Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm Giới

17 Tháng Tư 201509:20(Xem: 6384)
Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm Giới
HẠNH PHÚC
NGƯỜI GIỮ GÌN NĂM GIỚI

Thích Nữ Giác Anh


Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm GiớiVươn đến một đời sống thành cônghạnh phúc là niềm mơ ước muôn thưở và rất chánh đáng của mỗi con người. Làm người ai cũng mong một đời sống vui vẻhạnh phúc.

Hạnh phúc không đo bằng vật chất, dù vật chất là một phần tạo nên sự yên tâm cho con người. Hạnh phúc không đo bằng danh vị, dù địa vịdanh thơm một phần nào cũng góp nên cảm giác chắc chắnthoải mái. Hạnh phúc không đo bằng sức khoẻ hay sắc đẹp, dù rằng không có sức khỏe hay thiếu phần ngoại hình cũng khó mang lại một đời sống hạnh phúc trong thế giới vốn rất trọng bề ngoài này. Hạnh phúc không phải chỉ có những mối quan hệ tốt đẹp với người thân xung quanh, vì dù đã có người thân, người thương nhưng vẫn cần những phương tiện cần thiết để sống và để tiếp tục thương. Hạnh phúc càng không phải là những thành công trong đời sống vì thành công mà không có mãn nguyện cũng đồng nghĩa với thất bại (success without fulfillment is failure).

Như vậy, hạnh phúc đời thường phải chăng là do tất cả những yếu tố đó ghép lại? Nếu phải như vậy, thì giữa cuộc đời này mấy ai dám mơ một đời sống hạnh phúc? Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới. Vì thế, dù những tiêu chuẩn làm nên hạnh phúc có vẻ khó khăn như kể trên, nhưng trên thế giới này vẫn có những cuộc đời rất hạnh phúc. Chắc chắn những con người hạnh phúc đó biết sống cuộc đời dựa trên đạo đức căn bản của năm giới. Năm giới đó, người Phật tử ai ai cũng biết: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng những chất gây mê mờ.

Qui y Tam Bảolãnh thọ năm giới là cửa ngõ cho những ai muốn bước vào thế giới tuyệt diệu của Phật giáo. Tuy vậy, bất cứ cá nhân nào dù chưa qui y Tam Bảo mà đã giữ gìn theo năm giới, cũng đảm bảomột đời sống hạnh phúc giữa thế gian đầy đau khổ này. Điều đó rất chắc chắn. Quả thật, năm giới là nền tảng, là điều tất yếu để xây dựng một xã hội an định, một đất nước giàu mạnh và an ninh, dân chúng nơi đó thật sự hưởng an lạcthái bình.

Giới đầu tiên, không sát sanh. Diễn đạt theo cách khác của không sát sanhđời sống biết trân trọngthương yêu chính bản thân và muôn loài. Ta không thể thương người nếu ta không biết thương ta. Vì không biết thương ta nên ta mới hại ta. Vì hại ta nên xã hội ngày nay mới có tỉ lệ quyên sinh cao nhất trong mọi thời đại. Và cũng chính không biết thương ta nên ta mới hại người, vì chính hại người là cái nhân cho người hại lại ta. Một cái vòng nực cười, lẫn quẫn, vô lý… nhưng mấy ai thật sự hiểu để tránh được!

Đức Phật dạy giới thứ nhất không được sát sanh, đó là cách nói ngắn gọn cho dễ nhớ. Vì làm sao đi đến không sát sanh nếu đời sống không bắt nguồn từ sự trân trọngthương yêu lẫn nhau. Giữa người và người, giữa người và muôn loài, mối quan hệ đó một khi đã mất đi sự trân trọngthương yêu, thì chắc chắn phải dẫn đến sự xâm phạm và giết hại lẫn nhau.

Tình trạng bạo hành trong gia đình, con cái bất hiếu lớn tiếng với cha mẹ, vợ chồng cãi vã dẫn đến đánh đập lẫn nhau… tất cả những kết quả đó từ sự thiếu trân trọngthương yêu bên kia. Có một gia đình nọ, mỗi khi gặp chuyện bất đồng dẫn đến cãi vả, dù cãi nhau họ cũng không lớn tiếng. Do vì thói quen tôn trọng, sợ làm tổn thương người kia đã đạt đến đỉnh cao trong từng tư cách và đã biến thành thói quen của mỗi người. Chuyện đó không phải là không có trong xã hội.

Nói rộng ra hơn nữa, một chính phủ biết trân trọngthương yêu người dân, khi lâm vào hoàn cảnh cần có chiến tranh, họ cũng chọn thời điểm ít tốn nhân mạng của bên mình và của đối phương nhất, chứ không dễ dàng hy sinh tính mạng của binh lính và dân lành hai bên bao giờ. Huống chi trong thời bình, những chính phủ biết quí trọng thương yêu dân chúng, chắc chắn sẽ xây dựng xã hội dựa trên cơ sở nhân bản, tự do và đặt quyền lợi của người dân lên trên hết.

Nước Úc là hình ảnh điển hình của một xã hội hạnh phúcan định. Người dân nơi đây sống vui hiền hòa, nhân vị luôn là tiêu chí đầu tiên. Chế độ an sinh xã hội cho người thiếu may mắn, bệnh đau, thương tật, yếu già… đứng đầu trên thế giới. Chính phủ Úc biết trân trọngthương yêu người dân. Giữa người với người, đồng loại với nhau đều xây dựng mối quan hệ trên sự trân trọng, tôn kínhthương yêu như thế, thì chắc chắn xã hội ấy thái hòa và an lạc. Và đất nước Úc quả thật là như vậy so với các nước khác trên thế giới.

Duới cái nhìn của Phật Giáo, tình thương còn lan xa hơn. Đức Phật dạy rõ, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, có nghĩa là tất cả chúng sanh đều cần yêu thương và giúp đỡ như mình. Vì thế, hạnh nguyện ăn chay của người Phật tử bắt nguồn từ tình thương đối với chúng sanh muôn loài là như vậy. Bồ Tát đạo dựa trên Bồ Đề Tâm làm căn bản, Bồ Đề Tâm là thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, nghĩa là trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Chúng sanh không phân biệt người hay trời, thấy hay không thấy, địa ngục hay súc sanh, hóa độ chúng sanhhóa độ tất cả. Làm sao hóa độ chúng sanh cho được nếu không có sự trân trọngthương yêu chúng sanh. Thế nên, người Phật tử thọ Bồ Tát giới đều lấy việc trường chay làm pháp hành đầu tiên. Có nhiều Phật tử, tuy chưa thọ Bồ Tát giới nhưng vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh, cũng phát nguyện trường chay. Những tấm gương đó thật tươi sáng!

Tuy nhiên, cũng không nên vì ăn chay, vì thương chúng sanh với ý tưởng cố chấp thái quá mà đánh mất hạnh phúc khi đối xử với những người thân bên mình. Cái tuyệt của Phật Pháp “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” là ở chỗ đó. Tuỳ theo nhân duyên mà không đánh mất lòng từ bi, vẫn giữ được hạnh nguyện từ bi nhưng không làm gẫy đổ nhân duyên. Nhạy bén, dung hòa làm sao để có thể bày tỏ được tình thương, đem đến hạnh phúc cho mọi người và mọi loài, từ người gần đến người xa, từ người thân đến người lạ, không bỏ mất một ai, đó mới là cái hay của người giữ giới.

Sống với niềm trân trọngtình thương rộng mở, cá nhân đó luôn cảm nghiệm một tâm hồn nhẹ nhàng và vui tươi. Người biết thương yêu sẽ tránh được nỗi lo lắng sợ hãi người khác trả thù mình.

Trên thế gian này, ai cũng muốn mọi người trân trọngthương yêu mình. Nhưng không có một hạnh phúc nào, tình thương chân thật nào đến từ một chiều cả. Mình thương người thì người mới thương mình, mình biết quí trọng người thì người mới quí trọng mình.

Đối với loài khác, biết sống thương yêu, không sát hại luôn đem đến một cảm thọ an bìnhyên ổn. Không sát hại chúng sanh sẽ không thọ quả báo đau đớn của giết hại. Sống vui, không sát sanh đem đến một thân thể khỏe mạnh, không ốm đau và bệnh tật. Sức khỏe tốt đẹp là điều rất cần cho hạnh phúc.

Bí quyết đầu tiên cho một đời sống hạnh phúc là như thế.

Giới thứ hai, không trộm cắp. Không trộm cắp nói cách khác là tôn trọng vật sở hữu của người khác. Ở các nước như Singapore, Malaysia… hình phạt của tội trộm cắp rất nghiêm và rất nặng, đặc biệt ít có trường hợp du di. Các cửa hàng ngoài đường, người ta có thể trưng bày mọi thứ quí giá, đắt tiền mà không lo lắng đến tệ nạn trộm cắp. Ở các quốc gia đó, nếu bị bắt vì tội trộm cắp, hình phạt có thể bị đánh đòn tại chỗ, hay chặt một ngón tay để làm gương. Nghe qua thật tàn nhẫn, nhưng quả thật, tệ nạn ăn cắp ở những nước đó rất ít xảy ra. Người dân không lo sợ chuyện bị ăn cắp dọc dường, mất đồ là có thể việc nhỏ, quan trọng hơn là cảm giác sợ sệt, bất an rất khó chịu!

Quả thật, trong gia đình nếu có một người bị tật ăn cắp thì gia đình đó chắc chắn thường hay xào xáo, khổ sở. Bản thân người có tật đó, không thể có phút giây yên vui được. Vì làm sao vui khi môi trường chung quanh không vui. Người mắc bệnh ăn cắp, lúc nào đầu óc tâm tư cũng lo toan, suy tính, làm thế này và làm thế kia… Xong việc ăn cắp rồi, cũng chưa yên ổn, phải lo lắng giấu giếm sợ người mất của nghi kỵ, không tha cho mình. Thật tội nghiệp cuộc đời của người phải đeo nghiệp ăn cắp.

Ngược lại, nếu luôn sống tôn trọng quyền sở hữu của người khác sẽ luôn đem đến một cảm thọ an ổn và nhẹ nhàng. Nhẹ nhàng vì không phải lo. An ổn vì ai cũng vui. Lại thêm gặp việc gì cũng thường được dễ dàng, trôi chảy. Sống tôn trọng sở hữu của người, được quả báo ít bị mất trộm, ít lo bị ăn cắp. Đi đâu, làm gì hay thậm chí có quên việc gì ở đâu, cũng có người lượm được đem trả lại. Ai kinh nghiệm qua rồi, mới thấy cảm giác đó thật tuyệt!

Có một câu chuyện, người thật việc thật. Chú kia là hướng dẫn viên du lịch, hôm đó dẫn đoàn đi Nhật. Làm tour guide thì lúc nào cũng phải có sẵn tiền mặt để đổi cho khách. Hôm đó chú ấy ôm gói tiền rất to, rất nặng, hơn 50,000 Úc kim, đến lúc cần phải đi toilet, chú ôm nguyên gói tiền vào toilet công cộng, khi xong việc, thân thể nhẹ nhàng đứng lên đi ra, bỏ gói tiền lại. Đến khi nhớ ra thì đã hơn nửa ngày rồi. Chú ấy tức tốc quay trở lại chỗ cũ, nhưng biết hỏi ai bây giờ. Chú chỉ biết thất vọng đến báo trạm cảnh sát gần đó nhất. Nhưng ngay lúc thất vọng nhất, ông cảnh sát đã xin xem giấy tờ passport để làm thủ tục hoàn lại gói tiền cho khổ chủ. Gói tiền được một người Nhật sau đó lượm được và đem đến gởi cho trạm cạnh sát. Chú tour guide nhận lại gói tiền trên tay, vừa mừng, vừa khâm phục tinh thần chân thật của người Nhật Bản. Chú tour guide đó là chú T. T, giám đốc công ty Triumph Tour ở Sydney này.

Tôn trọng vật sở hữu người khác là việc nghĩ xa và cấp thiết, tôn trọng ý tưởng hay công sức của người là việc gần hơn nhưng không thiếu phần quan trọng. Vì biết trân trọng ý tưởng hay công lao của người khác, đó là lối sống của một người có nhân cách cao, văn minhanh dũng. Những người như vậy, sống cuộc đời thật thảnh thơi, bạn bè con cháu quay quần, vì người đó biết khuyến khích và công nhận tiềm năng của người khác. Giữa cuộc đời bon chen và tỵ hiềm, rất cần những tấm lòng rộng lớn đẹp đẽ như thế.

Một con người, một xã hội ai ai cũng gìn giữ giới thứ hai không trộm cắp này, thì con người đó, xã hội đó làm sao không ổn định và thăng bằng được. Chắc chắn hạnh phúc sẽ mỉm cười với người luôn trân quí sở hữu của mình và của người như thế.

Giới thứ ba, không tà dâm. Không tà dâm nói cách khác là sống đời trang nghiêm, thanh tịnh và chung thủy. Đối với người tu sĩ Phật Giáo, giới này là không dâm dục. Không dâm dục vì tất cả chúng sanh đều từng là cha mẹ mình. Không dâm dụcdâm dục là cái nhân của sanh tử luân hồi. Trong vô lượng kiếp tái sinh, có khi làm thân nam, có khi làm thân nữ, có khi làm bạn, có khi là thù… Cái ái luyến dẫn đến đòi hỏi dâm dục thật ra không bắt nguồn từ cái thật thương yêu bền vững chân thật. Giới hạn của ý thức con người chỉ gói gọn trong một kiếp sống ngắn ngủi. Kiếp này thấy thương người này, nhưng có thể sẽ thương người khác vào kiếp sau. Nhưng mỗi lần thương, cứ hoang tưởng cái thương đó sẽ là duy nhất! Vì vậy, Phật dạy tất cả tu sĩ Phật Giáo nên thường xuyên quán tưởng Vô Thường, sợ phải theo nghiệp mà tái sanh nên phải nhớ rõ muốn đi trên đường chấm dứt sinh tử phải không dâm dục.

Hoàn cảnh ngày nay, dù xa cách Phật đã lâu, giữa đại dương bao la của sinh tử, rất khó tìm thấy những người gìn giữ được hạnh nguyện này. Nếu ai tìm được người đó, hãy cung kính trân trọng, vì người đó chính là ngọn đuốc soi sáng đêm dài tăm tối, là bài học quí giá trên con đường thực hành đạo giải thoát.

Tuy khó gặp, nhưng không phải là không có. Người viết được tận mắt, tận tai, tận tâm… chứng kiến một người. Người đó là vị ân nhân trên lộ trình tu đạo. Nhìn vị đó, người tu tự an ủi giữa thời mạt pháp này vẫn còn người tu, vẫn còn người hành những điều khó hành nhất. Đảnh lễ vị đó, người tu biết rằng nếu cố gắng mình cũng được dõi theo bước chân Ngài, được vẹn tròn đến ngày viên mãn.

Đối với người cư sĩ tại gia hay nói xa hơn, đối với người đang sống đời bình thường. Không tà dâm là điều quan trọng bắt buộc như giới không dâm dục của người tu sĩ. Hạnh phúc gia đình phần chính yếu dựa vào sự thủy chung của hai bên. Lỗi lầm nào cũng có thể tha thứ được, chứ một khi đã phạm vào lỗi này rồi, thì hạnh phúc gia đình thật vô cùng mong manh!

Thế gian không thiếu những con người sống đời thanh cao và chung thủy. Nhưng cũng có rất nhiều gia đình tan vỡ vì một trong hai người thiếu thủy chung. Một khi đã không còn tin cậy được nhau nữa thì dù con cái có thành đạt, sự nghiệpgiàu có, gia nhân có đông đủ… trong chốc lát cũng biến thành mây khói! Màn đêm đau khổ sẽ trùm lên cả gia đình. Từ đó, bệnh tật, tan gia bại sản cũng xảy đến. Tâm bệnh sẽ kéo theo thân bệnh là điều tất nhiên. Con cái trong gia đình, tự nhiên đang êm ấm bỗng dưng lạnh lẽo, tiêu điều. Vì cha mẹ thiếu vun bồi giới hạnh, mà cuộc đời của các con cũng thành những trẻ cô đơn từ đây. Thật tang thương biết bao!

Trong xã hội nếu có nhiều gia đình ly dị (divorce), thành phần trẻ em thiếu tình thương, thiếu giáo dục đạo đức cũng sẽ nhiều thêm. Lớp thiếu niên đó lớn lên thiếu tình thương, thiếu trách nhiệm sẽ sống ra sao… Khi đôi mắt các em trong gia đình đỗ vỡ nhìn các em được sống trong cảnh hạnh phúc mà khao khát, mà thương cảm… mà buồn rơi nước mắt !

Phật khuyên người Phật tử gìn giữ giới thứ ba này, cũng là lời khuyên cho toàn thể nhân loại. Trong số những người con thành đạt, phần lớn đều được nuôi dưỡng từ mái ấm thủy chung của cha mẹ. Cha mẹ đồng lòng thì chuyện gì cũng làm nên, khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Các con chắc chắn sẽ nên người. Một mái ấm như thế tràn ngập tiếng cười và niềm thương yêu. Các trẻ lớn lên trong không khí ấy, phần lớn sẽ được trưởng thành như ý nguyện. Thêm một bí quyết nữa để sống đời hạnh phúcgìn giữ giới thứ ba này vậy.

Giới thứ tư là không nói dối, nói theo cách khác là sống đời chân thật. Trên thế gian này, chỉ có Phật Đà viên mãn hạnh nguyện “chân thật ý, chân thật ngữ”. Vì cứu cánh giải thoátđạt đến vô ngã, vì vô ngã nên không sợ hãi, không sợ hãi nên không cần phải dối.

Sống trong cuộc đời, ai ai cũng thích được gần người thành thật. Một tình bạn sỡ dĩ bền lâu mấy mươi năm không phai mờ là vì hai người thành thật với nhau. Sống bên cạnh người thành thật, luôn có cảm giác an ổnthoải mái. Sống với người thành thật, không phải lo toan, suy nghĩ. Dù cho có đôi lúc gây cấn, bất đồng, nhưng do thành thật mọi việc cũng suông sẽ, nhẹ nhàng. Thậm chí qua đó tình thương càng gắn kết sâu đậm hơn.

Trong Phật đạo, thành thật là cái nhân của chứng đạo. Thành thật với mình là quan trọng nhất. Không thể tu đạo được nếu không có đức tánh thành thật. Giảng kinh thuyết pháp mà tánh đức không thành thật cũng không thể giảng lâu, giảng sâu và rộng rãi được. Âu đó cũng là nhân quả nghiệp báo vậy.

Đức Phật thường ví người không thành thậttu đạo, giống như đổ nước vào bát úp, Phật Pháp không thể nào thâm nhập thấm sâu vào tâm trí người không thành thật. Vì hạt giống trí tuệ giải thoát đã bị chủng tử giả dối ngăn chặn không thể sinh sôi, phát triển.

Nói dối việc tuy nhỏ, cũng tạo thành thói quen. Lâu dần chính thói quen đó tác hại ghê gớm đến đời sống của mình. Thế gian không chấp nhận người nói dối. Phật Pháp càng không chấp nhận.

Người luôn nói thật, sống thật thường chiêu cảm mọi người thương mến, dễ gần. Nói ra lời gì cũng dễ nghe. Diễn giảng Phật Pháp rộng sâu, thu hút. Nhân chủng chân thật chiêu cảm đọc tụng kinh điển sớm mau giác ngộ, tỉnh thức hơn người. Thế gian có câu, nồi nào úp vun nấy, người ngay sẽ gặp người ngay. Đi đâu cũng có thiện thần giúp đỡ. Nói nôm na là thế, nhưng xét kỹ cách nói ấy rất khoa học, vì nhân nào quả nấy là định luật của muôn đời, trường hợp nào cũng như thế không sai khác được. Giới thứ tư không nói dối là thêm một bí quyết nữa để sống đời hạnh phúc.

Giới thứ năm, không dùng chất làm mê mờ. Chất làm mê mờ có thể là rượu, bia, là thuốc hút, ma tuý…. Giới này trong kinh điển Phật dạy là giới phụ tùy. Phụ tùygiới không bắt buộc, hoặc không chính thống là điều bắt buộc phải ngăn cấm. Tuy nhiên, nếu phạm giới này thì khó tránh gìn giữ các giới trên.

Người ta thường hay nói “rượu vào thì lời ra”, những lời tuôn ra trong cơn say thường là không chánh ngữ. Hoặc người ta thường nói “tửu sắc”, rượu thường đi chung với sắc, trong lúc mê mờ thì rất khó giữ giới không tà dâm. Say sưa, mê mờ khiến cho người dễ rơi vào trạng thái thiếu cẩn trọng, mất tư cách. Thế gian thường hay nói “đốt thuốc là đốt tiền”, nguồn lực tài chánh thay vì nuôi dưỡng hạnh phúc gia đình, sẽ biến thành những cơn say đốt cháy bản thân và những người yêu quí xung quanh.

Trong xã hội, biết bao cảnh những con người thành công, sự nghiệp cao trọng lại vướng vào cạm bẫy sa lầy của nghiện ngập ma túy. Danh vọng đang lên cao phải đứt đoạn. Cuộc đời đang như mơ phải sa cơ thất thế, vì bệnh hoạn do tiếp thu những chất làm hư người này.

Các bậc thánh trong thế gian, không ai không sáng suốt, không làm chủ tâm thức của mình. Đức Phật khuyên người Phật tử đã qui y Tam Bảo, đã bước trên con đường giải thoát, nên xa lìa những nguồn cội làm mê mờ đời sống tâm linh như thế. Giới thứnăm này là chất liệu cuối để xây dựng nên một đời sống an lành, mạnh khoẻ và hạnh phúc.

Năm giớicăn bản của người Phật tử. Năm giới là nền tảng của một xã hội. Năm giới là rào phòng thủ vững chắc xây dựng một quốc gia. Ai cũng mơ ước vươn lên một đời sống hạnh phúc, và ai cũng có khả năng gìn giữ năm giới. Đối với người Phật tử của Phật giáo Nam Truyền, mỗi đêm ít nhất họ hành trì bằng cách đọc lại ba pháp Qui Y, Quy Y Phật, qui y Pháp và qui Y Tăng. Và quan trọng hơn họ đều tụng lại năm giới. Năm giớicuộc đời của người Phật tử, là cuộc sống của người Phật tử.

Năm giới quan trọng như hơi thở, như bữa cơm chính trong ngày. Năm giới không phải là điều bắt buộc mà là niềm vui, là nguồn sống, là hạnh phúc của mỗi cá nhân. Một khi gìn giữ năm giới đã ăn sâu vào tiềm thức, biến thành thói quen cư xử trong đời sống, thì chắc rằng đời sống của người đó sẽ rất an vui và hạnh phúc.

Ai ai cũng vươn đến một đời sống hạnh phúc và ai ai cũng có thể gìn giữ thọ trì năm giới như lời Phật dạythế giới này sẽ trở thành một thế giới thật sự an bình và hòa ái.

Một mùa Phật đản nữa lại về, chúc nguyện tất cả chúng sanh đều an lạchạnh phúc trong ánh quang minh của đạo pháp.

Sydney, Kỷ niệm mùa Phật Đản PL 2556,

năm Nhâm Thìn 2012

Thích Nữ Giác Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2225)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6475)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3834)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5084)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3253)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34457)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3068)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12532)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11697)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4297)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12645)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10186)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16283)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11650)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14649)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11911)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16693)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12630)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 51774)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12522)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9850)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14358)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19983)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13624)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15291)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17368)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16686)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13382)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12370)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 11964)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12417)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25389)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14424)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28177)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10198)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant