Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Khái Luận về Visaṃyogaphala - Ly Hệ Quả

14 Tháng Bảy 201511:51(Xem: 7747)
Khái Luận về Visaṃyogaphala - Ly Hệ Quả

KHÁI LUẬN VỀ VISAMYOGAPHALA - LY HỆ QUẢ

Phước Nguyên
************


KHÁI LUẬN VỀ VISAMYOGAPHALA - LY HỆ QUẢTheo ngài Thế Thân giải thích : «pratisakhyā-nirodho yo visayoga[1], trạch diệt là sự ly hệ (dứt trừ kết phược); tức là diệt đạt được do tuệ giản trạchLy Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visamthoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yogatương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga:  dứt khỏi sự trói buộc.

Kinh nói: “āryāṣṭāgasya mārgasya kleśanirodho visayogaphalam| ya punar laukikena mārgea kleśanirodha sa nātyantam anuvartate pthagjanānām| tasmāttanna visayogaphalam|”[2]sự diệt tận phiền não ô nhiễm của Thánh đạo tám chi, quả ly hệ. Sự diệt trừ phiền não ô nhiễm bằng thế gian đạo của phàm phu, vì nó không tiến hành đến cùng đích nên không phải là quả ly hệ[3].


Phala là quả. Ly hệ quả là quả do thể nhập bản tính Thanh TịnhBất Sinh của Niết-bàn đem lại và cũng do thoát ly hết thảy phiền nãosinh khởi.

Trong Tam Thập Tụng của ngài Thế Thân có bài tụng như sau:

“sarvabīja hi vijñāna pariāmas tathā tathā|

yātyanyo'nyavaśād yena vikalpa sa sa jāyate|

由一切種識

 如是如是變

以展轉力故

彼彼分別生

Thức, hạt giống của tất cả,

Do tác động hỗ tương,

Tiến hành biến thái như vậy, như vậy,

Do bởi đó, xuất hiện cấu trúc phân biệt thế này, thế kia[4].

Ngài Huyền Tráng, giải thích tụng này có đoạn như sau: “…Trừ ly hệ quả, vì nó không được sản sinh từ chủng tử,mà chỉ khi nào hiện khởi thắng đạo đoạn trừ kết sử bấy giờ nó mới xuất hiện...”[5]

quả ly hệ (visayogaphala) thuộc pháp vô vi, không sản sinh từ chủng tử. Ly hệ quả, đó là pháp vô vi, thiện, được chứng đắc do đoạn trừ các chướng bằng Thánh đạo vô lậu.

Ly hệ quả là quả thành tựu đại Niết Bàn do tu tập Đạo đế ở trong Tứ Thánh Đế.

Các Luận giảng, như Du-già, Hiển Dương, giải thích y trên tập khí y xứđạt được quả dị thục. Y tùy thuận y xứ đạt được quả đẳng lưu. Y chân kiên y xứ được quả ly hệ. Y sĩ dụng y xứ được quả sĩ dụng. Y trên các y xứ còn lại đạt được quả tăng thượng… Nói chân kiến xứ, là chỉ các y xứ mà trong đó tất cả các công năng chứng quả ly hệ và trong xứ này quả phi ly hệ cũng đạt được. Nhưng trong đây hình thái của sự chứng quả ly hệ rất rõ ràng, do đó nói riêng.[6]

Cần hiểu rõ, đoạn trừ hay thoát ly ở đây có nghĩa như thế nào, nói là đoạn, vì nó có hai phạm trù đoạn:

 a. Tự tính đoạn (svabhāva-prahāa), bị đoạn trừ do bản chất, khi đến giai đoạn đối trịnhất thiết bị đoạn trừ.

b. Sở duyên đoạn (ālambanakleśa-prahāa), do phiền não bị đoạn mà đối với sự thể làm sở duyên được thoát ly[7].

Và đoạn cũng có hai nghĩa:

Một, thoát ly hệ phược, đoạn trừ phiền não duyên vào đó, và các phiền não xen tạp vào đó. Nghĩa là, khi phiền não duyên các căn để khởi bị đoạn, bấy giờ các căn ấy được thoát ly, goi là duyên phược đoạn, tức sở duyên đoạn[8];

“...Khi phiền não duyên các căn để khởi bị đoạn…” Thuật từ Duy thức gọi là: Duyên bĩ phiền não, Thuật ký giải thích, phiền não trong bảy thức duyên đến đối tượng hữu lậu thiện hay vô ký vô phú. Các đối tượng này không phải là pháp hệ phược nhưng bị các năng duyên hệ phược. Nếu phiền não năng duyên bị đoạn, đối tượng sở duyên được nói là đoạn. Khi phiền não trong thức thứ bảy bị đoạn, thức thứ tám cũng được gọi là duyên phược đoạn cũng tức là sở duyên đoạn.

“…Phiền não xen tạp…” thuật ngữ Duy Thức gọi là Tạp bĩ phiền não, Xu yếu 2 giải thích, có ba loại: câu sinh tạp, dẫn sinh tạp, và gián sinh tạp. Theo Thuật ký:

a. Khi thức thứ bảy khởi phiền não, tuy duyên đến các pháp sáu thức các thứ nhưng sáu thức do đó mà thành tính chất hữu lậu; vì nó được gọi là sở ô y, sở y của pháp nhiễm ô. Các phiền não này thường xuyên khởi trong các trạng thái, ba tính, của sáu thức. Khi thức thứ bảy đoạn phiền não, sác thức được thoát ly.

b. Khởi xen kẽ nhau (gián sinh tạp), trong sáu thức, các pháp thiệnvô ký, trước sau khởi xen kẽ các phiền não.

c. Thiện hữu lậu do phiền não dẫn sinh nên thành hữu lậu tính (dẫn sinh tạp).

d. Tâm và các biến hành vốn không phải là nhiễm pháp nhưng cùng khởi với phiền não, chúng được gọi là phiền não phược (tương ưng phược, bị hệ phược do liên hệ). Khi phiền não bị đoạn, do liên bị cẳt đứt, tâm và các biến hành cũng được thoát ly và được nói là đoạn. Đây gọi là đoạn trừ phiền não xen tạp với nó. Nhưng trong bốn giải thích trên (a, b, c, d),

Thuật ký lựa chọn hai giải thích (b) và  (c).

Hai, vì không sinh, tức vì sở y của nó bị đoạn nên nó vĩnh viễn không sinh nữa. Thuật ký giải thích: y tức nhân, tức sở y xứ. Có bốn phạm trừ đoạn: tự tính, tương ưng, duyên phược, và bất sinh. Bất sinh đoạn, tức không tái sinh vào ác thú, dị thục, vô tưởng định, v.v. Tức khi vào kiến đạo, sẽ không tái sinh vào những nơi đó. Phiền não lấy những nơi đó làm sở y được nói là bị đoạn[9].

Từ đâu mà đọan? Không từ quá khứ, vì đã diệt. Không từ bị lại, vì chưa sinh. Không từ hiện tại, vì không câu hành với đạo. Nhừn từ nơi phần thô trọng của các phiền não mà có đoạn. Vì để đoạn trừ các phẩm loại thông trọng như thế như thế mà phát sinh các phẩm đối trị như thế như thế. Khi phẩm đối trị nàg sinh thì phẩm thô trọng này diêt, bình đẳng bình đẳng; như ở đời khi ánh sáng hiện thì bóng tối mất. Do phẩm ly hệ này khiến phiền não vị an trụ trong pháp bất sinh. Đó gọi là đoạn[10]

Căn cứ theo sự đoạn trừ do bởi thoát ly hệ phược, nói rằng thiện hữu lậu và vô ký vô phú chỉ thuộc tu sở đoạn. Những pháp nào bị đoạn bởi kiến đạo? Năm kiến; tham, sân, mạn y kiến khởi; vô minh tương ưng, vô minh bất cộng, si đối với các Thánh đế; và nghiệp dẫn đến các ác thú. Những pháp nào bị đoạn bởi tu đạo? Tất cả pháp hữu lậu thuộc tính thiện, tất cả pháp vô ký vô phú; và trừ các pháp nhiễm ô bị đoạn bởi kiến dạo, tất cả các nhiễm ô còn lại[11].

Thuận Chánh Lý Luận giải thích: “Ly hệ quả là quả trạch diệt. Trạch là trí tuệ; diệt là lậu tận. Do lấy trí tuệ làm nhân tu tập, thoát ly và tận diệt mọi sự trói buộc của tham ái, khiến thành tựu Diệt đế. Nên, Diệt đếquả ly hệ. Trạch hay trí tuệ là tu nhân và diệt hay giải thoát là kết quả. Nên, quả ly hệ là quả trạch diệt hay là quả Niết-bàn[12].

Thành Duy Thức Luận, Huyền Tráng giải thích: “Qủa ly hệ đạt được từ các nhân nhiếp thọ, dẫn phát, định dị, đồng sự, bất tương vi, và duyên tăng thượng… và Quả của mười thắng hành, về hữu lậu, có bốn, trừ quả ly hệ. Vô lậu, có bốn, trừ quả dị thục.”[13]. Đoạn trừ đối trị, là ly hệ quả; hiện tại tự tha thọ dụng, là sĩ dụng quả; tương lai càng phát triển: đẳng lưu quả; cảm tài sản lớn: dị thục quả. Đủ cả năm quả, do tu tập mười thắng hành[14].

Cần phân biệt rằng: Vị ly hệ tập, vì chưa thoát ly sự chướng ngại chân như. Sthiramati giải thích: do chân như chưa thoát ly khỏi những chướng ngại, mà có sự tập khởi của khổ, do đó nói là tập khởi do bởi sự chưa thoát ly hệ phược (avisayoga).

Theo Thế Thân: Trong vô gián đạo, đoạn phiền não đắc (ấn tượng phiền não). Vào giải thoát đạo, giải thoát phiên não, đắc và ly hệ đồng thời khởi. Như đuổi kẻ trộm ra khỏi nhà (vô gián đạo), sau đó đóng chặt cửa không cho nó vào lại (giải thoát đạo)[15]. Và Câu-xá cũng nói: “pratisakhyānirodho yo visayoga”:  trạch diệt là sự thoát ly hệ phược[16]. Chúng không phải là hệ phược.

Nếu duy chỉ đoạn trừ hệ phượcchứng đắc trạch diệt, vậy hai vô vibất động và tượng thọ diệt – thuộc vào phi trạch diệt vì được nói là tạm thời thoát ly hệ phược. Trạch diệt vô vi duy chỉ cứu cánh diệt. Vì có trường hợp phi trạch diệt không vĩnh viễn diệt tận.

Phi trạch diệt, từ Sanskrit gọi là apratisakhyānirodha, khi điều kiện cho các pháp sinh khởi đủ, mà những pháp đã xuất hiện thì pháp khác không xuất hiện được, ở tropng trạng thái tịch diệt, tịch tĩnh, đó gọi là phi trạch diệt[17]. Thế Thân giải thích: utpādātyantavighno’nyo nirodho’praisíakhyayā - 畢竟礙當生 別得非擇滅[18]: các pháp do khuyết duyên mà tương lai vĩnh viễn không xuất hiện được gọi phi trạch diệt – diệt không do tư trạch. Và phi trạch diệt, diệt không do thoát ly hệ phược, vì tùy miên vĩnh viễn bị hại không do bởi[19].

Trường hợp phi trạch diệt không vĩnh viễn diệt tận do các duyên không hội đủ, lúc bấy giờ nó hoàn toàn không xuất hiện, chứ không phải vĩnh viễn không xuất hiện[20]. Có bốn ly hệ: do duyên sai thoát mà được hhoàn toàn ly hệ (phi trạch diệt vô vi), do giản trạch phiền nãohoàn toàn ly hệ (trạch diệt vô vi), do khổ lạc tạm thời ly hệ (bất động vô vi), tâm tâm pháp tạm thời ly hệ (tưởng thọ diệt vô vi). Theo đó, bất động và tưởng thọ diệt vì tạm thời ly hệ nên được bao hàm trong phi trạch diệt[21].

Về các vô vi, theo Ngũ uẩn luận, có bốn: hư không vô vi, trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vi, chân như vô vị. Theo các luận Bách pháp, Du-già, thêm bất động vô vi, tưởng thọ diệt vô vi, thành sáu. Du-già sư địa luận 3: hư không, phi trạch diệt, trạch diệt, thiện bất thiện, vô ký pháp, chân như, bất động, tưởng thọ diệt; như vậy có tám vô vi, nhưng tổng lược thành sáu. Tám háy sáu đều bình đẳng bình đẳng.

Tóm lại, Ly hệ quả là quả giải thoát, là quả vô vi, là quả Niết-bàn. Chứng nhập Ly-hệ quả là an trú bản lai tự tính tịch diệt, giải thoát hoàn mọi khát ái, ly khai mọi ấn tượng đảo ngược, thành tựu giải thoát tối thượng, lên bờ Nhất Như. Đó chính là Ý nghĩa của Ly-hệ quả vậy.

 
Rừng Lu-mu, An cư 2559
Phước Nguyên



[1] Câu-xá, k.i. 6a

[2] Bodhisattvabhūmi, tr. 72.

[3] Du-già 38, tr. 502b4.; Hiển dương 18, tr. 571a.

[4] Thành Duy Thức Luận, Huyền Tráng, bản Việt, Tuệ Sỹ dịch.

[5] Ibid. Tuệ Sỹ dịch.

[6] Cf. Du-già 38, tr. 502b4.; Hiển dương 18, tr. 571a.

[7] Thuận chánh lý 6 , tr. 362c28.

[8] Nghĩa diễn 10, tr. 190c.

[9] Liễu nghĩa đăng 5, tr. 754c11, 25 và tiếp.

[10] Tập luận 4 tr. 678c24; Tạp tập 7 tr. 727a22.

[11] Du-già 66 tr. 668a20.

[12] Thuận Chánh Lý Luận 18, T29, tr 437.

[13] Thành Duy Thức Luận 8, T31, tr.42.

[14] Tạp tập 12, tr. 750a29.

[15] Câu-xá 23 tr. 122a16.

[16] Kośa. i. 3.

[17] Du-già 53 tr. 593a19.

[18] Cf. Câu-xá, k. i. 3.

[19] Tạp tập 2, tr. 702c3.

[20] Phật địa luận 2 tr. 299b28.

[21] Hiển dương 18 tr. 572a29.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 60)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 143)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 222)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 187)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 316)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 766)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 795)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 798)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 792)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 681)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 803)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1042)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1086)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1083)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1230)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1940)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1316)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1061)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1041)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1237)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant