Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiện Và Ác Là Gì?

04 Tháng Bảy 201514:00(Xem: 6492)
Thiện Và Ác Là Gì?
THIỆN VÀ ÁC LÀ GÌ?

Tác giả: Yoshifumi Ueda
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


Thiện Và Ác Là GìNhiều người đã từng nghe thú nhận của Thân Loan, 'tôi không biết hai chữ, tốt và xấu, ý nghĩa thật sự là gì'. (Tannisho[1], Epilogue) Ở đây Thân Loan lấy cớ là mờ mịt về bản chất của thiện và ác. Điều ấy có nghĩa là ngài đã sống trong một thế giới mà ở đấy ngài đã không biết thiện và ác thật sự là gì. (Ảnh bên là hình tượng Đức Phật Thích Ca và ngài Thân Loan tại viện bảo tàng Ryukoku Museum Nhật Bản)

Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác. Chúng ta phải biết điều gì là đúng và sai, tốt và xấu, ngay cả những hành vi đơn giản nhất hàng ngày. Khi chúng ta gặp ai đấy vào buổi sớm mai chúng ta nói, 'buổi sáng tốt lành' (good morning) và khi chúng ta chia tay một người chúng ta nói, 'tạm biệt tốt lành' (good bye). Chúng ta không nên đi học trể, hay thất hứa. Như những con người được yêu cầu hành động trong những cung cách nào đó, nếu không thì chúng ta được mang tiếng là thiện hay ác, xấu hay tốt. Chúng ta được dạy những thái độ thích đáng khi còn là những đứa trẻ: chúng ta phân biệt giữa đúng và sai, tốt và xấu khi khi chúng ta trở thành những người lớn. Không có một cảm nhận về đạo đức, xã hội con người không thể tồn tại.

Thân Loan cũng tiếp nhận một sự giáo dục thông thường của thời đại ngài và học hỏi điều gì đúng và sai. Ngài là một đứa trẻ mồ côi, vào tu viện Phật Giáo vào lứa tuổi mười mấy, chịu nhận những quy điều và thực hành khắc nghiệt trong 20 năm. Vì thế, khi ngài nói, 'tôi không biết thiện và ác nghĩa là gì', ngài không đang nói rằng ngài bối rối hay mù mịt về những gì con người bình thường biết về thiện và ác. Ngài đang liên hệ với điều gì khác. Điều thiện và ác mà ngài nói ngài không biết gì không phải ý nghĩa đạo đức thiện và ác thông thường, được hình dung với tâm điểm sự quan tâm của bản ngã con người với những xã hộithời đại khác nhau.

Nhưng nếu Thân Loan không đang nói về đạo đức thiện và ác thông thường, thì ngài đang liên hệ đến điều gì? Loại thiện ác khác gì ở đấy? Chúng ta hiếm khi nghĩ đến thiện và ác khác hơn những gì của quy ước thế gian được dạy dỗ bởi xã hội, nhưng từ những gì Thân Loan nói, như được phản ánh trong sự thừa nhận của ngài liên hệ đến cái thiện và ác của si mê, ngài quan tâm đến một loại thiện và ác khác. Ngài biết gì, và biết nó như thế nào?

Thân Loan đã biết về một loại thiện và ác qua niệm Phật (nembutsu), Nam mô A Di Đà Phật (Namu Amida Butsu). Đấy là ngài có thể nói về việc không biết điều thiện và ác qua niệm Phật như tuệ trí được ban cho ngài bởi Đức Phật Di Đà. Điều này gọi là hồi hướng[2], tuệ trí trực tiếp và được trao truyền đến tất cả chúng sanh bởi Đức Phật Di Đà. Những châm ngôn thông thường như 'tuệ trí của tín tâm', 'tuệ trí của nguyện lực' hay tuệ trí niệm Phật' nói đến sự kiện rằng Thân Loan đã cảm nhận đến một không gian sâu sắc về nhận thức của con người. Đây là một loại thiện và ác không thể được biết qua cảm nhận, luận lý, triết lý hay khoa học thông thường. Nó chỉ có thể được biết qua những từ ngữ, Nam mô A Di Đà Phật và qua tâm tư được thức tỉnh bởi tín tâm. Một cách chính xác hơn, những từ ngữ được chọn lựa đã làm chúng ta tỉnh thức về thiện và ác như vậy là Nam mô A Di Đà Phật và tâm tư được chọn lựa cho sự tỉnh thức giác ngộ của chúng tatâm thức đúng đắn, thật sự và chân thànhtín tâm. Qua thực tại tâm linh được gọi là A Di Đà Phậttuệ trí được ban cho Thân Loan qua niệm Phật, ngài nhận ra rằng ngài không biết gì về thiện và ác trên mức độ tương đối mà ngài cảm thấy ngài không biết thiện chân thật hay ác thật sự. Trong thực tế, niệm Phật như tuệ trí làm cho ngài nhận ra rằng đạo đức thiện và ác cả hai đều sai lầm, có gốc rể trong một hình thức sâu xa hơn của cái xấu nền tảng, sự quan tâm của bản ngã vị kỷ. Ngài có thể thấy nền tảng xấu ác này trong cốt lõi của cả đạo đức thiện và ác bởi vì đã tỉnh giác về một loại thiện và ác khác.

Bởi vì đạo đức lương thiện trên bình diện tương đối bị nhiễm ô bởi sự quan tâm của bản ngã vị kỷ thì làm thế nào nó có thể là điều thiện đúng đắn và chân thật? Ngay cả một hành vi tốt lành bị nhiễm ô bởi vị ngã, nó không là thiện mà là ác, một điều ác vô cùng thâm sâu mà nó làm là 'thiện' thông thường là một biểu hiện của cái ác. Thân Loan gọi điều ấy là 'nghiệp ác', nói lên những gốc rể sâu xa của nó trong quá khứhiện tại. Tuệ trí từ A Di Đà trực tiếp đến ngài là những gì làm cho một sự tỉnh giác như vậy có thể hiện hữu.

Ngay cả trong ý nghĩa thông thường, bình diện đạo đức, một người có suy nghĩ có thể dễ dàng thấy một động cơ giấu diếm, một sự quan tâm vị kỷ, đằng sau một hành vi được gọi là thiện. Nhưng chúng ta không lên án nó là xấu ác; chúng ta vẫn xem nó là 'tốt'. Nếu chúng ta phải lên án bất cứ một hành vi lương thiện nào bị nhiễm ô bởi chủ nghĩa vị kỷ như xấu ác, thì chúng ta sẽ không thể tìm ra bất cứ điều tốt lành nào ở bất cứ đâu. Nói một cách đơn giản, điều này có nghĩa là nếu chúng ta chấp nhận đạo đức như chúng ta biết nó, thì nó không thể vượt lên trên sự quan tâm vị kỷ.

Tuy nhiên, qua niệm Phật, Thân Loan đã giác ngộ với điều thiện trong một ý nghĩa đúng đắnchân thật, không bị nhiễm ô bởi sự vị kỷ của loài người. Ngài nhận ra rằng điều thiện tối thượng cho phép ngài thấy luân lý lương thiện như vốn là bị nhiễm ô và xấu ác. Sự tỉnh giác của ngài hiện hữu bởi công đứchoạt động của A Di Đà Đại Nguyện Nguyên Sơ, chỉ đạoban cho ngài trong hình thức của niệm Phật. Nền tảng xấu ác mà ngài có thể nhận ra là quá sâu rộng rằng nguyên tắc xấu ác không thể ngay cả so sánh với nó. Trên bình diện tinh thần, những gì chúng ta gọi là xấu ác có không gian để nhận ra đối lập của nó, điều thiện (thiện và ác là tương đối), nhưng nền tảng xấu ác được soi chiếu bởi điều thiện là đúng đắn, thật sự, và chân thành (điều thiện tuyệt đối) là vô cùng sâu sắc làm cho tinh thần lương thiện phơi bày bộ mặt thật sự của nó như xấu ác (điều ác tuyệt đối). Nền tảng xấu ác này là vô cùng sâu rộng mà ngay cả Thân Loan cũng không biết chiều sâu của nó (vì thế được gọi là 'nghiệp ác'), làm cho phát sanh những lời tuyên bố như 'Dưới sự tác động của nghiệp quá khứ của chúng ta, con người chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì'. (Tannisho XIII). Điều này có nghĩa là chỉ bởi vì một người không làm điều xấu ác thì không có nghĩa là người ấy lương thiện; nhưng chỉ bởi vì sự tác động của nghiệp quá khứ chưa trổ quả.

Mặc dù Thân Loan đi đến biết điều thiện đúng đắn, thật sự và chân thật qua niệm Phật, điều ấy không nghĩa là ngài biết chính tự điều thiện thật sự hay biết toàn bộ về điều thiện chân thật. Ngài chỉ đơn thuần có một tư tưởng khái quát về nó qua niệm Phật như được nói lên trong sự thừa nhận của ngài rằng 'Tôi có thể nói tôi biết về điều thiện là gì, nếu tôi biết một cách hoàn toàntrọn vẹn như Phật tánh' (Tannisho, Epilogue). Chỉ có Đức Phật mới có thể biết điều thiện đúng đắn, thật sự và chân thật. Tuy thế, đã có một cái nhìn khái quát về điều thiện thật sự qua niệm Phật, Thân Loan nhận ra rằng con người không thật sự biết điều thiện là gì và điều ác là gì.

Chúng ta có thể hỏi, tại sao, nếu Thân Loan đã biết bản chất của điều thiện và ác qua niệm Phật, thì ngài có nhận ra bản chất tốt lành chân thật của chính ngài chứ? Lý do, ngài thừa nhận, là bởi vì ngài không là gì cả mà cũng chính là con người vị kỷ: 'Trong chúng sanh ngu ngơ đầy dẫy đam mê mù quáng này, sống trong thế giới vô thường này giống như một căn nhà lửa, tất cả mọi thứ là trống rỗng và hư ảo; vì thế, không thật' (Tannisho Epilogue). Mặt khác bạn có thể hỏi xa hơn, ngài có đầy dẫy chủ nghĩa vị ngã không, ngay cả ngài có một cái nhìn khái quát về điều thiện chân thật như thế nào? Và câu trả lời là bởi vì Thân Loan hoàn toàn không thể thấy điều thiện chân thật, Đức Phật Di Đà, với lòng thương cảm và quan tâm, ban cho ngài tuệ trí thật sự qua niệm Phật. Nhưng cho đến khi ngài vẫn là một con người của nghiệp ác, ngay cả năng lực của Phật Di Đà cũng không thể ban cho ngài sự thể nhập vào điều thiện hoàn toàn đúng đắn, thật sự và chân thành.

Trong khi Thân Loan tự xem ngài không là gì mà chỉ là một con người ngu ngơ trống rỗng, hư ảo, và không thật thì ngài được ban cho sự thâm nhập vào điều thiện đúng đắn, thật sự và chân thành bằng hành hoạt của Đức Phật A Di Đà. Sự thâm nhập ấy cho phép ngài sống trong thế giới phản ánh chân thật của thiện và ác. Đó là tại sao Thân Loan có thể sống cuộc đời của ngài căn cứ trên tuệ trí của tín tâm hay tuệ trí của niệm Phật và không phải trên giá trị của trần gian hay đạo đức của con người. Vì thế, Thân Loan có thể nói, 'Trong sự giao phó chính chúng ta cho Đại Nguyện Nguyên Sơ, không hình thức thiện nào là cần thiết, vì không có điều thiện nào vượt lên trên niệm Phật' (Tannisho I). Điều này có nghĩa là Thân Loan đống thời sống trong thế giới của xấu ác nền tảng, là điều đúng đắn và thật sự vô biên. Điều ấy cũng nói rằng, đối với ngài cả thiện thật sự và ác thật sự biểu hiện những gì đúng đắn, thật sự và chân thành. Mọi thứ trên thế gianThân Loan sống phát ra mọi hình thức hoàn toàn của vọng tưởng; và con người, sự vật, và chính sự tồn tại của ngài được biểu hiện chân thật. Qua niệm Phậttín tâm, thế giới đúng đắn, thật sự và chân thật. vô biên giới trong không gianthời gian tỏa khắp đời sống của Thân Loan, cho dù trong hướng của thiện hay hướng của ác. Thân Loan dâng hiến cuộc đời của ngài để làm cho chúng ta tỉnh thức về thế giới chân thật này qua những rắc rối mà ngài đã gặp phải (trong trường hợp này, thiện và ác) và sử dụng mọi phương tiện có thể. Điều hấp dẫnThân Loan duy trì điều này cho chúng ta ngày nay từ thế giới đúng đắn, thật sự và chân thật đã tồn tại từ chiều sâu bên trong cuộc sống của ngài. Tuệ trí và bi mẫn của ngài tuôn chảy từ một thế giới mời gọi chúng ta hướng về ngài không ngừng.


[1] Thán dị sao

[2] Eko


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 469)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 452)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 441)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 504)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 309)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 427)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 762)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1101)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1410)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1137)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1072)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2267)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1475)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1750)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2152)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1860)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2569)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4689)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2600)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6263)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3215)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3025)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2872)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3652)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3162)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8013)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2820)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8422)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4373)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8059)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6616)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11119)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22741)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5226)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11676)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11292)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12490)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34481)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32621)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22045)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12438)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11785)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10298)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10759)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11739)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11633)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10842)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10628)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11322)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7158)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 7195)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5693)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6388)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 5974)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9331)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5872)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5841)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5600)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
(Xem: 6146)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7226)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant