Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm

24 Tháng Mười 201100:00(Xem: 29583)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm

KINH NGŨ BÁCH DANH QUÁN THẾ ÂM

Quảng Minh dịch

Kính dâng lên giác linh Hòa thượng bổn sư Thượng Minh hạ Hạnh nhân húy nhật lần thứ 16.
Kính dâng lên Song thân.
Nguyện cầu những ai lễ lạy 500 danh hiệu bồ tát Quan Thế Âm
sẽ được đại sĩ nắm giữ bằng ngàn tay, soi thấy bằng ngàn mắt,
làm cho phát khởithực hành hạnh từ bi.
Con về nương tựa Phật, con về nương tựa Pháp, con về nương tựa Tăng,
con về nương tựa bồ tát Quán Thế Âm,
cầu nguyện cho Má con bịnh chướng tiêu trừ, ta bà ha.


LỜI PHI LỘ

 

blankKinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.) Theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của G.S Nguyễn Lang, Thủy Lục Chư Khoa, “một nghi thức cúng cô hồn dưới nước và trên cạn”, được thiền sư Chuyết Chuyết (1590 – 1644) đem theo lần đầu khi vào Việt Nam hoằng hóa. Xem toàn văn Thủy Lục Chư Khoa thì thấy đó là khoa nghi của truyền thống Phật giáo Việt Nam khởi đi từ thời Trần rồi tiếp tục được trùng san bởi thiền sư Chân Nguyên (1646 – 1726), cụ thể là Nghênh Sư Duyệt Định Khoa của ngài được thêm vào phần mở đầu của Thủy Lục Chư Khoa. Như vậy, kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm hẳn phải xuất hiện trước thời của thiền sư Chuyết Chuyết, tức trước thế kỷ thứ 16, lùi xa hơn nữa tới thế kỷ thứ 12 của Phật giáo đời Trần, đặc biệt có thể xuất hiện vào thế kỷ thứ 13, khi mà tín ngưỡng bồ tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt được truyền tụng rộng rãi.

Người dịch có bản phóng ảnh kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm của Viện Thông Tin Khoa Học Xã Hội. Đó là bản kinh xưa mà các chùa cổ ở miền Bắc thường tàng bản, bìa khổ 16.5 x 29 cm màu nâu, dày 100 trang giấy dó, rìa kinh bôi mực đỏ. Trang đầu tiên là tựa kinh cùng hai hàng chữ ghi: “Hà Nội tỉnh An Trạch thôn Xiển Pháp tự tàng bản” và “Thành Thái Mậu Tuất trọng hạ cát nhật trùng tuyên” (“Chùa Xiển Pháp, thôn An Trạch, tỉnh Hà Nội tàng bản” và “Thành Thái Mậu Tuất (1898), mùa Hạ, ngày lành trùng khắc”). Trang 3 là hình tượng đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni và trang 4 là hình tượng bồ tát Quán Thế Âm hai mươi bốn tay. Nghề in của nước ta có ra là từ việc in ấn kinh sách nhà Phật, và chùa Xiển Pháp (nằm bên phải Văn Miếu) là một trong những cơ sở in khắc nổi tiếngtỉnh Hà Nội, với 17 bản kinh như: An tượng tam muội kinh, Lục Tổ đàn kinh, Kim Cương Bát Nhã Kinh, Kim Cương Kinh luận, Dược Sư, Mục Lục kinh, Hộ Đồng Tử kinh, Đại Bi xuất tướng, Ngũ bách danh kinh, Tam quy Ngũ giới kinh, Phổ Môn phẩm kinh, Nhân quả hồi dương, Di Đà nhân quả kinh diễn âm, Mục Liên kinh diễn âm, Ngũ Vương xuất gia kinh diễn âm, Bố thí công đức kinh diễn âm, Thập lục quán kinh diễn âm. 

Chùa Quán Sứ có ấn bản Ngũ Bách Danh Kinh Đối Chiếu, có lẽ in sau năm 1934, năm mà Tổng Hội Phật Giáo Bắc Kỳ thành lập. Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm hiện nay lưu hành là trích trong Chư Kinh Nhựt Tụng, Thích Chân Lý, chùa Đức Hòa xuất bản, Sài Gòn 1967. Đó là bản dịch âm có biên soạn của Hòa thượng Thích Tâm Châu. Nay người dịch chỉ dịch âm toàn bộ bản gốc cùng dịch nghĩa, với tâm niệm mong sao, qua phần chuyển ngữthêm thắt cho rõ nghĩa nhưng có căn cứ vào các kinh điển liên quan đến bồ tát Quán Thế Âm, những người con Phật lễ lạy 500 danh hiệu của đại sĩ sẽ được “cảm ứng”. Sau khi đối chiếu với các kinh như: kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát Quảng đại viên mãn đại bi tâm đà la ni, kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni Thần Chú, kinh Bất Không Quyến Sách Chú, phẩm Phổ Môn của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì thấy rằng kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không chỉ ca ngợi danh hiệu, bản nguyện, công đức của đại sĩ Quán Âm, mà còn đề cao tha lực của ngài và của các thần chú như: chú Đại bi, chú Như ý ma ni luân, chú Thiên chuyển. Phần cuối của lễ sámtụng kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ. Kinh này là một trong những kinh quan trọng của đạo Cao Đài, nhưng xét trong tạng chữ Vạn thì đây là kinh số 34, một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ. Điều đặc biệt là, thay vì tụng Tâm kinh để kết lại việc lễ sám, người xưa đã sử dụng kinh Cứu Khổ. Thâm ý có lẽ bản thân kinh này cũng là một thần chú với lời nguyện cầu thiết tha, và trên hết, tụng niệm kinh này thì có cảm ứng. Phật giáo hiện tại có rất nhiều kinh điển để tụng niệm của hai truyền thống Nam truyền và Bắc truyền, vì vậy kinh Cứu Khổ bị đưa vào quên lãng, chỉ còn lưu truyền trong đạo Cao Đài và đăng trên các trang báo với lời ghi “đọc những lời nguyện này 9 ngày (9 lần) thì cầu gì được nấy – được việc nhờ in những lời nguyện này” hay trên vài trang nhà Phật giáo. Kinh này đi cùng với kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm, được san bổ lại phần chú ngữ, vốn được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian, hẳn là đề tài thú vị để nghiên cứu.

Trong khi chuyển dịch chắc không sao tránh những lỗi lầm, người dịch ngưỡng mong chư vị thiện tri thức từ bi chỉ giáo.

Vía Quán Thế Âm bồ tát
19.09. Kỷ Sửu (05.11.2009
Quảng Minh
Cẩn chí

Xem tiếp: KINH NGŨ BÁCH DANH QUÁN THẾ ÂM (PDF)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15759)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11057)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53625)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12970)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16520)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15393)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19155)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19922)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15549)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15342)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15141)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20326)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23940)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15488)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13027)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20098)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13270)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29017)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11699)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18277)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16640)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13229)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12797)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13245)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12966)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12862)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13001)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13538)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11710)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14227)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17720)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22582)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13440)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105737)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14600)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38415)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15519)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34670)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16050)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11327)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15644)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14021)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12826)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13701)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12491)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19371)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27006)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13110)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13465)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21588)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17965)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21872)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14206)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16076)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16136)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19098)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24772)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant