Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thọ & Đắc Đại Thừa Bồ Tát Giới

02 Tháng Tư 201510:40(Xem: 12834)
Thọ & Đắc Đại Thừa Bồ Tát Giới

Giới thiệu Phật giáo Đại thừa Bồ tát giới
THỌ & ĐẮC ĐẠI THỪA BỒ TÁT GIỚI

Thích Thái Hòa



Thọ & Đắc Đại Thừa Bồ Tát GiớiThọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát:

Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.

Đây là cách thọ Bồ Tát giới của ngàn Đức Phật Thích Ca báo thân và trăm ngàn ức Đức Phật Thích Ca ứng hóa thân từ Đức Phật Lô Xá Na ở nơi thế giới Liên Hoa Đài Tạng.

Và đây cũng là cách thọ Bồ Tát giới của chúng đại Bồ Tát mà lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang ở tại cung trời Ma Hê Thủ La của Sắc giới.

Ở nơi cung trời nầy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dùng năng lực của thiền định đưa toàn thể thính chúng ở đó, đến gặp Đức Phật Tỳ Lô Xá Na ở thế giới Liên Hoa Đài Tạng và được Đức Phật nầy dạy về con đường tu tập tâm địa.

Cách thọ nầy, cũng là cách thọ của hội chúng, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hóa thân xuống cõi Ta Bà nầy, sau khi thành Đạo, Ngài liền quy định Bồ Tát giới và trao truyền Bồ Tát giới cho đến cả trăm ngàn ức Bồ Tát, các vị Phạm Thiên, chư thiên của Cõi Sắc và Cõi Dục cũng như những vị ở nhân giới đều nghe thọ (Phạm Võng Kinh, tr 997, Đại Tạng Tân Tu 24).

Sự thọ và đắc Bồ Tát giới bằng cách nầy rất là mầu nhiệm, rất là tối thượng, vì giới đã được trao truyền trực tiếp từ Đức Phật pháp thânĐức Phật báo thân.

Thọ và đắc từ vị Pháp sư:

Trong Kinh Phạm Võng, Đức Phật nói: “Hỡi Phật tử hãy lắng nghe cho kỹ!

Hễ muốn lãnh thọ giới pháp của chư Phật, thì không kể bất cứ ai, dù là Quốc Vương, Vương tử, Bách quan, Tể tướng, Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, Phạm thiên, chư thiên trong mười tám tầng trời Cõi Sắc, chư thiên trong sáu tầng Cõi Dục, tất cả dân chúng, những kẻ huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ, nô bộc, tỳ thiếp, tám bộ quỷ thần, Kim cang thần, súc sanh cho đến những loài do biến hóa, miễn rằng tất cả họ, hiểu được lời của vị pháp sư trao giới, thì hết thảy họ, đều đắc giới và có thể trở thành bậc hoàn toàn thanh tịnh.” (Phạm Võng Kinh, tr 1004, Đại Tạng Tân Tu 24).

Như vậy, Bồ Tát giới mang tính bao dungquảng lượng hơn so với Tỷ khưu giới.

Nhưng, không phải vì vậy, mà dung nạp một cách không trật tự.

Sự trật tự của Bồ Tát giới được tạo nên là do đức tin và sự mong cầu tuệ giác.

Hễ bất cứ ai, bất cứ loài nào, có đức tin và có sự khát ngưỡng tuệ giác, thì tất cả họ có thể đi vào biển cả Giới Pháp đại thừa một cách không ngăn ngại.

Trong Kinh Bồ Tát Anh Lạc Đức Phật nói: “Hỡi các Phật tử! Tất cả chúng sanh muốn vào biển cả của Tam Bảo, thì hết thảy họ phải lấy đức tin làm căn bản. Và họ muốn an trú trong ngôi nhà của giác ngộ, thì hãy lấy giới pháp làm gốc” (Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh, tr1020, Đại Tạng Tân Tu 24).

Thật vậy, loài không có đức tin hoặc có đức tin sai lầm, hoặc những loại ngu đần, thì tự họ không thể nhìn thấy một dấu tích nào của Phật pháp, chứ đừng nói gì đến tin, hiểu, thọ và đắc Bồ Tát giới. Tự bản thân họ không nghe được tiếng Thiện là gì, chứ đừng nói gì đến thọ và đắc giới để hành Thiện.

Dẫu rằng, giới có châu biến cả mười phương, nhưng họ đâu có nghĩ ra để tin và hiểu, để cầu và thọ; tin và hiểu, cầu và thọ đắc là không, thì lấy gì để đắc.

Cũng vậy, mặt trời và ánh sáng vẫn có đó, nhưng đôi mắt mù lòa thì lấy gì để thấy.

Do đó, dù Bồ Tát giới có lượng dung nhiếp rộng lớn như vậy, nhưng mà rất là trật tự, một sự trật tự phát sinh do sự tu tập của những người có đức tinhiểu biết. Và chỉ có những hạng người như vậy hễ có thọ là có đắc.

Họ muốn thọ và đắc giới Bồ Tát, thì phải thỉnh vị pháp sư, mong vị đó đại diện cho Phật và Bồ Tát, trao truyền giới cho.

Và vị pháp sư đó, dù có ở cách xa ngàn dặm đi nữa, thì người cầu thọ cũng phải trực tiếp đến vị đó để cầu thỉnh rằng:

“Kính bạch đại Tôn giả! Xin Ngài hoan hỷ làm Bậc Thầy trao truyền giới cho con, để cho con thành tựu được giới thể của Chánh pháp”. (Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh, tr 1020, Đại Tạng Tân Tu).

Cách thọ và đắc giới từ vị Pháp sư, theo sách Hoằng giới đại học, Tạng bản Chùa Viên Thông, khắc in năm Thành Thái thứ bảy, thì sự tiến hành trao thọ Bồ Tát giới tuần tự như sau:

1. Thỉnh Thầy Truyền Giới:

Giới tử cầu thọ Bồ Tát giới, được vị dẫn thỉnh, hướng dẫn đến vị Pháp sư truyền giới tác bạch lời cầu thỉnh như sau:

“Kính bạch Đại Đức lắng nghe cho! Chúng con là giới tử cầu thọ Bồ tát giới, nay đến Đại Đức, xin Ngài làm vị Thầy trao truyền giới cho chúng con hết thảy Bồ Tát tịnh giới.

Cúi xin Đại đức thương xót lời cầu thỉnh của chúng con, mà Ngài không từ nan sự mệt nhọc trong chốc lác.

Sau ba lần cầu thỉnh như vậy, vị Tôn giả hoan hỷ nhận lời.

2. Khai đạo và thỉnh Phật làm vị Thầy truyền giới:

a. Khai đạo:

Vị giáo thọ sư huấn giáo hàng giới tử như sau:

“Hỡi quý vị giới tử! Giới tiếng phạn là Pratimoksaśìla phiên âm là Ba La Đề Mộc Xoa. Tàu dịch là “Bảo giải thoát”, nghĩa là bảo trì cho người thực hành thoát ly sanh tử mà đi đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.

Do đó, giới là chiếc xe báu tối thượng, là bậc thầy dẫn đường cao nhất, và là con đường tắt đi đến đại Niết Bàn.

Chư Phật ở quá khứ, nhân ở nơi giới mà thành đạo. Các Bậc Đại Sĩ hiện tại cũng do giới mà nhiếp độ chúng sanh. Những người thực hành trong tương lai, cũng do đây mà đạt được sự giải thoát, thiền địnhtrí tuệ.

Bởi vậy, giới là cơ bản của vạn đức, là nền tảng của mọi sự trang nghiêm.

Tuy nhiên, giới pháp có ba loại. Một là giới pháp tại gia gồm có: năm giới, tám giới. Hai là giới pháp xuất gia gồm có: mười giới, hai trăm năm mươi giới. Ba là giới pháp chung cho hàng xuất giatại gia, đó là Bồ Tát tam tụ tịnh giới.

Tụ thứ nhất là Nhiếp luật nghi giới, đó là không phạm vào mười pháp Ba la di. Nghĩa là không làm các ác, sau cùng là thành tựu Pháp thân.

Hiển nhiên, đình chỉ điều ác là trì giới, làm điều ác là phạm giới.

Tụ thứ hai là Nhiếp thiện pháp giới. Nghĩa là tu tập 84.000 pháp môn, chính là phụng hành các điều thiện, sau cùng là thành tựu Báo thân.

Hiển nhiên làm điều Thiện là trì giới, không làm điều thiện là phạm giới.

Tụ thứ ba là Nhiêu ích hữu tình giới. Nghĩa là phát khởi tâm từ, bi, hỷ và xả để làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh, nghĩa là không có chúng sanh nào mà không hóa độ, sau cùng là thành tựu Ứng hóa thân.

Hiển nhiên, thực hành sự hóa độtrì giới, không thực hành sự hóa độphạm giới.

Các tụ tịnh giới như vậy, là khi Đức Phật Thích Ca, Ngài mới thành đạo, ngồi dưới gốc Bồ Đề, đã vì khắp hết thảy chúng sanhtuyên thuyết mười giới phần thuộc kho tàng vô tận.

Đầu tiên, Ngài kết mười Ba La Đề Mộc Xoa là giới nghiêm trọng của Bồ Tát. Giới pháp ấy là pháp chỉ đạo.

Do đó, các hàng Bồ Tát cần phải thọ và trì.

b. Khởi thỉnh Tam Bảo:

Hỡi các giới tử muốn thọ trì tịnh giới! Hôm nay, chúng tôi sẽ vì quý vị mà mở lời cầu thỉnh Tam Bảo trong mười phương, xin thỉnh cầu Đức Thích Ca Như Lai làm vị Hoà thượng, hai vị đại Bồ Tát là Ngài Văn Thù Sư Lợi làm vị Yết ma A Xà Lê, và Ngài Di Lặc làm vị Giáo thọ A Xà Lê, các Đức Như Lai trong mười phương thế giới làm những vị tôn chứng và hết thảy hàng Bồ Tát đều làm bạn lữ đồng học.

Tất cả quý vị giới tử, hãy tha thiết và chí thành một lòng theo tôi mà cầu thỉnh.

- Đệ tử chúng con nhất tâm phụng thỉnh:

Kính lễ Pháp thân thanh tịnh của Đức Phật Tỳ Lô Xá Na.

Báo thân viên mãn của Đức Phật Tỳ Lô Xá Na, xin nguyện các Ngài không trái bản nguyện, thương xót hết thảy hữu tình phóng quang đến đạo tràng làm vị giới chủ và chứng minh.

- Nhất tâm kính lễ, phụng thỉnh vị giáo chủ thế giới Ta BàĐức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Như Lai, làm vị Hoà thượng cho chúng con đắc giới.

Chúng con do nương tựa Ngài làm vị Hoà thượng mà được thọ giới Bồ Tát. Cúi xin Ngài thương xót chúng con. (cầu thỉnh ba lần).

- Đệ tử chúng con nhất tâm phụng thỉnh: Kính lễ Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù, xin cung thỉnh Ngài làm vị Yết ma A Xà Lê, chúng con do nương tựa Ngài làm yết ma A Xà Lê mà được thọ giới Bồ Tát. Cúi xin Ngài thương xót chúng con. (cầu thỉnh ba lần).

- Đệ tử chúng con nhất tâm phụng thỉnh: Kính lễ Đức Bồ Tát Di Lặc, xin cung thỉnh Ngài làm vị giáo thọ A Xà Lê, chúng con do nương tựa Ngài làm vị giáo thọ A Xà Lê mà được thọ giới Bồ Tát. Cúi xin Ngài thương xót chúng con. (cầu thỉnh ba lần).

- Đệ tử chúng con nhất tâm phụng thỉnh: Kính lễ các Đức Như Lai trong mười phương, xin cung thỉnh các Ngai làm vị tôn chứng sư, chúng con do nương tựa các Đức Như Lai mà được thọ giới Bồ Tát. Cúi xin các Ngài thương xót chúng con. (cầu thỉnh ba lần).

- Đệ tử chúng con nhất tâm phụng thỉnh: Kính lễ hết thảy các vị đại Bồ Tát, xin cung thỉnh các Ngài làm những vị bạn pháp đồng học, chúng con do nương tựa các Ngài mà được thọ giới Bồ tát. Cúi xin các Ngài thương xót chúng con. (cầu thỉnh ba lần).

c. Lời khải bạch của vị Pháp sư:

Ngưỡng bạch chư Phật, các vị đại Bồ Tát và các vị Tăng Hiền Thánh trong mười phươngba đời.

Các giới tử nầy, nay cầu mong con, họ muốn rằng, con phụng hành theo chư Phật và Bồ Tát, để xin các Ngài trao truyền Tam tụ tịnh giới.

Các giới tử nầy có khả năng kham lãnh nghĩa lý mầu nhiệm và sâu thẳm ở nơi đại thừa, họ đã có khả năng phát khởi tín tâm.

Cúi xin các Ngài thương xót, ban rải cho ba tụ tịnh giới thanh tịnh của hàng Bồ Tát. (tác bạch ba lần).

Bạch xong rồi đứng dậy kính lễ Tam Bảo trong cả ba đời như sau:

- Nhất tâm đảnh lễ, hết thảy chư Phật, thuộc quá khứ suốt tận biên cương của thời gian nầy.

- Nhất tâm đảnh lễ, hết thảy chư Phật, thuộc đời vị lai suốt tận biên cương của thời gian này.

- Nhất tâm đảnh lễ, hết thảy chư Phật, thuộc đời hiện tại, suốt tận biên cương của thời gian này.

- Nhất tâm đảnh lễ, hết thảy Giáo Pháp tôn quý thuộc quá khứ, suốt tận biên cương của thời gian này.

- Nhất tâm đảnh lễ, hết thảy Giáo Pháp tôn quý thuộc đời vị lai, suốt tận biên cương của thời gian này.

- Nhất tâm đãnh lễ, hết thảy Giáo Pháp thuộc đời hiện tại, suốt tận biên cương của thời gian này.

- Nhất tâm đảnh lễ, hết thảy Chúng Tăng thuộc quá khứ, suốt tận biên cương của thời gian này.

- Nhất tâm đảnh lễ, hết thảy Chúng Tăng thuộc đời vị lai, suốt tận biên cương của thời gian này.

- Nhất tâm đảnh lễ, hết thảy Chúng Tăng thuộc đời hiện tại, suốt tận biên cương của thời gian này.

Đảnh lễ xong, giới tử quỳ xuống tác bạch.

“Cúi xin Đại Đức thương xót, trao truyền cho chúng con Bồ Tát tịnh giới.” (tác bạch ba lần).

4. Vấn già tội:

Sau khi nhận lời tác bạch xong, Pháp sư hỏi giới tử về các già tội. Người cầu thọ Bồ Tát giới, nếu không có bảy tội sau đây, thì mới có thể thọ và đắc giới.

- Không từng làm thân Phật chảy máu.
- Không từng giết cha.
- Không từng giết mẹ.
- Không từng giết Hoà thượng.
- Không từng giết vị Yết maGiáo thọ.
- Không từng phá sự hoà hợp của chúng Tăng.
- Không từng giết hại các Bậc Thánh Nhân.

Sau khi vị Pháp sư hỏi từng tội như vậy, thì giới tử phải trả lời một cách như thật là không từng có những tội ấy, thì mới có thể thọ Bồ Tát giới.

Tuy nhiên, ở trong Bồ Tát giới Yết Ma văn, còn có quy định một số điều kiện không thể thọ giới Bồ Tát như sau:

- Không có lòng từ bi và hiểu biết.
- Không biết là mình có tham.
- Có đại dục.
- Tâm không vui.
- Không cung kính đối với học giới.
- Khinh thường luật nghi.
- Có tâm đại sân hận, không thể nhẫn nhịn.
- Nhác nhớm.
- Đam mê ăn ngủ và ưa đùa giỡn…
- Quá ngu si, tâm quá muội liệt; phỉ báng Bồ Tát tạng. (Bồ tát giới yết ma văn, Đại Tạng Tân Tu 24, tr 1006).

5. Hướng dẫn phát Bồ Đề Tâm:

Nếu giới tử muốn thọ Bồ Tát tịnh giới, thì trước hết phải phát khởi Bồ Đề Tâm.

Tâm Bồ Đề là tâm đại đạo, tâm ấy là tâm ở trên thì cầu mong đạo lý làm Phật, dưới thì phát khởi hạnh nguyện nhiếp hóa chúng sanh.

Cầu đạolàm Phật, nghĩa là Bồ tát phát khởi tâm không hạn lượng, thừa sự cúng dường ở nơi một Đức Phật, hai Đức Phậtcho đến trăm ngàn vạn Đức Phật, ấy là thừa sự cúng dường hết thảy chư Phật trong mười phương vô tận pháp giới, hư không giới, để mong cầu tất cả trí tuệ, thành tựu vô lượng trăm ngàn pháp môn. Do đó mà phát Bồ Đề Tâm.

Hạnh nguyện nhiếp hoá chúng sanh, nghĩa là Bồ tát phát tâm nhiếp hóa hết thảy chúng sanh, không có hạn lượng trong một thế giới, hai thế giớicho đến mười phương vô tận pháp giới, hư không giới. Do đó mà phát Bồ Đề Tâm.

Phát Bồ Đề Tâm đúng như vậy, hạnh nguyện đã thiết lập đúng như vậy, mới xứng danh là Bồ Tát.

- Pháp sư hỏi:

Nay, quý vị có khả năng phát khởi tâm Bồ Đề như vậy không?

- Giới tử đáp: Có khả năng phát khởi. (hỏi và đáp ba lần như vậy).

- Pháp sư khai thị tiếp:

Hỡi các giới tử! Có bao nhiêu công đức thiện căn của hàng Bồ Tát lúc mới phát tâm Bồ Đề, thời không thể hiểu hết ngằn mé. Vì sao? Vì hàng Bồ Tát không để dòng dõi của Như Lai bị đoạn mất mà phát tâm và do phát tâm mà thường được sự thương tưởng của tất cả chư Phật trong ba đời, và chính là cùng dự vào thể tính bình đẳng của cả hết thảy Chư Phật ba đời.

Cho nên, khi mới phát tâm, tâm ấy liền trở thành tâm của Bậc Chánh giác, và chính lúc đó hết thảy Như Lai đồng khen ngợi. Ngay lúc đó là trừ diệt được nỗi khổ của ác đạo; ngay lúc đó có khả năng làm các cõi Phật thanh tịnhduy trì được dòng dõi của Phật ở trong một thế giới, rồi sẽ thị hiện thành Phật.

- Pháp sư hỏi:

Quý vị có phải là cầu làm Bồ Tát không?

- Giới tử đáp:

Dạ phải.

Tâm Bồ Đề đã phát khởi chưa?

Dạ đã phát khởi. (Hỏi và đáp như vậy ba lần).

Pháp sư khai thị tiếp:

Hỡi quý vị giới tử hãy lắng nghe!

Nay, quý vị muốn tất cả tịnh giớihọc xứ Bồ Tát từ nơi tôi trao truyền lại, thì đó là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, và Nhiêu ích hữu tình giới.

Tất cả tịnh giớihọc xứ như vậy, hết thảy Bồ Tát vị lai sẽ viên mãn, Bồ Tát quá khứ đã viên mãn, hết thảy Bồ Tát hiện tại đã và đang viên mãn.

Đối với hết thảy tịnh giới và các học xứ, hết thảy Bồ Tát đã học, sẽ học và đang học.

- Pháp sư hỏi:

Quý vị có khả năng thọ trì không?

Đáp: Có khả năng thọ trì. (Hỏi và đáp như vậy ba lần).

6. Trao y:

Nếu là Sa di thọ Bồ Tát giới, thì pháp sư trao y cho họ đắp trước khi tiếp nhận giới.

- Pháp sư khai thị:

Hỡi các giới tử!

Y nầy là áo giáp nhẫn nhục, hết thảy Bồ Tát đều mặc để tu tập Lục độ Vạn hạnh, cứu độ quần sanh, viên thành chủng trí.

Tôi nay trao cho quý vị, quý vị hãy đội lên đỉnh đầu để thọ trì.

7. Trao bốn niềm tin bất hoại:

Hỡi các giới tử!

Quý vị phải thọ trì bốn niềm tin bất hoại, phải một lòng tín thọ và hãy nói theo tôi:

Con nguyện từ hôm nay cho đến tận biên cương vị lai, đem hết thân mạng về nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng và nương tựa Chánh pháp giới. (nói ba lần như vậy).

8. Hướng dẫn sám hối:

- Pháp sư khai thị:

Các giới tử đã nhận lãnh bốn niềm tin bất hoại rồi, bây giờ tiếp đến là phải sám hối tội nghiệp trong ba đời.

Nghĩa là từ vô thỉ cho đến ngày nay, do không biết Tam Bảo, không tin có quả báo Thiện ác, mà tạo ra tội lỗi vô giánmười nghiệp ác.

Hoặc tạo ra tội do phá tháp, phá chùa, thiêu đốt kinh tượng, hủy báng Tam Bảo, tạo ra vô lượng, vô biên tội nhất xiển đề như vậy, ngày nay chúng con đối trước mười phương Tam Bảo, chí thành phát lộ sám hối cầu mong Tam Bảo thương xót nguyện đều trừ diệt.

Nếu quý vị không có khả năng bộc bạch, tôi sẽ vì quý vị mà hướng dẫn, quý vị hãy nói theo tôi.

- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, kể từ quá khứ cho đến suốt tận biên cương vị lai, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.

- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, kể từ hiện tại cho đến suốt tận biên cương vị lai, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.

- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, từ thuở vị lai, cho đến ngằn mé của biên cương này, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.

Quý vị hãy chú tâm sám hối và đọc lên:

“Đệ tử sở tạo các ác nghiệp,
đều do vô thỉ tham sân si.
Từ thân miệng ý phát sinh ra,
Hết thảy chúng con xin sám hối”.
Nam Mô Hư Không Tạng Bồ Tát ma ha tát.

(đọc ba lần).

9. Hướng dẫn phát khởi đại nguyện:

- Pháp sư huấn thị:

Hỡi các giới tử!

Quý vị đã sám hối như vậy xong, hẳn nhiên ba nghiệp đã thanh tịnh, như bình sạch lưu ly, soi chiếu từ trong đến ngoài. Tiếp đến quý vị hãy quán chiếu pháp Tứ diệu đếphát khởi bốn Hoằng thệ nguyện.

Quán chiếu Khổ đế, nghĩa là ở nơi vô lượng quả báo thống khổ của hết thảy chúng sanh trong Lục đạo, Bồ Tát lấy đó, làm đối tượng quán chiếu mà nguyện nhiếp độ hết thảy chúng sanh, thoát khỏi những quả báo thống khổ ấy.

Do đó, Bồ tát phát nguyện rằng: “Chúng sanh không số lượng thề nguyện đều độ khắp”.

Quán chiếu Tập đế, nghĩa là tất cả chúng sanh đã huân tậptích lũy vô lượng tác nhân phiền não, vọng tưởng kể từ vô thỉ cho đến ngày nay, và vì do tác nhân này mà chúng sanh bị chiêu cảm vô lượng quả báo thống khổ, luân chuyển trong ba cõi không có kỳ hạn.

Bồ Tát lấy Tập đế, làm đối tượng quán chiếu mà nguyện nhiếp độ chúng sanh, khiến họ đoạn trừ mọi chướng nghiệp phiền não.

Do đó, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Phiền não không cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch”.

Quán chiếu Đạo đế, nghĩa là vì hết thảy chúng sanh do không biết Chánh nhân để tu tập, nhằm vượt khỏi lưu tục, nên bị luân chuyển trong lục đạo, tự mình không thể an lạc.

Do đó, Bồ Tát thiết lập vô lượng pháp môn, giáo hoá chúng sanh khiến họ tu học.

Bởi vậy, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học”.

Quán chiếu Diệt đế, chính là quán chiếu về Niết bàntrạng thái vắng diệt mọi khát ái, chấp ngã. Nghĩa là không có đạo nào tối thượng bằng Đạo Tịch Tịnh Niết bàn của Như Lai.

Do đó, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Phật đạo không gì hơn, thề nguyện đều viên thành”.

Bốn hoằng thệ nguyện như vậy là bao gồm hết thảy các nguyện. Nếu không căn cứ vào Bốn đế lý, mà phát khởi hạnh nguyện, thì nguyện và hạnh không thích ứng đạo lý.

Hỡi các giới tử!

Nếu có thể biết năm uẩn đều là không, khổ hay lạc đều là vô ngã, bản chất của chính nó là như như, thì hiển nhiên không có Khổ đế để xả, bản tính của hết thảy trần lao phiền não đều thanh tịnh, thì không có Tập đế để đoạn trừ. Nếu tà kiến, biên kiến đều là Chánh đạo, Trung đạo, thì không có Đạo đế để tu. Nếu sanh tửNiết bàn thì không có Diệt đế để có thể chứng đạt.

Công đức của sự phát tâm, lập hạnh thấu tình, đạt lý như vậy, chỉ có Đức Phật mới là bậc thấu triệt.

Còn ví như chưa minh triệt, thì dù có chí tâm xuất gia mà vẫn còn rơi vào thiên chấp pháp nhỏ, không tương ứng với Bồ đề tâm, thì trọn không thể chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ đề.

Do đó, hỡi các giới tử! Các người phải phát tâm, thiết lập Bốn hoằng thệ nguyện.

Quý vị hãy tha thiết chân thật nói lên!

“Chúng sanh không số lượng, thề nguyện đều độ khắp.
Phiền não không cùng tận, thề nguyện đều dứt sạch.
Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học.
Phật đạo không gì hơn, thề nguyện đều viên thành”.
Nam Mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát ma ha tát. (Ba lần).

10. Tác pháp yết ma:

- Pháp sư huấn thị:

Hỡi các giới tử!

Nay, quý vị đã phát thệ nguyện rồi, tôi sẽ vì quý vị mà khởi thỉnh Tam Bảo chứng minh thọ giới, quý vị hãy nhất tâm khéo nghe khởi ý trong lắng suy nghĩ.

Quý vị phải biết rằng, lần tác bạch thứ nhất xong, thì giới pháp nhiệm mầu tuyệt vời, ở trong mười phương thế giới, do năng lực tác động của tâm mà đều chấn động.

Lần tác bạch thứ hai xong, thì giới pháp mầu nhiệm tuyệt vời ở trong mười phương thế giới, quần tụ như bảo cái, như mây lành ngưng tụ lại trên cửa ngõ chân lông ở trên đỉnh đầu của quý vị.

Và lần tác bạch thứ ba xong, thì giới pháp mầu nhiệm tuyệt vời ở trong mười phương thế giới đã tụ lại nơi cửa ngõ chân lông trên đỉnh đầu quý vị chảy vào thân tâm, làm sung mãn chánh báo của quý vị cho đến tận biên cương vị lai, vĩnh viễn quý vị đã làm dòng dõi của Phật.

Đây là giới thể vô tác, là pháp của đạo vô lậu, chúng cảm thành là do thiện tâm thù thắng của quý vị. Do đó, quý vị phải chí thànhlãnh thọ.

- Tác pháp:

Pháp sư quỳ trước Tam Bảo tác bạch:

Ngưỡng bạch chư Phật, Bồ Tát trong hết thảy thế giới, khắp hết mười phương vô biên, không có ngằn mé.

Nay trong đây, hiện có các giới tử cầu thọ Bồ Tát giới tên là …

Nay, quý vị nương theo con… để cầu thọ Bồ Tát giới, cho nên họ đã ba lần nói lên lời cầu thọ Bồ Tát giới.

Nay, con sẽ vì họ chứng nhận để tác pháp.

Cúi xin hết thảy chư Phật, Bồ Tát trong các thế giới khắp cả mười phương, vô biên không có ngằn mé, và các Bậc Hiền Thánh chân thật đệ nhất ở khắp hết thảy không gian, thời gian, dù các Ngài hiện có mặt hay không có mặt, và hết thảy các loài hữu tình đều đã có giác ngộ hiện tại, xin các Ngài hãy đến đến đây, vì những người cầu thọ Bồ Tát nầy, tên là… để cùng làm vị chứng minh trong lúc tác pháp. (Tác bạch ba lần).

- Pháp sư huấn thị:

Hỡi các giới tử!

Từ hồi nãy đến giờ, do đối trước Chư Phật, Bồ Tát đã ba lần tác bạch yết ma xong.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ở trong Thánh chúng và nói lên lời rằng: “Hỡi Đại chúng! Ở nước Việt Nam nơi thế giới Ta Bà này, có Bồ Tát tên là… nương theo trí giả tên là… cầu thọ Bồ Tát giới.

Họ không có thầy, vì thương xót những người đang ở đây mà tôi đang và sẽ làm thầy của họ”.

Bây giờ, các Đức Như Lai, trong mười phương đối với quý vị, các Ngài đều nghĩ là con, các Bậc đại địa Bồ Tát đối với quý vị, các Ngài đều nghĩ là em và các Ngài đều thương xótnâng đỡ, khiến quý vị từ khi thọ giới xong, công đức tăng trưởng, thiện căn không mất, chánh niệm an trú tinh chuyên, kiên trì không huỷ phạm, giới thể đầy đủ cho đến khi chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, không có thối chuyển.

Quý vị sẽ thành tựu thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hết thảy diệu dụng của thần thông, các loại trí tuệ, vô lượng thảy đều tu họcthành tựu một cách đầy đủ.

Quý vị rồi sẽ vân du qua mười phương cõi, hóa độ vô lượng chúng sanh tâm không hề mỏi mệt.

11. Trao mười giới tướng:

- Pháp sư huấn thị:

Hỡi các giới tử hãy lắng nghe!

Bồ Tátmười giới ở trong kho tàng vô tận, nếu sau khi đã thọ giới mà phạm, thì không còn là Bồ Tát, mất bốn mươi hai pháp của Hiền Thánh.

Vậy, quý vị hãy vâng lãnh mười giới tướng.

1- Hỡi các giới tử! Kể từ thân này cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý giết hại.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

2- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân phật, suốt khoảng thời gian đó không được cố ý trộm cắp.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

3- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý dâm dục.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

4- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý nói dối.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

5- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật suốt trong khoảng thời gian đó không được cố ý nấu rượu.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

6- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được nói lên lầm lỗi của hàng xuất giatại gia.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

7- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được có ý khen mình mà hủy báng người.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

8- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được cố ý tham tiếc.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

9- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý sân hận.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: - Dạ được.

10- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý phỉ báng Tam Bảo.

Quý vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp:-Dạ được.

12. Huấn thị sau cùng và hồi hướng:

Hỡi các giới tử!

Quý vị đã thọ mười giới vô tận, hiển nhiên quý vị sẽ vượt hẳn bốn thứ ma, siêu xuất những khổ đau trong ba cõi. Và đối với quý vị từ đời này qua đời khác, giới pháp này không thể mất, nó thường tồn tại với quý vị, cho đến khi quý vị thành Phật.

Quý vị phải biết rằng! Lãnh thọ giới pháp của Bồ Tát là như vậy, còn so với tất cả các giới đã lãnh thọ trước đó, thì Bồ Tát tịnh giớitối thắng, là tối thượng là kho tàng công đức vĩ đại, vô lượng, vô biên, là tối thượng đệ nhất, là chỗ thân thích của tâm ý tối thắng.

Ví dụ, tất cả Biệt giải thoát luật nghi, phát khởi năng lực rộng lớn để trừ diệt tất cả hành vi ác đối với hất thảy hữu tình, thì không bằng một phần trong năm phần, cho đến không bằng một phần trong toán số thí dụ so với Bồ Tát giới luật nghi.

Hỡi các giới tử!

Quý vị đã thọ Bồ Tát giới, thì nay mỗi nửa tháng, phải tụng Bồ Tát giới, đúng như sự quy định của luật không được bỏ quên.

Do đó, đức Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh Phạm Võng rằng: “Nếu người thọ trì Bồ Tát giới không tụng giới này, là không phải Bồ Tát, là không phải dòng dõi của Phật”.

Lại nữa, không học Phật giới là bị tội. Do đó, tôi nay phó chúc cho quý vị với tâm niệm tốt đẹp như vậy, để quý vị hộ trì và sanh lòng kính trọng sâu xa, không được khinh thường.

Vậy, quý vị phải y lời giáo huấnphụng hành.

Hỡi quý vị giới tử!

Nay, quý vị hãy đem công đức thọ giới này hướng về cõi phương Tây Tịnh Độ, như Ngài Thiện Tài Đồng Tử đã từng học khắp tất cả các bậc có hiểu biếtthành tựu tất cả các pháp môn, về sau lại gặp Bồ Tát Phổ Hiền giáo huấn, phát khởi mười hạnh nguyện về phương Tây Tịnh Độ thân cận đức A Di Đàviên thành đạo quả.

Vì sao? Vì hết thảy Bồ Tát phải qua vô lượng, vô số kiếp tu tập Lục độ vạn hạnh, kỳ hạn sau cùng là thành tựu pháp thân của Phật A Di Đàcõi Tịnh Độ. Và chính đó cũng là Phật pháp thân của Phật mười phương, đã là pháp thân thì luôn luôn an trú ở cõi Tịch Quang Tịnh Độ.

Tuy nhiên, pháp thân đó không ngoài tự tâm của quý vị, chính tâm của quý vị là tự tánh của tịnh độ và cũng là Phật A Di Đà. Hồi hướng tự tánh tịnh độ như vậy, mới là sự hồi hướng chân thật.

Sau phần huấn thị này, thì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà và các Thánh chúng, rồi hồi hướng theo nghi thức thường của thiền môn.

Như vậy, cách thọ và đắc Bồ Tát giới từ vị Pháp sư đã hoàn tất. (Cách thọ và đắc Bồ tát giới nầy tham khảo ở các kinh như: -Bồ tát nội giới kinh, Đại chính 24, tr1047; Ưu bà tắt giới kinh, Đại chính 24, tr 1047; Bồ tát giới yết ma văn, Đại chính 24, tr1106; Đại bát nhã kinh, Đại chính 7, tr1023; và khoa nghi đầy đủ nhất là ở Hoằng giới đại học chi thơ, tạng bản chùa Viên Thông-Huế, khắc Thành Thái thứ 7).

Tự thọ:

Nghĩa là sau khi Đức Phật và các vị Bồ Tát đã diệt độ, khoảng trong một ngàn dặm hoàn toàn không có pháp sư, người cầu thọ Bồ Tát giới muốn đắc giới, thì tự mình quỳ xuống trước hình tượng của chư Phật hoặc Bồ Tát, chấp tay cung kính phát thệ để thọ giới.

Vị đó quỳ xuống chấp tay bạch như thế này:

“Ngưỡng bạch thập phương Chư Phật và Bồ Tát, con tên là… pháp danh là…

Nay, chúng con ở nơi thập phương của chư Phật và Bồ Tát, thề nguyện thọ trì tất cả học xứ của Bồ Tát, thệ nguyện thọ tất cả tịnh giới của Bồ Tát. Nghĩa là thọ đủ Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giớiNhiêu ích hữu tình giới.

Tất cả tịnh giớihọc xứ như vậy, hết thảy Bồ Tát trong quá khứ đã viên mãn, hết thảy các Bồ Tát vị lai sẽ viên mãn, hết thảy các vị Bồ tát hiện tại trong mười phương đã và đang viên mãn.

Tất cả tịnh giớihọc xứ ấy, hết thảy Bồ tát quá khứ đã học, hết thảy Bồ Tát vị lai sẽ học, hết thảy Bồ Tát hiện tại đã và đang học.

Vị cầu thọ giới Bồ tát giới phải tác bạch ba lần như vậy. (Theo Bồ tát Anh lạc bản nghiệp kinh Đại chính 24, tr 1020; và Bồ tát yết ma văn, Đại chính 24, tr 1106; Du già sư địa luận 141, Đại chính 30, tr 521; Bồ tát địa trì 5, Đại chính 30, tr 917).

Ở phần tự thọ này, thì Kinh Phạm VõngPhạm Võng thuật ký dạy rằng: “Nếu là tự thọ thì trước hết là phải sám hối, lấy giới hạn chủ yếu là thấy được tướng hảo của chư Phật hoặc Bồ Tát, nếu không thấy được tướng hảo của các Ngài thì không thể đắc giới”.

Kinh còn nói: “Sau khi đức Phật diệt độ, những người có tâm tốt muốn thọ Bồ Tát giới, thì ở trước tượng của đức Phật tự phát nguyện để thọ giới.

Phải sám hối bảy ngày trước hình tượng của Đức Phật, hễ thấy được tướng hảo của Ngài thì đắc giới. Nếu trong bảy ngày mà không thấy được tướng hảo của Ngài, thì phải sám hối tiếp, phát nguyện từ một tuần, hai tuần, ba tuần cho đến một năm, chủ yếu là phải nhìn thấy rõ tướng hảo của Phật, thì mới ở trước hình tượng của Đức Phật để tự thọ.

Nếu trong lúc sám hối mà không thấy rõ tướng hảo của đức PhậtBồ Tát, thì vấn đề tự thọ là không thể đắc giới” (Phạm võng kinh, Đại chính 24, tr 1006; Phạm võng thuật ký, Đại chính 85, tr 728).

Như vậy, thọ và đắc giới có ba cách như đã nói ở trên, thì cách thọ và đắc giới từ chư Phật và Bồ Tát một cách trực tiếp là cách thọ và đắc giới thù thắng, rất tối thượng.

Cách thọ và đắc giới qua trung gian Vị Pháp sưđắc giới bậc trung, và cách tự thọ trước hình tượng của đức Phật hoặc Bồ Tát là cách đắc thọ bậc hạ.

Tuy nhiên, ngày nay thọ Bồ Tát giới qua trung gian vị Pháp sư là cách thọ và đắc giới phổ biến và rất dễ thành tựu giới thể so với hai cách thọ kia.

Sự tác thành giới thể cho một người cầu thọ Bồ Tát giới vô cùng khó khăn, nhưng giới thể có thể bị rơi mất qua hai trường hợp sau đây:

Trường hợp một: Là thọ giả phạm một cách nghiêm trọng vào các giới tướng về Ba La Di của Bồ Tát.

Trường hợp nầy, đức Phật đã nói trong Kinh Phạm võng như sau:

“Hỡi những người học đạo thông minh! Mười ba la đề mộc xoa như vậy. Cần phải học tập, không nên phạm vào mảy may như đầu hạt bụi, chứ đừng nói phạm đầy đủ cả mười.

Nếu ai có phạm, thì thân hiện tại, Bồ đề tâm không thể phát triển được. Người đó cũng mất phẩm vị Quốc Vương, Chuyển Luân Vương, Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, cũng mất luôn các phẩm vị thập Phát Thú, Thập Trưởng Dưỡng, thập Kim Cang, Thập địaquả vị mầu nhiệm của Phật tính thường trú, hết thảy đều ẩn mất, sa vào trong ba đường ác, hai kiếp, ba kiếp không nghe được từ ngữ cha mẹ hay danh hiệu Phật, Pháp, Tăng. Vì lẽ đó mà mỗi một không nên phạm”. (Phạm võng kinh, Đại chính 24, tr 1005).

Tường hợp hai: Là hành giả xả bỏ đại nguyện đối với đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác. Nói cách khác, vị ấy đã thối mất Bồ Đề Tâm và đã tự mình tuyên bố xả bỏ.

Một hành giả vừa thọ Tỷ khưu và cả Bồ Tát giới, nếu xả bỏ Bồ Tát giới, thì có ảnh hưởng gì đến Tỷ Khưu giới không?

Nếu do thối thất Bồ Đề Tâm mà xả bỏ Bồ Tát giới, thì chỉ mất Bồ Tát giới mà không mất Tỷ khưu giới.

Nếu phạm vào căn bản giới của Tỳ khưu, thì không những mất giới Tỷ khưu mà giới Bồ tát cũng mất luôn.

Nếu phạm vào một trong sáu trọng giới ở phần sau của Bồ Tát Giới Phạm Võng, thì chỉ mất giới Bồ tát mà không mất giới Tỷ khưu.

Nếu khi thân hoại mạng chung, thì giới tỷ khưu tự xả mà Bồ Tát giới không mất, vì Bồ Tát giới tồn tại theo tâm, chứ không phải tồn tại theo thân.

Các trường hợp vừa thọ giới Tỷ khưu ni, Thức xoa, Sa di, Cận sự, Cận trú vừa thọ giới Bồ Tát thì sự đắc, thất chuẩn theo sự giải thích ở trên mà nghiệm biết. (Du già sư địa luận 40, Đại chính 30, tr 515; Phạm võng kinh thuật ký, Đại chính 85, tr 730).

Đối với Bồ Tát giới, sự thối thất Bồ Đề tâm là quan trọng hơn cả phạm vào Ba La Di. Vì phạm vào Ba La di chỉ làm cho Bồ Đề Tâm bị chướng ngại, không phát triển được liên tục ngay trong đời hiện tại, nhưng không bị rơi vào thiên chấp tà kiến.

Còn thối thất Bồ Đề Tâm nguyện, thì vĩnh viễn không còn tu tập để chứng đắc đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Ấy mới biết Bồ Đề Tâm nguyện, đối với Bồ tát giớihệ trọng đến mức nào? Hệ trọng đến nỗi Kinh Đại Bát Nhã đã nói về điều này một cách trịnh trọng như sau:

“Nếu các vị Bồ Tát xuất gia thọ trì tịnh giới mà không hồi hướng đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, thì các vị Bồ Tát kia chắc chắn không thành tựu Bồ Tát tịnh giới.

Như vậy, họ chỉ là hư danh, hoàn toàn không có nghĩa lý chân thật.

Nên biết, hạng ấy không phải là Bồ tát”. (Đại bát nhã kinh 584, Đại chính 7, tr 1020).

Vậy, những ai thọ và đắc Bồ Tát giới, thì phải giữ Bồ đề Tâm nguyện như giữ con mắt, như giữ hơi thở, như giữ tủy não của mình.

T.T.H.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33129)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6518)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12157)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12779)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34710)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9827)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10722)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10490)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10695)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10443)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16230)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21805)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7099)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12711)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12759)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16204)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16506)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13836)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16558)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12095)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13785)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11728)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16278)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16185)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12059)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15640)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14011)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11995)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12605)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14972)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13105)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14508)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20653)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10923)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20667)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14331)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20339)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17618)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31842)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12002)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant