao con không buồn khóc cho được. Khổ thay ! Khổ thay ! Thế-gian sẽ trống rỗng. Ngữa mong Đức
Thế-Tôn thương xót chúng con và chúng sanh mà ở luôn nơi đời, chẳng nhập Niết-bàn”. 
 
 Phật bảo Thuần-Đà : Ông chẳng nên nói rằng thương xót các ông mà ở luôn nơi Đời. Chính vì thương xót ông và các chúng sanh mà hôm nay Phật mới muốn nhập Niết-bàn. Vì sao thế ? Chư Phật pháp-nhĩ như vậy. Pháp hữu-vi cũng thế. Nên chư Phật nói kệ rằng :

 Các pháp hữu-vi
 Tánh nó vô thường
 Sanh rồi chẳng trụ
 Tịch-diệt là vui.
 
Thuần-Đà ! Ông nên quán-sát các hành pháptạp độc. Các pháp hữu-vi là vô-ngã vô-thường chẳng trụ. Tấm thân nầy có rất nhiều tai hại như bóng nước. Vì lẽ ấy ông chớ nên khóc lóc”.
 
Thuần-Đà bạch Phật :” Thật đúng như lời Thế-Tôn dạy. Mặc dầu con vốn biết đức Như-Lai phương tiện thị-hiện nhập Niết-bàn, nhưng con không làm sao ngăn sự buồn thảm được. Giờ đây tự suy xét, con lại sanh lòng vui mừng.”
 
Phật khen Thuần-Đa :” Lành thay ! Lành thay ! Ông có thể rõ biết Như-Lai thị-hiện đồng với chúng sanhphương tiện nhập Niết-bàn.
 
Thuần-Đà ! Ông nên nghe đây : Như mùa xuân chim ta-la-tà đều nhóm nơi ao A-Dậu-Đạt. Chư Phật cũng thế đều đến chỗ ấy. Ông chẳng nên suy nghĩ chư Phật là trường thọ hay đoản thọ. Tất cả các pháp đều nnhư tướng huyễn-thuật. Như-Lai ở trong ấy do sức phương tiện không có nhiễm trước. Vì sao thế ? Vì chư Phật pháp-nhĩ như vậy.
 
Thuần-Đà ! Nay Như-Lai nhận phần cúng dường của ông là vì muốn cho ông thoát khỏi các dòng sanh tử trong ba cõi. Hàng nhơn-thiên ở nơi sự cúng dường cuối cùng đối với Như-Lai đây, đều sẽ được quả-báo bất động, luôn được an vui. Vì sao thế ? Vì Như-Lai là phước điền tốt của chúng sanh. Nếu ông muốn vì chúng sanh mà làm phước-điền, thời phải kíp sắm sửa cúng phẩm, chẳng nên để trể”.
 
Bấy giờ Thuần-Đà vì các chúng sanh được độ thoát nên cúi đầu lau lệ mà bạch Phật :” Lành thay đức Thế-Tôn ! Nếu lúc con kham có thể làm phước-điền, thời có thể biết rõ Như-Lai là nhập Niết- bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn. Nay trí huệ của chúng con cùng Thanh-Văn Duyên-Giác nhỏ kém như kiến muỗi, thiệt không thể suy lường Như-Lai nhập Niết-bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn”.
 
 Bạch xong, Thuần-Đà cùng quyến thuộc buồn rầu khóc lóc, thiêu hương rải hoa, hết lòng cung kính, rồi liền cùng ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát đi lo sắm sữa thực phẩm.

 THÍCH NGHĨA

(17) THẾ TÔN : Đấng tôn quý nhứt trong tất cả thế gianxuất thế gian. Từ ngữ này gồm đủ mười điều vô-thượng : 1 – Như-Lai, 2 – Ứng-Cúng. 3- Chánh-Biến-Tri. 4- Minh-Hạnh-Túc. 5- Thiện- Thệ. 6- Thế-Gian-Giải. 7- Vô-Thượng-Sĩ. 8- Điều-Ngự-Trượng-Phu. 9- Thiên-Nhơn-Sư. 10- Phật.
(18) LA-HẦU-LA : Con trai của Thái-Tử Sĩ-Đạt-Ta và Da-Du-Đà-La
(19) BỐ-THÍ-BA-LA-MẬT : Công hạnh bố thí đã đến từng ngã và pháp đều không, đã rốt ráo viên mãn. Biệt-Giáo bực sơ địa viên giáo bực sơ trụ mới thành tựu hạnh nầy.
(20) TRÍ-HUỆ CHỨNG-NGÃ-KHÔNG gọi là “Nhứt-thiết-trí” Hàng nhị thừa có trí nầy. Trí-huệ chứng ngã-không và phần chứng pháp không gọi là “Đạo-chủng-trí”. Pháp thân Bồ-Tát có trí nầy. Trí huệ chứng ngã-không và toàn chứng pháp-không gọi là “Nhứt-thiết-chủng-trí” Chỉ bực Phật mới có trí nầy. Trí huệ nầy gồm có bốn trí : 1- Thành-sở-tác-trí. 2- Diệu quán-sát-trí. 3- Bình-đẳng tánh-trí. 4- Đại-viên cảnh-trí.
(21) NGŨ NHÃN : 1- Nhục nhãn. 2- Thiên nhãn. 3- Huệ nhãn. 4 Pháp nhãn.
5- Phật nhãn. Phàm phu chỉ có nhục nhãn, riêng chư Thiên và chư ngũ thông tiên-nhơn gồm có thiên nhãn. A-La-Hán và Bích-Chi-Phật có nhục nhãn, thiên nhãnhuệ nhãn. Pháp thân Bồ-Tát có ba nhãn trên và pháp nhãn Đức Phật có đủ 5 nhãn.
(22) KIẾP-BA : là thời gian dài. Có tiểu, trung va đại ba kiếp. Một tiểu kiếp
16798.000 năm (theo năm của nhơn loại địa cầu). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp. Và một đại kiếp có 4 trung kiếp hay 80 tiểu kiếp, tức là : (16798.000 năm x 80 = 1.343.840.000 năm) (một tỷ, ba trăm bốn mươi ba triệu, tám trăm bốn chục ngàn năm). Phàm trong kinh chỉ nói bao nhiêu kiếp, mà không nói trung hay tiểu, thời thường là nói đại kiếp.
(23) BỐN MA ; Ma phiền não, Ma ngũ-ấm, Ma chết, va Thiên ma. Nói đủ là Ma-La có nghĩa là hay phá hoại thiện căn của chúng sanh, của người tu hành.
BA ÁC ĐẠO : Súc sanh, ngạ quỹ và địa ngục. Ba loài nầy vì phạm tội thập ác nhẹ, vừa và nặng mà phải thọ lấy quả khổ ấy, nên gọi là ác đạo, đây là cứ nơi nghiệp nhơn ác mà đặt tên. Nếu theo quả khổ thời gọi là tam đồ : 1- Huyết đồ, loài súc sanh thường ăn nuốt máu thịt lẫn nhau; 2- Đao đồ, loài ngạ quy thường dùng dao gậy đánh đập nhau; 3- Hỏa đồ- loài địa ngục thường bị lửa thui đốt, nấu rang.
ƯU-ĐÀM-BÁT-LA-HOA ; dịch là Linh-Thoại-Hoa. Tục truyền ba ngàn năm mới xuất hiện một lần , là điềm Thánh-Vương, hay Thánh-Nhơn xuất thế. Ném hột cải trúng dính vào đầu nhọn cây kim. “Đàn” là bố thí, “Độ” là ba-la-mật. Đàn-Độ” là bố-thí ba-la-mật.
TAM GIỚI : ba cõi : cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.
BÔNG Y-LAN : là một thứ hoa có mùi rất hôi thúi.
(30) ĐẾ-THÍCH : nói đủ là Thiên Đế Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, vua cõi trời Đao-Lợi.
PHẠM-THIÊN : Thiên Vương cõi sắc.
(31) PHIỀN NÃOPhiền nhiễu, não loạn, tức là những tâm niệm xấu, cùng ý tưởng ác như : tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến v.v… nó làm nhiễu loạn thân tâm người, đồng thời hay phá hoại thiện căn của người, nên cũng gọi kà phiền não ma.
(32) ĐẠI-LONG-TƯỢNG ; Rồng lớn và Voi lớn là loài to mạnh trong các muông thú. Dùng danh từ nầy là dụ cho các bậc siêu nhơn đại Bồ-Tát. Phật là Pháp-Vương, đại Bồ-Tát sẽ thành Phật, là con của đấng Pháp-Vương nên gọi là Pháp-Vương-Tử.
(34) HÀNH-PHÁP : Pháp di động chuyển biến.
(35) KIM-SÍ-ĐIỂU ; Chim cánh vàng, một loài chim to nhất hay dùng rồng làm món ăn.  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32593)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6435)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12035)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12584)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34450)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10588)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10342)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16075)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7005)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12651)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16115)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9121)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20535)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13103)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant