Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh A Di Đà dịch nghĩa

22 Tháng Mười 201000:00(Xem: 46287)
Kinh A Di Đà dịch nghĩa


Kinh A Di Đà dịch nghĩa

KỆ TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.


QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới Đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

 

LỄ PHẬT

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sinh Di Lặc tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Lò hương vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương 
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiềng
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

 

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị đa, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô yết đế, thất Phật ra lăng đà bàNam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

 KỆ KHAI KINH

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu.
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu.
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng.
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ tát (3 lần)

KINH A DI ĐÀ

Phật nói Kinh A Di Đà,
Chính tôi nghe đúng thực là không sai.
Thường theo Phật ngàn hai trăm rưỡi,
Toàn những là bậc đại Tỳ kheo,
Chứng A la hán đã lâu,
Chúng đều quen biết không đâu không tường.
Có một thời ở vườn Trưởng giả
Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà,
Nước là Xá Vệ không xa.
Bấy giờ Phật tự nói ra kinh này,
Bậc tuổi cao đã dầy công đức,
Xá Lợi cùng ngài Mục Kiền Liên,
Ngài Ca Diếp, ngài Chiên Diên,
Ngài Câu Ly cũng cùng liền Bà Đa,
Châu Lợi với Nan Đà các vị
Át Nan và con quý Như Lai,
Kiều Bà Đề cũng ở đây,
Tân Đầu Lư với lại ngài Ca Lưu,
Kiếp Tân Na, Bạc Câu La cũng,
Đâu Lâu Đà là những bậc trên.
Cùng chư Bồ tát, Thánh Hiền,
Văn Thù Sư Lợi đứng trên mọi người,
Con vua Pháp chính ngài hơn hết.
A Dật Đa Bồ tát cũng đây,
Bồ tát Càn Đa Ha Đề,
Ngài Thường Tinh Tấn cũng về rất đông.
Các bậc lớn thật không còn thiếu,
Vua Thích Đề cũng chịu khó theo,
Chư Thiên chẳng biết bao nhiêu,
Tất cả đại chúng cũng đều ở đây.
Bấy giờ, Phật gọi thầy Xá Lợi,
Bảo cho rằng từ cõi Ta đây,
Đi sang thẳng phía phương Tây,
Qua mười muôn ức cõi thời tới nơi.
thế giới tuyệt vời sung sướng,
Có Phật là Vô Lượng Thọ Quang,
Hiện đương thuyết pháp rõ ràng.
Vậy thầy có biết vì cơn cớ gì,
Sao lại gọi nước kia cực sướng ?
Chúng sinh trong đều hưởng thuần vui,
Khổ đau tuyệt tích tăm hơi,
Cho nên mới gọi cõi đời rất vui.
Xá Lợi Phất ! Lại coi xem đã,
Cõi nước kia khắp cả trong ngoài,
Đường đi có bảy hàng cây,
Bảy lần lưới phủ, bảy lần bao lơn,
Toàn là chất bạc vàng châu báu,
Tất cả đều vây nhiễu chung quanh.
Nước kia vì đấy thành danh,
Gọi là Cực lạc sạch sanh vui vầy.
Xá Lợi Phất ! Lại đây mới lạ,
Cõi nước kia có cả hồ ao,
Toàn là thất bảo quý sao.
Nước tám công đức dồi dào ở trong,
Đáy ao cũng tuyệt không chút đất,
Cát dưới đều toàn chất vàng thôi,
Bốn bên đường bậc hẳn hoi,
Pha lê, vàng, bạc cùng loài lưu ly,
Hợp lại coi cực kỳ đẹp mắt.
Trên lại còn lầu các nguy nga,
Cũng đem vàng, bạc, xa cừ,
Xích châu, mã não, lưu ly mọi loài.
Tô điểm hết trong ngoài như một,
Sen trong ao hoa tốt lạ thường,
Bánh xe cũng chỉ ngang ngang,
Mùi hương mầu nhiệm sạch thơm khác thường,
Đủ bốn sắc : Xanh, vàng, đỏ, trắng,
Đều theo màu ánh sáng hiện ra.
Thầy Xá Lợi ! Có đó mà,
Nước trang nghiêm thế đúng là trang nghiêm,
Nhờ công đức gây nên được thế.
Lại còn đây, thầy sẽ xem xem,
Tiếng thiên nhạc vẫn vang rền,
Đất là vàng tốt ngày đêm sáu thời.
Hoa mạn đà trên trời mưa xuống,
Chúng sinh trong ra hứng đem về,
Túi này đựng lấy hoa kia,
Hằng ngày sáng sớm đem đi cúng dường.
Dâng khắp cả mười muôn ức Phật,
Bao nơi mà giây phút về ngay,
Cơm xong dạo gót thảnh thơi.
Thầy Xá Lợi Phất ! Thử coi xem nào,
Cõi Cực lạc xiết bao công đức,
Đấy mới là đúng thực trang nghiêm.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Nước kia có đủ thứ chim dị kỳ,
Hình dung đẹp thiếu chi màu sắc.
Bạch hạc cùng Khổng tước rất xinh,
Anh vũ, Xá lợi cùng mình,
Ca lăng tần cũng cùng sinh một thời.
Các chim ấy đêm ngày kêu hót,
Ra toàn là tiếng ngọt như ru,
Diễn thành đủ các phép tu,
Ngũ căn, ngũ lực, bảy Bồ đề chi,
Tám đường chính như chia thật rõ.
Chúng sinh trong cõi đó nghe rồi,
Đều là niệm Phật tức thời,
Pháp, Tăng cũng niệm không ai chịu ngừng.
Xá Lợi Phất ! Thầy đừng có bảo,
Chim ấy là tội báo sinh ra,
Bởi vì cõi Đức Di Đà,
Địa ngục, ma đói, cùng là súc sinh,
Ba thứ ấy sạch sanh chẳng có.
Xá Lợi thầy ! Nên rõ cõi kia,
Cái tên xấu đã không thì,
Làm gì có thực chim kia bao giờ,
Các chim ấy chẳng qua là Phật,
Muốn làm cho tiếng pháp chan hòa,
Nên Ngài mới biến hóa ra.
Thầy Xá Lợi Phất ! Xem qua đây này,
Cõi Phật kia so đây xa khác,
Gió hiu hiu thổi các hàng cây,
Cùng là lưới phủ trên cây,
Phát ra những tiếng êm tai lạ thường,
Thật không khác trăm ngàn âm nhạc,
Cùng một thời khua tất cả lên.
Ai nghe thấy bỗng tự nhiên,
Lòng nhớ Phật Pháp Tăng liền có ngay.
Xá Lợi Phất ! Xem đây càng rõ,
Cõi Phật kia còn có đâu hơn,
Gây nên rực rỡ muôn phần,
Đều do phúc đức công huân của Ngài.
Xá Lợi Phất ! Lòng thầy có hiểu,
A Di Đà là hiệu làm sao,
Hào quang Phật sáng xiết bao,
Soi mười phương chẳng nước nào là không.
Đến đâu tựa trăng trong nước biếc,
A Di Đà mới thiệt xưng tên.
Thầy Xá Lợi ! Lại coi xem,
Đức Di Đà thọ vô biên vô lượng,
Cả nhân dân sống ngang như Phật,
Kể kiếp đời tính thật khó ra,
Thế nên tên gọi Di Đà,
Này thầy Xá Lợi ! Nghe mà nghĩ coi,
Đức Di Đà lên ngôi thành Phật,
Đến nay là mười kiếp chu viên.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Phật kia còn có vô biên vô lượng,
Các đệ tử Thanh văn, La hán,
Không thể nào tính toán mà hay.
Các Bồ tát cũng nhường này,
Thầy Xá Lợi Phất ! Xem đây thế nào,
Cõi Phật kia xiết bao công đức,
Gây nên thành đúng thực trang nghiêm.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Cõi nước Cực lạc ai lên đấy rồi,
Hết thảy đều lên ngôi bất thoái.
Phật sắp thành cũng lại rất đông,
Chỉ một kiếp nữa là cùng.
Đọc các số ấy khó lòng tính ra,
Tạm lấy số hằng sa mà kể,
Gọi rất nhiều cho dễ hiểu thôi.
Xá Lợi Phất ! Ai nghe rồi,
Cố nên phát nguyện tới nơi kẻo hoài.
Vì ở với thuần người thật tốt,
Vui cùng nhau mãi suốt đời đời,
Xá Lợi Phất ! Phải những người,
Nhân duyên phúc đức rất dày thiện căn,
Thì mới được sinh sang nước ấy.
Xá Lợi ! Thầy xem đấy quý không,
Nếu như ai có thực lòng,
Trai lành gái tốt đều không phân bì,
Được nghe nói A Di Đà Phật,
Là tên Ngài liền chấp trì ngay,
Một ngày luôn đến bảy ngày,
Một lòng chẳng rối tức thời thành công.
Người ấy lúc mình cùng số tận,
Các Thánh cùng Ngài hiện tới ngay,
Hiện ra trước mắt cho coi,
Lòng người ấy lúc tắt hơi êm đềm,
Tức khắc được sinh lên cõi Phật,
Đấy chính là cõi nước Như Lai.
Ta xem thấy sự lợi này,
Nói cho thầy biết để thầy xét suy.
Nếu có ai được nghe đây nói,
Nên cố cầu sinh cõi Phật kia,
Này thầy Xá Lợi lặng nghe !
Nay ta khen ngợi Đức Di Đà rồi,
Công đức Phật muôn đời khôn kể.
Phương Đông ngài A Bế Như Lai,
Tu Di Tướng, Đại Tu Di,
Tu Di Quang Phật cùng ngài Diệu Âm.
Phật như thế kể bàn sao xiết,
Cát sông Hằng tỷ thiệt đúng thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở phương Nam,
Đức Phật Nhật Nguyệt Quang,
Danh Văn Quang, Đại Diệm Kiên hai Ngài,
Tu Di Đăng Như Lai tinh tiến,
Đức của Ngài khôn đếm kể sao.
Phật như thế số rất nhiều,
Cát sông Hằng mấy bấy nhiêu các Ngài.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở phương Tây,
Vô Lượng Thọ Như Lai,
Phật Vô Lượng Tướng cùng ngài Đại Quang,
Bảo Tướng, Vô Lượng Tràng hai vị,
Tĩnh Quang cùng xiết kể Như Lai.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở Bắc phương,
Diệm Kiên, Nan Trở hiện đương,
Tối Thắng Âm Phật cũng thường ở đây.
Nhật Sinh, Võng Minh đầy đủ cả,
Hằng hà sa khó tả được thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở Hạ phương,
Có Ngài Sư Tử Danh Văn,
Danh Quang, Đạt Mạ, Pháp Tràng Như Lai,
Trì Pháp Phật, các Ngài như thế,
Cát sông Hằng sánh tỷ nhiều thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi thầy ! Còn ở Thượng phương,
Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương,
Phật Hương Thượng với Hương Quang hai Ngài,
Đại Diệm Kiên cùng ngài Tạp Sắc
Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật Như Lai,
Sa La Thọ Vương Như Lai,
Kiến Nhất Thiết Nghĩa cùng ngài Bảo Hoa,
Tu Di Sơn Phật đà như thế,
Cát sông Hằng sánh tỷ không sai.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Lòng thầy có nghĩ ra,
Sao kinh này lại gọi là,
Hết thảy chư Phật giữ mà nhớ không.
Xá Lợi Phất ! Là chung hết thảy,
Gái, trai lành nghe thấy là may,
Người nghe chịu tin kinh này,
Cùng tên chư Phật đêm ngày tụng luôn.
Những người ấy chẳng còn sợ sệt,
Chư Phật đều giúp sức hết cho,
Còn ngôi thứ cũng chẳng lo,
Tới nơi thành Phật dễ hồ ai hơn.
Xá Lợi Phất ! Chớ còn lưỡng lự,
Đều nên tin lời của Ta đây,
Với lời chư Phật cho hay,
Thầy xem như đã có ai phát nguyền,
Giờ hay sau nguyện lên cõi ấy,
Những người này đều tới không lui,
Ngôi thành Phật chứng hẳn hoi.
Nước kia người đã sang rồi rất đông,
Nay về sau cũng không phải thiếu,
Thế nên Ta khuyên bảo cho hay,
Trai lành gái tốt những ai,
Nếu tin nên phát nguyện ngay đợi gì,
Nguyện sinh sang nước kia cực sướng.
Xá Lợi ! Thầy nên tưởng đó coi,
Nay Ta khen các Phật rồi,
Rất nhiều công đức khó hay nghĩ bàn.
Chư Phật lại khen Ta có hẳn,
Công đức này thật khó nghĩ bàn,
Nói rằng việc rất khó làm,
Thích Ca Phật thật không ngần ngại chi.
Ở cõi nước cực kỳ khổ sở,
Đời bẩn nhơ xấu đủ cả năm,
Kiếp cùng ý kiến dục lầm, 
Chúng sinh, phiền não, mạng thuần bẩn nhơ.
Ở cõi này tu mà thành Phật,
Thương chúng sinh nói pháp nhiệm mầu.
Thế gian đều có tin sâu,
Xá Lợi nên biết ! Ta đâu ngại gì.
Ở đời xấu ngàu ngàu năm thứ,
Làm việc này thực khó lắm thay,
Đạo Bồ đề được chứng ngay.
Lại vì khắp cả trong ngoài thế gian,
Nói pháp này người tin thật khó,
Là một điều hiếm có xưa nay.
Kinh này Phật nói xong rồi,
Xá Lợi Phất với các thầy Tỳ kheo,
Tất cả có bao nhiêu thính giả,
Trời, người cùng cả thảy Tu la,
Được nghe lời Phật nói ra,
Vui mừng tin giữ lễ mà bước đi.

 

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Đức Bồ tát hiệu Quan Tự Tại,
Dầy công tu huệ mới mở mang !
Chân như một áng linh quang,
Chiếu soi năm uẩn đều không có gì.
Bát nhã huệ soi đi khắp chốn,
Dứt mọi đường khổ khốn tai nàn !
Xá lợi, tâm chớ nghi nan,
Sắc kia nào khác cái không đâu mà !
Cái không nọ, nào xa cái sắc,
Sắc là không, không sắc như nhau.
Thọ, tưởng, hành, thức, khác đâu,
Chân không xét cũng một mầu thế thôi !
Này Xá lợi, nghĩ coi có phải ?
Những pháp không xét lại thực là :
Chẳng sinh, chẳng dứt đó mà,
Sạch dơ, thêm bớt, cũng là chân không.
Ấy vậy phải xét thông mọi lẽ,
Như hư không, sắc vẻ gì đâu ?
Thọ, tưởng, hành, thức, sạch làu,
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, còn đâu nương nhờ ?
Thân, ý cũng hững hờ như thế,
Lục trần kia, cũng kể là không.
Đã không nhãn giới suốt thông
Đến ý thức giới cũng không thấy gì.
vô minh, nương chi mà có ?
Bổn tánh không soi nó phải tiêu !
Đã không lão tử hiểm nghèo,
Còn đâu già chết, hòng theo quấy rầy ?
Khổ, tập, diệt, đạo không thay !
Trí còn không có, đắc này được đâu ?
Vô sở đắc là câu tuyệt diệu !
Bồ tát xưa khéo liệu đường tu.
Chân không bổn tánh như như,
Nhờ huệ Bát nhã, thiệt hư soi làu !
Không ngăn ngại, còn đâu lo sợ !
Mộng tưởng không, tâm chẳng đảo điên !
Chân như bổn tánh thiên nhiên,
Niết bàn cõi ấy, chứng nên đạo mầu !
Tam thế Phật, ngôi cao chứng quả,
Thảy đều nhờ Bát nhã tu nên.
Bát nhã này rất thiêng liêng !
Ấy đại thần chú giúp nên đạo thiền.
Ấy thần chú đại minh sáng chói !
Chú vô thượng vòi vọi cao xa !
Vô đẳng đẳng chú ấy mà,
Gồm đủ thần lực, thiệt là tối linh !
Những khổ não thênh thênh trừ hết,
Lời nói này, chân thiệt chẳng ngoa.
Vậy nên Bát nhã thuyết qua,
Này câu thần chú niệm ra như vầy :
Yết đế, yết đế, ba la yết đế,
Ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

 

VÃNG SINH THẦN CHÚ

Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ. Đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

 

 TÁN PHẬT

Di Đà thân Phật sắc vàng tươi,
Tướng tốt quang minh vẹn đủ mười.
Ánh sáng tỏa hình năm núi lớn,
Mắt trong tợ nước bốn nguồn khơi.
Hào quang hóa Phật bao nhiêu ức,
Bồ tát hiện thân gấp mấy mươi.
Bốn tám lời nguyền mong độ chúng,
Hoa sen chín phẩm rước lên ngôi

Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát.
Nam Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.

 

SÁM NHẤT TÂM

Một lòng mỏi mệt không nài,
Cầu về Cực lạc ngồi đài Liên hoa.
Cha lành vốn thiệt Di Đà,
Soi hào quang tịnh chói lòa thân con.
Thẳm sâu ơn Phật hằng còn,
Con nay chánh niệm lòng son một bề.
Nguyện làm nên đạo Bồ đề,
Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây phương.
Phật xưa lời thệ tỏ tường,
Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sinh.
Thệ rằng : Ai phát lòng thành,
Nước ta báu vật để dành các ngươi
Thiện nam, tín nữ mỗi người,
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra.
Ta không rước ở nước ta,
Thệ không thành Phật chắc là không sai.
Bởi vì tin tưởng Như Lai,
duyên tưởng Phật sống dai vô cùng.
Lời thề biển rộng mênh mông,
Nhờ ơn Đức Phật thoát vòng trần lao.
Tội mòn như đá mài dao,
Phước lành thêm lớn, càng cao càng dầy.
Cầu cho con thác biết ngày,
Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh.
Cầu con tội khổ khỏi mình,
Lòng không trìu mến chuyện tình thế gian.
Cầu con thần thức nhẹ nhàng,
In như thiền định họ Bàng thuở xưa.
Đài vàng tay Phật bưng chờ,
Các ông Bồ tát bây giờ đứng trông.
Rước con thiệt đã nên đông,
Nội trong giây phút thảy đồng về Tây.
Xem trong cõi Phật tốt thay,
Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần.
Hội này thấy Phật chân thân,
Đặng nghe pháp nhiệm tâm thần sáng trưng.
Quyết tu độ chúng phàm dân,
Đủ lời thệ nguyện Phật ân rộng dầy.
Phật thệ chắc thiệt không sai,
Cầu về Tịnh độ, ai ai tin lòng.
Cầu về Tịnh độ một nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa nở rồi biết tánh linh,
Các ông Bồ tát bạn lành với ta.

PHỤ LỤC: SÁM HỒNG TRẦN

Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán,
Kiếp phù sinh tụ tán mấy hồi.
Người đời có biết chăng ôi !
Thân người tuy có, có rồi hườn không.
Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng,
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi.
Làm cho buồn bã thế ni,
Hình dung mới đó bữa nay đâu rồi.
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi,
Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô.
Khi nào du lịch giang hồ,
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.
Khi nào lược giắt trâm cài,
Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang.
Khi nào trau ngọc chuốt vàng,
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh.
Khi nào mắt đẹp mày thanh.
Bây giờ thấy dạng, thấy hình là đâu.
Khi nào lên các xuống lầu,
Bây giờ một nấm cỏ sầu xanh xanh.
Khi nào liệt liệt oanh oanh,
Bây giờ một trận tan tành gió mưa.
Khi nào ngựa lọc xe lừa,
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng.
Khi nào ra trướng vào màn,
Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa.
Khi nào mẹ mẹ cha cha,
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng.
Khi nào vợ vợ chồng chồng,
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn.
Khi nào cháu cháu con con,
Bây giờ hai ngã nước non xa vời.
Khi nào cốt nhục vẹn mười,
Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì.
Khi nào bạn hữu sum vầy,
Bây giờ chén rượu, cuộc kỳ vắng thiu,
Cái thân như tấc bóng chiều,
Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi.
Xưa ông Bành Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu.
Sang mà đến bực công hầu,
Giàu mà đến bực bấy lâu Thạch Sùng.
Nghèo mà đói khát lạnh lùng,
Khổ mà tóc cháy, da phồng trần ai.
Phù du sớm tối một mai,
Giàu sang cũng thác, xạc xài cũng vong.
Thông minh tài trí anh hùng,
Si mê dại dột cũng chung một gò.
Biển trần nhiều nỗi gay go,
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê.
Sự đời nên chán nên chê,
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn.
Vong hồn ơi, hỡi vong hồn,
Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa ?
Tỉnh rồi một giấc say sưa.
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về.
Hồn về Cực lạc nước kia,
Cho xa hang quỷ mà lìa kiếp ma.
Nhờ ơn Đức Phật Di Đà,
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang.
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng.
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhân.
Quan Âm Bồ tát vui mừng,
Tay cầm nhành liễu tay bưng kim đài.
Với cùng Thế Chí các Ngài,
Cũng đều khuyên thỉnh lên ngay sen vàng
bảo cái, có tràng phan,
Có mùi hương lạ, có đàn ngọc xây.
Có trời các cõi truy tùy,
Có đờn, có trống, rước đi một đường.
Rước về đến cảnh Tây phương,
Có ao thất bảo, có hương ngũ phần.
Lưu ly có đất sáng ngần,
Ma ni có nước trong ngần chảy quanh.
Thất trân có bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu.
Có ngân các, có kim lâu,
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề,
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền.
Đã sinh về chín phẩm sen,
Mấy tai cũng sẩy, mấy duyên cũng tròn.
Phật như thể mẹ tìm con,
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi.
Lầu vàng đài báu thiếu gì,
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu.
Không ơn, không oán, không sầu,
Không già, không chết, có đâu luân hồi.
Tánh xưa nay đã tỏ rồi,
Gương xưa nay đã lau chùi trần ô.

Tu hành phải đời kiếp mô,
Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ.
Lựa là phải ngộ thiền cơ,
Mà đèn trí huệ để mờ đi đâu ?
Mấy lời thệ nguyện trước sau,
Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà.
Phân thân ra khỏi Ta bà,
Từ bi tiếp độ những là chúng sinh.

 

HỒI HƯỚNG

Tụng kinh công đức vô biên
Xin đem hồi hướng mọi miền gần xa
Chúng sinh pháp giới bao la
Đều về Cực lạc Di Đà Tây thiên
Nguyện tiêu ba chướng não phiền
Nguyện khai trí tuệ vô biên sáng ngời
Nguyện trừ tội chướng bao đời
Hành theo Bồ tát đời đời vị tha
Nguyện sinh Tịnh độ Di Đà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa khai ngộ pháp vô sinh
Cùng chư Bồ tát bạn lành với ta
Nguyện đem công đức tạo ra
Hướng về khắp cả gần xa hưởng nhờ
Con cùng muôn loại thân sơ
Đều thành Phật đạo, đến bờ an vui.

 

 TỰ QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, tất cả không ngại.

 

Source: tangthuphathoc.com


Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Mười Một 201507:57
Khách
Xin cho con hỏi là có video đọc kinh này không ạ?
28 Tháng Mười 201207:00
Khách
hay qua, dich rat chinh xac
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19625)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23893)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41130)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19640)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23903)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21696)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23242)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27439)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26483)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29241)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33094)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20143)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25696)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20854)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31199)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38452)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21361)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44168)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29763)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42071)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22093)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45633)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32040)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23888)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24290)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29175)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33839)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27623)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32044)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 20988)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28801)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21498)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27962)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22014)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21380)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19443)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19386)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19769)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19184)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29083)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20558)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28214)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23583)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33085)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31765)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21336)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39549)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21496)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19317)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26248)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24754)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21714)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22318)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29067)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22507)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20436)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23439)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21178)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35207)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24513)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant