Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nghi Lạy 108 Lạy Tam Bảo - Nghĩa

19 Tháng Tư 201400:00(Xem: 24897)
Nghi Lạy 108 Lạy Tam Bảo - Nghĩa


NGHI LẠY TAM BẢO


Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ biên sọan (Hán văn)

Phật lịch 2518

Cư sĩ Hạnh Cơ chuyển dịch sang Việt ngữ

Phật lịch 2557 (2014)

 

 

PHẦN MỘT

KHAI KINH (tùy nghi)

 

PHẦN HAI

XƯỚNG LẠY

 

1. XƯỚNG: Đối trước chư Phật cả ba đời,

Trong các thế giới khắp mười phương,

Con đem thân miệng ý thanh tịnh,

Kính lễ cùng khắp không bỏ sót;

Nhờ sức oai thần hạnh Phổ Hiền,

Hiện thân khắp trước các Như Lai,

Một thân lại hiện vô số thân,

Mỗi thân kính lễ vô số Phật.

Vô số Phật trong một vi trần,

Đều ngự giữa chúng hội Bồ-tát;

Cùng khắp pháp giới cũng như vậy,

Lòng tin chư Phật đều đầy đủ.

 

HÒA: Một lòng kính lạy Ba Ngôi Báu Phật Pháp Tăng thường trú trong khắp mười phương pháp giới, trải suốt ba đời quá khứ, hiện tạivị lai. (1 lạy)

 

2. XƯỚNG: Chư Phật khắp mười phương,

Đấng Đại Thánh Thế Tôn

Thấy tột cùng thật tướng

Vạn phápthế gian,

Bậc Thầy của trời người.

Cho nên con hôm nay

Xin quay về nương tựa.

 

 HÒA: Đệ tử chúng con qui y Phật, đấng phước đức trí tuệ vẹn tòan. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y trời thần quỉ vật. (1 lạy)

 

3. XƯỚNG: Tất cả Pháp thường trú,

 Lời Phật dạy thanh tịnh,

 Có công năng chữa lành

 Các bệnh khổ thân tâm.

 Cho nên con hôm nay

 Xin quay về nương tựa.

 

 HÒA: Đệ tử chúng con qui y Pháp, con đường xa lìa tham dục, đưa đến cuộc sống thanh tịnh. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y ngọai đạo tà giáo. (1 lạy)

 

4. XƯỚNG: Chư vị Đại Bồ Tát

 Không an hưởng niết bàn

 Của bốn quả Thanh Văn,

 Mà phát tâm cứu độ

 Khắp chúng sinh đau khổ.

 Cho nên con hôm nay

 Xin quay về nương tựa.

 HÒA: Đệ tử chúng con qui y Tăng, bậc tôn quí giữa mọi người. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y tà sư bạn xấu. (1 lạy)

 

5. XƯỚNG: Thời Phật đang tại thế

 Chúng con còn trầm luân,

 Nay được sinh làm người

 Thì Phật đã diệt độ!

 Đáng thương cho chúng con

 Nghiệp dầy mà phước mỏng,

 Nên xin đem một niệm

Chí thành cầu sám hối.

 

 HÒA: Do tham sân si từ vô thỉ,

Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,

Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)

 

6. XƯỚNG: Đệ tử chúng con từ đời vô thỉ,

Xa rời chân tánh, trôi giạt sông mê,

Xuôi theo sinh tử để nổi chìm,

Đuổi bám sắc thanh mà đắm nhiễm;

Mười triền mười sử, chứa thành hữu lậu nghiệp nhân;

Sáu căn sáu trần, gây nên vô biên tội cấu;

Mê man bể khổ, lún mãi đường tà;

Chấp chặt ngã nhân, bỏ ngay làm quấy;

Bao đời nghiệp chướng, chồng chất lỗi lầm.

Ngưỡng mong trên Tam Bảo từ bi,

Chúng con tâm thành xin sám hối.

 

 HÒA: Do tham sân si từ vô thỉ,

Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,

Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)

 

7. XƯỚNG: Tội từ tâm khởi đem tâm sám,

 Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu,

Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không.

Như thế thật là chân sám hối.

 

 HÒA: Do tham sân si từ vô thỉ,

Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,

Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)

 

8. XƯỚNG: Con nguyện tu hành đạo bồ đề,

 Dù sinh nơi nào cũng nhớ lại

 Thường được xuất gia tu tịnh giới,

 Không thiếu, không sót, không hủy phạm.

 

 Hòa: Nay con phát nguyện thọ trì ba nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ nhất là “nhiếp luật nghi”; con nguyện từ nay cho đến vô tận đời vị lai: không làm các việc ác. (1 lạy)

 

9. XƯỚNG: Dùng tâm không chấp tướng “ngã”, không chấp tướng “nhân”, không chấp tướng “chúng sinh”, không chấp tướng “thọ mạng”, để tu tập tất cả pháp lành, chắc chắn thành tựu quả vị Bồ Đề Vô Thượng.

 

 HÒA: Nay con phát nguyện thọ trì ba nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ hai là “nhiếp thiện pháp”; con nguyện từ nay cho đến vô tận đời vị lai: luôn tinh tấn làm các việc lành. (1 lạy)

 

10. XƯỚNG: Chúng sinh không số lượng, thệ nguyện đều độ khắp.

 Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.

 Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học.

 Quả Phật không gì hơn, thệ nguyện được viên thành.

 

 HÒA: Nay con phát nguyện thọ trì ba nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ Ba là “nhiêu ích hữu tình”; con nguyện từ nay cho đến vô tận đời vị lai: cứu độ tất cả chúng sinh. (1 lạy)

 

11. XƯỚNG: Tu tập các pháp lành mà bỏ mất tâm bồ đề, đó chính là ma nghiệp.

 

 HÒA: Nay con phát tâm không vì tự cầu phước báo nhân thiên, Thanh-văn, Duyên-giác, cho đến các bậc Bồ-tát quyền thừa; chỉ y theo tối thượng thừaphát tâm bồ đề. Nguyện cùng chúng sinh trong khắp pháp giới, một thời đồng chứng đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. (1 lạy)

 

12. XƯỚNG: Cúi đầu dưới đài sen,

 Qui y đấng Đại Giác,

 Mười hiệu chứng Bồ Đề,

 Một vầng trăng tròn đầy.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Thế Tôn với đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, và Phật. (1 lạy)

 

13. XƯỚNG: Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng,

 Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

 Đạo tràng của chúng con nơi đây

Giống như lưới ngọc trời Đế Thích,

Chư Phật mười phương đều ảnh hiện,

Thân con ảnh hiện trước chư Phật,

Cúi đầu thành tâm xin đảnh lễ.

 

HÒA: Một lòng kính lạy tất cả chư Phật và vô lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp Trang-nghiêm đời quá khứ. (1 lạy)

 

14. XƯỚNG: Đại từ đại bi thương chúng sinh,

 Đại hỉ đại xả cứu muôn lòai,

 Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm,

 Chúng con chí thành xin đảnh lễ.

 

Hòa: Một lòng kính lạy tất cả chư Phật và vô lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp Hiền đời hiện tại. (1 lạy)

 

15. XƯỚNG: Xem thế giới như hư không,

 Như hoa sen không dính nước,

 Tâm thanh tịnh còn hơn thế,

 Kính lạy đức Vô Thượng Tôn.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy tất cả chư Phật và vô lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp Tinh-tú đời vị lai. (1 lạy)

 

16. XƯỚNG: Phật dạy: Hạnh nhẫn nhục

Là pháp tu thứ nhất,

Pháp vô vi tột cùng.

Cho nên người xuất gia

Gây khổ não cho người,

Thì không gọi “sa môn”.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Tì Bà Thi. (1 lạy)

 

17. XƯỚNG: Ví như người mắt sáng,

 Tránh được đường hiểm nguy,

 Người có trí trên đời,

 Vĩnh viễn không làm ác.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Thi Khí. (1 lạy)

 

18. XƯỚNG: Không ghét, không hủy báng,

 Thường hành trì giới luật,

Ăn uống nên biết đủ,

Lấy nhàn tịnh làm vui,

Tâm định tĩnh, tinh tấn,

Đó là lời Phật dạy.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Tì Xá Phù. (1 lạy)

 

19. XƯỚNG: Như ong hút nhụy hoa,

 Chỉ lấy vị bay đi,

 Không làm mất sắc hương,

 Tì kheo vào làng xóm,

 Không bận tâm chuyện người:

 Nên làm, không nên làm.

 Chỉ xét việc mình làm:

 Chính đáng, không chính đáng.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Câu Lưu Tôn. (1 lạy)

 

20. XƯỚNG: Tâm ý không buông lung,

 Siêng tu học Chánh Pháp,

 Trừ bỏ hết ái nhiễm,

 Tâm địnhniết bàn.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni. (1 lạy)

 

21. XƯỚNG: Không làm các điều ác,

 Siêng làm các điều lành,

 Giữ tâm ý thanh tịnh,

Đó là lời Phật dạy.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Ca Diếp. (1 lạy)

 

22. XƯỚNG: Thân không làm điều ác,

Khéo giữ gìn lời nói,

 Giữ tâm ý thanh tịnh,

 Cả ba nghiệp trong sạch.

 Tu tập được như vậy,

 Đại Tiên trong lòai người.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. (1 lạy)

 

23. XƯỚNG: Nơi thể tánh chân như,

 Pháp hữu vi không thật,

 Duyên sinh, nên như huyễn;

 Vô vi không sinh diệt,

 Cũng không phải thật pháp,

 Như hoa đốm hư không.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức PhậtLô Giá Na, Pháp Thân thanh tịnh nhiệm mầu, cõi Thường-tịch-quang. (1 lạy)

 

24. XƯỚNG: Mặt Phật như trăng rằm,

 Như ánh sáng mặt trời,

 Chiếu soi khắp mười phương,

 Đủ từ bi hỉ xả.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Lô Giá Na, Báo Thân viên mãn, cõi Thật-báo trang-nghiêm. (1 lạy)

 

25. XƯỚNG: Tâm Phật khó nghĩ bàn,

 Trí và thân cũng vậy,

 Vì hóa độ chúng sinh,

 Rộng mở các phương tiện.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Hóa Thân vô số lượng, cõi Phương-tiện thánh-cư. (1 lạy)

 

26. XƯỚNG: Biết nhân, pháp vô ngã,

Phiền não, sở tri chướng

Thường thanh tịnh vô tướng,

Nên khởi tâm đại bi.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, tùy lọai ứng thân hóa độ, cõi Phàm-thánh đồng-cư. (1 lạy)

 

27. XƯỚNG: Khắp trời đất không ai bằng Phật,

 Mười phương thế giới cũng không bằng,

 Tất cả hiện hữu trong thế gian,

 Tất cả đều không sánh bằng Phật.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, đấng Thế Tôn đại từ bi, đầy đủ muôn công đức, đấng Giáo Chủ cõi Ta-bà, đang ngồi đạo tràng hóa độ chúng sinh. (1 lạy)

 

28. XƯỚNG: Trăm kiếp tu nhân đã tròn đầy,

 Quả ba a-tăng-kì đã mãn,

 Trở thành bậc Nhất Sinh Bổ Xứ,

 Hiện trú tại cung trời Đâu-suất.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Di Lặc, sẽ hạ sinh làm Giáo chủ pháp hội Long-hoa. (1 lạy)

 

29. XƯỚNG: Thân Phật thanh tịnh như lưu li,

 Mặt Phật sáng ngời như trăng rằm,

 Phật ở thế gian thường cứu khổ,

 Tâm Phật không đâu không từ bi.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy Đức Phật Dược Sư Lưu Li Quang, nơi thế giới Tịnh-lưu-li ở phương Đông, gia hộ chúng sinh tiêu trừ tai nạn, thọ mạng lâu dài. (1 lạy)

 

30. XƯỚNG: Không có gì gọi là niết bàn.

 Không hề có niết bàn Phật chứng,

 Cũng không có Phật chứng niết bàn.

 Xa lìa cả năng giác, sở giác,

 Dứt bặt hai ý niệm có, không.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đa Bảo Như Lai, thành Phật từ thời quá khứ xa xôi. (1 lạy)

 

31. XƯỚNG: Trong cảnh giới tĩnh lặng,

 Ý niệm “sinh” không còn,

 Không có gì dính bám,

Không đời này, đời sau.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Bảo Thắng Như Lai. (1 lạy)

 

32. XƯỚNG: Sắc thân Phật nhiệm mầu,

 Thế gian không sánh bằng,

 Không đủ lời xưng tán,

 Cho nên con đảnh lễ.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Diệu Sắc Thân Như Lai. (1 lạy)

 

33. XƯỚNG: Năm uẩn đều không, dứt nghiệp trần,

 Tùy duyên ứng hiện trăm ngàn thân.

 Trong mộng thấy mộng, chồng chất mộng,

 Ngòai thân không thân, chính thật thân.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Quảng Bác Thân Như Lai. (1 lạy)

 

34. XƯỚNG: Sắc tướng màu hòang kim,

 Tròn đầy như trăng rằm,

 Bậc chí tôn ba cõi,

 Hàng phục mọi ma chướng,

 Trời người đều qui y.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Li Bố Úy Như Lai. (1 lạy)

 

35. XƯỚNG: Tín là mẹ công đức,

 Nuôi lớn các căn lành,

 Thóat khỏi dòng sinh tử,

 Chứng nhập đại niết bàn.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Cam Lồ Vương Như Lai. (1 lạy)

 

36. XƯỚNG: Cúi đầu kính lạy

 Đấng Đại Đạo Sư,

 Ở cõi Cực-lạc,

 Tiếp dẫn chúng sinh.

 Con nay nhất tâm

Phát nguyện vãng sinh.

Xin đức Từ Bi

Xót thương tiếp độ.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức A Di Đà Như Lai. (1 lạy)

 

37. XƯỚNG: Phật A Di Đà thân sắc vàng,

Tướng tốt chói sáng không ai bằng,

Lông trắng giữa chặng mày mềm mại,

Uốn lượn dài hơn năm Tu-di,

Mắt xanh biếc trong ngần bốn biển.

Trong hào quang vô số Hóa Phật,

Hóa Bồ Tát cũng nhiều vô biên.

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh,

Chín phẩm hoa sen lên bờ giải thoát.

Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

38. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

39. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

40. XƯỚNG: Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

41. XƯỚNG: Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

42. XƯỚNG: Đại nguyện thứ sáu: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thiên nhãn thông, thấy suốt vô lượng Phật độ khắp mười phương.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

43. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bảy: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thiên nhĩ thông, nghe được pháp âm của chư Phật khắp mười phương.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

44. XƯỚNG: Đại nguyện thứ tám: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có tha tâm thông, biết được tâm niệm của khắp cả chúng sinh.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

45. XƯỚNG: Đại nguyện thứ chín: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thần túc thông, có thể đi đến khắp các Phật độ trong mười phương một cách vô ngại.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

46. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không còn khởi niệm tham ái đối với thân sau.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

47. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười một: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc thường xuyên sống trong chánh định, cho đến khi chứng quả tịch diệt.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

48. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười hai: Ánh sáng của Phật A Di Đà sáng soi vô lượng, chiếu khắp mười phương Phật độ không bị chướng ngại.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

49. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười ba: Thọ mạng của đức Phật A Di Đà dài lâu vô lượng, làm lợi ích cho chúng sinh vô tận.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

50. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười bốn: Chúng Thanh-văn ở cõi Cực-lạc nhiều vô số.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

51. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười lăm: Thọ mạng của chúng sinh ở cõi Cực-lạc, ngọai trừ nguyện lực riêng, đều dài lâu vô lượng.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

52. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười sáu: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không nghe một lời bất thiện.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

53. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười bảy: Chư Phật khắp mười phương đều xưng tán danh hiệu “A Di Đà”.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

54. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười tám: Tất cả chúng sinh trong mười phương, hết lòng tin tưởng, muốn vãng sinh về cõi Cực-lạc, chí thành niệm 10 niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chắc chắn sẽ được vãng sinh.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

55. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười chín: Chúng sinh trong mười phương phát tâm bồ đề, tu các công đức, thành tâm phát nguyện vãng sinh về cõi Cực-lạc, đến phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng Thánh Chúng sẽ hiện ngay trước mặt để tiếp dẫn.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

56. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi: Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, nghĩ nhớ đến Ngài, chí thành đem mọi công đức hồi hướng nguyện sinh về cõi Cực-lạc, chắc chắn sẽ được tọai nguyện.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

57. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi mốt: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều đầy đủ 32 tướng tốt.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

58. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi hai: Chư vị Bồ-tát ở khắp các quốc độ trong mười phương, sau khi sinh về cõi Cực-lạc, ngọai trừ có bản nguyện giáo hóa riêng, tất cả đều đạt đến địa vị “Nhất sinh bổ xứ”.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

59. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi ba: Chư Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều nương Phật lực, chỉ trong khoảng bữa ăn có thể đến cúng dường chư Phật ở các Phật độ trong khắp mười phương.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

60. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi bốn: Chư Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, trong khi cúng dường chư Phật, muốn có bao nhiêu vật phẩm để cúng dường cũng đều có đầy đủ như ý.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

61. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi lăm: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có khả năng diễn nói nhất thiết trí.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

62. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi sáu: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có thân cứng chắc như kim cương, mạnh mẽ như thần Na La Diên.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

63. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi bảy: Tất cả chúng sinhvạn vật ở cõi Cực-lạc đều nghiêm tịnh vi diệu, hình sắc đặc thù, dù người có thiên nhãn thông cũng không biết rõ ràng danh số.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

64. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi tám: Chư vị Bồ-tát cho đến những người chỉ có chút ít công đức ở cõi Cực-lạc đều có khả năng thấy biết sự cao rộng và sắc sáng vô lượng của cây đạo tràng.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

65. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi chín: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều thọ trì phúng tụng kinh pháp mà được trí tuệ biện tài.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

66. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có trí tuệ biện tài vô hạn lượng.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

67. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi mốt: Đất đai ở cõi Cực-lạc trong sạch như gương, có thể soi thấy các Phật độmười phương.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

68. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi hai: Vạn vật ở cõi Cực-lạc đều do vô lượng châu báu và trăm ngàn thứ mùi hương vi diệu làm thành, khiến cho người nghe mùi hương đều tu Phật hạnh.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

69. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi ba: Ánh sáng của đức Phật A Di Đà chiếu soi khắp các thế giới trong mười phương, các chúng sinh chạm được ánh sáng ấy đều cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

70. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi bốn: Chúng sinh khắp thế giới mười phương nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà đều chứng được vô sinh pháp nhẫn và các pháp môn tổng trì sâu xa.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

71. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi lăm: Những người nữ trong mười phương thế giới, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà liền phát tâm bồ đề, thì sau khi mạng chung sẽ không trở lại thọ thân nữ nữa.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

72. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi sáu: Chư Bồ-tát ở mười phương thế giới, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ luôn tu phạm hạnh cho đến khi thành Phật.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

73. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi bảy: Hàng trời người trong khắp mười phương thế giới, khi nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền vui mừng tin tưởng, kính lễtu tập hạnh Bồ-tát, thì sẽ được tất cả trời người kính trọng.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

74. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi tám: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc muốn có y phục, ẩm thực, thì liền có như ý.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

75. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi chín: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều hưởng được niềm vui giống như các vị tì kheo đã hoàn toàn dứt trừ hết lậu hoặc.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

76. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, nếu muốn thấy vô lượng Phật độ nghiêm tịnh trong khắp mười phương, cứ nhìn vào cây báu thì liền thấy rõ ràng như thấy mặt mình trong gương.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

77. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi mốt: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, thì được các căn đầy đủ, không bị khiếm khuyết, cho đến khi thành Phật.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

78. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi hai: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền được an trú nơi chánh định thanh tịnh giải thoát, trong khoảng một niệm có thể cúng dường vô lượng chư Phật mà không bị mất chánh định.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

79. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi ba: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ được sinh vào gia đình tôn quí.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

80. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi bốn: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền hoan hỉ tu hạnh Bồ-tát, cội gốc công đức đầy đủ.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

81. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi lăm: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền được an trú trong định “phổ đẳng” (thường thấy chư Phật đồng hiện tiền), cho đến khi thành Phật.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

82. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi sáu: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều tùy nguyện mà nghe pháp một cách tự tại.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

83. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi bảy: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền tiến đến bậc bất thối chuyển.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

84. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi tám: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền chứng được đệ nhất, đệ nhị và đệ tam pháp nhẫn, cùng các pháp bất thối chuyển.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)

 

85. XƯỚNG: Nếu ai muốn biết rõ

 Chư Phật trong ba đời,

 Nên quán tánh pháp giới,

 Tất cả do tâm tạo.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. (1 lạy)

 

86. XƯỚNG: Mọi pháp hữu vi trong thế gian

 Như chiêm bao, huyễn hóa, bọt nước,

 Bóng trong gương, điện chớp, sương mai.

 Thời thời nên quán chiếu như thế.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. (1 lạy)

 

87. XƯỚNG: Phật là đấng phước trí tròn đầy

 Thấy rõ các pháp không tự tánh

 Hạt giống Phật tùy duyên hiện khởi

 Cho nên nói giáo pháp Nhất Thừa.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. (1 lạy)

 

88. XƯỚNG: Các pháp hữu vivô thường,

 Là các pháp có sinh có diệt,

 Khi sự sinh diệt đã tiêu trừ,

 Cảnh tịch diệt niết bàn hiện tiền.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Niết Bàn. (1 lạy)

 

89. XƯỚNG: Pháp Phật thật cao sâu mầu nhiệm,

 Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp,

 Nay con được thấy, nghe, thọ trì,

 Nguyện hiểu rõ chân ý của Phật.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy Pháp Bảo khắp pháp giới, hiển bày đủ bốn khoa giáo lí hạnh quả, thể hiện qua mười hai phần giáo, gồm thâu trong ba tạng Kinh Luật Luận, thuộc cả đại thừatiểu thừa. (1 lạy)

 

90. XƯỚNG: Dung thông hai đế chân và tục,

 Dứt hai chướng phiền não, sở tri,

 Đọan trừ hai chấp ngã và pháp,

 Chứng nhập vào cảnh giới “bất nhị”.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. (1 lạy)

 

91. XƯỚNG: Trên lí lẽ chân thật,

 Một hạt bụi không dính,

 Trong phương tiện độ sinh,

 Không bỏ pháp môn nào.

 

HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền. (1 lạy)

 

 

92. XƯỚNG: Thần lực Quán Thế Âm,

Không có gì sánh được,

Vô lượng kiếp huân tu ,

Cực trang nghiêm thanh tịnh.

Ngàn nơi tiếng kêu cầu,

Ngàn nơi Ngài ứng hiện.

Nơi biển khổ mênh mông,

Thường hiện thân cứu khổ.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm. (1 lạy)

 

93. XƯỚNG: Tánh hư không có thể tiêu vong,

 Tâm kiên cố không hề lay động.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Lực Đại Thế Chí. (1 lạy)

 

94. XƯỚNG: Chúng sinh độ hết mới chứng Bồ Đề,

 Địa ngục chưa trống thề không thành Phật.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (1 lạy)

 

95. XƯỚNG: Siêng tu đại tinh tấn,

Đốt bỏ xác thân này,

Đem cúng dường Thế Tôn,

Cầu tuệ giác vô thượng.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Dược Vương. (1 lạy)

 

96. XƯỚNG: Thiện hữu tri thức

 Là nhân duyên lớn,

 Giúp cho hành giả

 Mau lìa sinh tử.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Dược Thượng. (1 lạy)

 

97. XƯỚNG: Đối thế nhân, xin khởi từ tâm.

Ngày đêm an trú nơi Chánh pháp.

Nguyện cho thế giới luôn an ổn,

Phước trí vô biên lợi quần sinh,

Bao nhiêu tội nghiệp đều tiêu trừ,

Dứt hết khổ, về nơi viên tịch.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Nhật Quang Biến Chiếu. (1 lạy)

 

98. XƯỚNG: Hoa Tuệ-giác khắp chốn trang nghiêm.

Tùy trụ xứ thời thời an lạc.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Nguyệt Quang Biến Chiếu. (1 lạy)

 

99. XƯỚNG: Cúi đầu qui y phép Tô-tất-đế,

 Thành tâm đảnh lễ đấng Thất Câu Chi,

 Con nay xưng tán đức Đại Chuẩn Đề,

 Xin nguyện từ bi thường gia hộ.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Vương. (1 lạy)

 

100.XƯỚNG: Kính lạy đức đại bi Quán Âm,

 Nguyện lực rộng sâu, thân tốt đẹp,

 Ngàn tay trang nghiêm khắp hộ trì,

 Ngàn mắt sáng ngời nhìn thế gian,

 Trong chân thật nói lời bí mật,

 Từ vô vi khởi tâm đại bi,

 Đáp ứng đầy đủ mọi kêu cầu,

 Gia hộ diệt trừ các tội chướng.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. (1 lạy)

 

101.XƯỚNG: Bồ-tát như vầng trăng trong mát,

 Dạo chơi trong không gian mênh mông,

 Chúng sinh sạch cấu tâm thanh tịnh,

 Tuệ giác vô thượng liền hiển bày.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy chư vị Đại Bồ Tát khắp pháp giới thanh tịnh rộng lớn như biển cả. (1 lạy)

 

102.XƯỚNG: Vạn hữuthế gian

 Như hoa đốm hư không,

 Không hề có sinh, diệt.

 Trong trí tuệ chân thật

 Không có hữu và vô.

 Với trí tuệ như thế

 Mà phát tâm đại bi.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Linh-sơn. (1 lạy)

 

103.XƯỚNG: Thần lực không lường,

 Mật hạnh khó suy,

 Uy dũng hơn trời rồng, phá tà hiển chánh,

Vâng phó chúc của Phật, hộ pháp an tăng.

 Ngưỡng mong khởi thần thông,

 Rủ lòng xin chứng giám.

 Kính lạy đức Bồ Tát Hộ Pháp Vi Đà cảm ứng khắp ba châu; Bồ Tát giám trai sứ giả Khẩn Na La; chư vị Thiện Thần bảo hộ giáo phápgiới luật nơi các chốn già lam; tám bộ chúng trời rồng; cùng tất cả các vị thiện thần gần xa bổn tự.

 Cúi xin các ngài, không quên lời thề nguyện của chính mình, thương xót chốn phàm trần, phóng ánh sáng uy nghiêm thầm gia hộ, khiến cho những nơi chánh pháp đang lưu truyền, nội ngọai chướng đều tiêu trừ, chúng tăng hòa hợp, bạn ác ma mị vĩnh viễn tránh xa. Người người ngộ biển tánh Tì Lô, nơi nơi nhập hạnh nguyện Phổ Hiền. Cầu cho đàn na tín thí đều thấm nhuần lợi lạc.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy đức Bồ Tát Hộ Pháp Vi Đà. (1 lạy)

 

104.XƯỚNG: Kiều Phạm Ba Đề cúi đầu lạy

 Thánh Chúng thanh tịnh đại đức Tăng.

 Voi chúa đi rồi, voi con theo,

 Đèn trước tắt, đèn sau tiếp nối.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy liệt vị Pháp Sư qua các thời đại, từ xưa đến nay, từ Tây sang Đông, đã từng kết tập, phiên dịch, chú thích, giảng giải Ba Tạng giáo điển. (1 lạy)

 

105.XƯỚNG: Bồ đề vốn không cây,

 Gương sáng cũng không đài,

 Xưa nay không một vật,

 Chỗ nào dính bụi trần?

 

 HÒA: Một lòng kính lạy liệt vị Tổ Sư trải qua các thời đại, từ Tây-trúc đến Việt-nam, đã từng du hóa khắp nơi để truyền giáokhai sơn phạm vũ. (1 lạy)

 

106.XƯỚNG: Thân là cây bồ đề,

 Tâm như đài hương sáng,

 Nên thường xuyên lau chùi,

 Đừng để dính bụi trần.

 

 HÒA: Một lòng kính lạy chư vị phàm thánh đại đức Tăng-già khắp ba đời mười phương. (1 lạy)

 

107.XƯỚNG: Phàm là người xuất gia,

 Lập chí thóat ba cõi,

 Thân tâm đều khác tục,

 Nối thạnh dòng giống Phật,

 Nhiếp phục mọi chướng ma,

 Báo đền bốn ơn nặng,

 Độ chúng sinh ba cõi.

 Nếu không được như thế,

 Chỉ là giả làm Tăng.

 

 HÒA: Thay vì Bốn Ơn Nặng, kính lạy Ba Ngôi Báu thường trú trong mười phương. (1 lạy)

 

108.XƯỚNG: Công đức lạy Phật rất thù thắng.

 Bao nhiêu phước đức xin hồi hướng,

 Nguyện cho chúng sinh khắp pháp giới,

 Vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang.

 

HÒA: Thay vì ơn Chúng Sinh trong khắp pháp giới, kính lạy Ba Ngôi Báu thường trú trong mười phương. (1 lạy)

 

 

PHẦN BA

HỒI HƯỚNG (tùy nghi)

 

 

Xem thêm Nghi Lạy 108 Lạy Tam Bảo - Âm


Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Sáu 201704:56
Khách
tiếp: trước: bản N=360.phật thuyết vô lượng thọ kinh: 設我得佛,十方無量不可思議諸佛世界,其有女人聞我名字,歡喜信樂,發菩提心,厭惡女身,壽終之後復為女像者,不取正覺。(đã lược dịch trên) là bản kinh được coi như là một bản được hòa thượng tham khảo chính trong lúc soạn nghi thức lễ sám này:
Và cùng với nguyện này cũng là nguyện thứ 35 (trang94b) trong kinh bảo tích No. 0310 大寶積經: 若我成佛。周遍無數不可思議無有等量。諸佛國中所有女人。聞我名已得清淨信。發菩提心厭患女身。若於來世不捨女人身者。不取菩提。(lược dịch như sau:nếu con thành phật, trong vô lượng không thể nghĩ bàn các thế giới của chư phật, những người nữ nghe tên của con mà sanh tín tâm thanh tịnh, phát tâm bồ đề chán ghét thân nữ, nếu khi mạng chung lại trở lại thân nữ,thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Theo 3 bản kinh trên: những người nữ nào nghe danh hiệu,phát tâm bồ đề,chán ghét thân nữ,thì mới xã bỏ thân nữ.
Khi chúng ta thường tự hào đức phật, là một đấng giáo chủ đầu tiên và duy nhất tuyên dương bình đẳng nam nữ, cho nên dù trên tịnh độ cũng không thể kì thị đối với nữ giới, với đức Thích ca không những cho phép người nữ xuất gia mà trong số họ còn có nhiều vị đạt đến địa vị tối cao :A la hán; hơn nữa, nếu như trên cõi tịnh độ ấy không có phái nữ thì cũng không cần phải phân biệt với nam
5.-nguyện thứ 38 Hạnh cơ đã dịch: “Đại nguyện thứ ba mươi tám: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc muốn có y phục, ẩm thực, thì liền có như ý”. Trong khi kinh văn ghi: 第三十八衣服隨念願設我得佛。國中天人。欲得衣服。隨念即至。如佛所讚應法妙服。自然在身。若有裁縫染治浣濯者。不取正覺。tạm dịch là “Nguyện thứ 38,y phục tùy ý niệm;Nếu con được thành Phật, mà Trời và Người trong cõi nước con, muốn có y phục, tùy theo tâm niệm của họ y phục như pháp được phật ngợi khen tự nhiên hiện ra trên mình họ. Nếu còn phải cắt may, nhuộm, giặt thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.” ở đây không có đề cập đến vấn đề ẩm thực như Hạnh cơ đã dịch
6.-câu “đại nguyện thứ 40 Hạnh cơ dich: “Đại nguyện thứ bốn mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, nếu muốn thấy vô lượng Phật độ nghiêm tịnh trong khắp mười phương, cứ nhìn vào cây báu thì liền thấy rõ ràng như thấy mặt mình trong gương.” Câu này nên dùng để dịch câu đại nguyện thứ 31. Kinh văn của nguyên thứ 40 như sau: 第四十樹中現剎願設我得佛。國中菩薩。隨意欲見十方無量嚴淨佛土。應時如意。於寶樹中。皆悉照見。猶如明鏡。覩其面像。若不爾者。不取正覺
Tạm dịch là: Nguyện thứ 40,trong cây hiện các cõi phật; Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát trong cõi nước con, tùy ý muốn thấy vô lượng cõi phật trang nghiêm thanh tịnh ở mười phương đều được như nguyện.ở trên cây báu tất cả đều hiển hiện như trong tấm gương sáng,. Nếu không được như thế, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Thì mới hợp nghĩa kinh văn
26 Tháng Sáu 201704:54
Khách
tiếp trước: 4.-cũng trong bản “pháp môn lễ sám phần bản dịch của Hạnh cơ câu 71. “Đại nguyện thứ 35:những người nữ trong 10 phương thế giới, nghe được danh hiệu đức phật A di đà liền phát tâm bồ đề, thì sau khi mạng chung sẽ không trở lại thọ thân nữ nữa” là so với nguyện thứ 2 trong N=364.đại A di đà kinh:[0328c13] 「『第二願,我作佛時,我剎中無婦女;無央數世界諸天人民,以至蜎飛蠕動之類,來生我剎者,皆於七寶水池蓮華中化生。不得是願終不作佛。trong “tôn kính đức Di đà” (trang 101),H.t.Trí quang đã dịch:”đại nguyện 2 khi con thành tuệ giác tối thượng, quốc độ của con không có nữ nhân. Vô số chúng sinh đến quốc độ của con, không kể [là]chư thiên nhân loại hay loài côn trùng [tất cả]toàn hóa sinh trong hoa sen của hồ thất bảo. nguyện này không thành thì con không thành phật”
Một bản kinh khác:No. 362佛說阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過 度人道經 nguyện thứ 2: “第二願:使某作佛時,令我國中,無有婦人,女人欲來生我國中者即作男子;諸無央數天人民、蜎飛蠕動之類,來生我國者,皆於七寶水池蓮華中化生,長大皆作菩薩、阿羅漢都無央數。得是願乃作佛,不得是願終不作佛” tạm dịch: nguyện thứ 2 khi con thành phật , khiến trong nước của con không có đàn bà, những người nữ muốn sinh trong nước của con liền tức thời thành nam tử, vô lượng các trời người cho đến con trùng bò bay máy cựa sinh vào nước của con đều từ hoa sen trong ao nước thất bảo háo sinh, cao lớn đều là bồ tát, a la hán tất cả đều nhiều vô số, được như nguyện con mới thành phật, nếu không được như nguyện trọn không thành phật.
Thế nhưng không thật chính xác so với bản No. 363 佛說大乘無量壽莊嚴經 nguyên thư 27 trang 320:
「『世尊!我得菩提成正覺已,所有十方無量無邊無數世界一切女人,若有厭離女身者,聞我名號發清淨心歸依頂禮,彼人命終即生我剎成男子身;悉皆令得阿耨多羅三藐三菩提 xin lược dịch :
Thế tôn!nếu con được quả bồ đề vô thượng giác, tất cả người nữ trong mười phương vô số thế giới,nếu vì chán ghét muồn lìa thân nữ, nghe tên của con mà phát tâm thanh tịnh, quy y lễ bái, thì người nữ đó sau khi mạng chung liền sinh vào nước của con với thân nam tử tát cả đều được vô thượng chánh đẳng giác.( còn tiếp)
26 Tháng Sáu 201704:50
Khách
xin góp ý về bản dịch của thầy Hnah5 cơ như sau:Như trong Bản NGHI THỨC LỄ SÁM thường dùng trong tự viện QUẢNG HƯƠNG GIA LAM được hòa thượng Thích Trí thủ soạn thảo bằng chữ quốc ngữ. Chỉ trong 48 nguyện của phật A di đà đã có đến 6 đại nguyện được Hạnh cơ dịch thiếu chính xác vì không theo sát chính văn, đó là các
nguyện thứ 10(bất tham kế thân),
nguyện thứ 26(na la diên thân),
nguyên thứ 35(thoát ly nữ thân),
nguyện thứ 38(y phục tùy niệm),
nguyện thứ 40(thọ hay thụ trung hiện sát 樹中現剎願),
Chi tiết được ghi nhận như sau:
1.-câu đệ thập đại nguyện bất tham kế thân (chữ kế thân được viết là 計身 chỉ cái hiện thân còn gọi là tương tục thân không phải là thân sau 繼身 như Hạnh cơ đã dịch câu này như sau: “đại nguyện thứ mười: chúng sinh ở cõi cực lạc không còn khởi niệm tham ái đối với thân sau” (trang 43.sdd)
Trong kinh đại bảo tích N=310, tập 11 đại chính tân tu đại tạng kinh do Bồ đề lưu chi dịch trang93c như sau;若我成佛。國中有情起於少分我我所想者。不取菩提。 Xin lược dịch như sau:nếu con được thành Phật, hữu tình trong nước của con khởi niệm về ngã , ngã sở, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Kinh đại a di đà cũng dịch như sau: 第十願,我作佛時,我剎中人,知身如幻,無貪著心。不得是願終不作佛。H.T Trí quang đã dịch trong tôn kính đức Di đà ,trang 105 như sau: đại nguyện thứ10, khi con thành tựu tuệ giác tối thượng, người trong quốc độ của con biết thân mạng như ảo thuật,không còn đam mê. Nguyện này không thành thì con không làm phật.
Như vậy “bất tham kế thân” là không tham đắm cái thân như huyển này chứ không phải là cái thân sau,bởi vì thân này là thân “chơn kim sắc”, thân “tam thập nhị tướng”
2.- câu 62 “đệ nhị thập lục đại nguyện đắc kim cang thân” đã được thầy Hạnh cơ dịch như sau:
“Câu 62.đại nguyện thứ 26: chư vị bồ tát ở cõi cực lạc đều có thân cứng chắc như kim cương, mạnh mẽ như thần Na la diên.” Câu này trong kinh như sau: 第二十六那羅延身願設我得佛。國中菩薩。不得金剛那羅延身者。不取正覺。Nguyện thứ 26:được thân kim cang(na la diên),Nếu con được thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước con, không được thân Kim Cang Na La Diên, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Chữ na la diên là phiên âm hán việt của chữ phạn, có nghĩa là kim cang (hay kim cương), Thần Na la diên là dịch từ chữ Na la diên thiên(那羅延天)
3.-câu Đệ tam thập đại nguyện tuệ biên vô NGẠI: theo kinh văn第三十慧辯無限願設我得佛。國中菩薩。智慧辯才。若可限量者。不取正覺。 đúng ra phải là tuệ biện vô HẠN, xét theo nghĩa thì tuệ biện chỉ có thể là vô hạn,vì có lúc cũng có những trở ngại như khi gặp phải nhất xiển đề hay khi phật Thích ca mâu ni khi còn tại thế dù uy đức và tuệ biên của ngài là vô cùng thế nhưng vẫn không thể khuất phục được Xa nặc (Còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9097)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 68796)
Nghi Thức Thỉnh Đại Hồng Chung - Giọng thỉnh chung: TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 87004)
Các Bài Sám Văn Cúng Thí Thực Âm Linh Cô Hồn - Tuyển Tập trong nhiều nghi thức tụng niệm của nhiều soạn giả
(Xem: 24781)
Diệu, sâu, Tổng Trì đứng hàng đầu, Thủ Lăng Nghiêm nhân thế khó cầu, Diệt vọng điên đảo muôn ức kiếp, Không qua nhiều đời được Pháp Thân.
(Xem: 13907)
Nghi Thức Truyền Giới Bồ Tát Tại Gia, HT Thích Đổng Minh biên soạn
(Xem: 29000)
Chúng ta đời đời kiếp kiếp học Phật tu hành không được thành tựu, không có biện pháp thoát khỏi luân hồi, là vì có oan gia trái chủ đến...
(Xem: 26884)
Đầu năm Cúng Hội Cầu An Nguyện cho Quốc thái Dân an mọi nhà Nhân sinh yên ổn hoan ca Xã hội tốt đẹp kết hoa tình người
(Xem: 38582)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 34186)
Hào quang chiếu diệu. Sáng tỏ mười phương, Ngộ lý chơn thường, Phá màn hôn ám.
(Xem: 44244)
Nguyện thứ nhất: Tôi thành Phật được, Thì nước tôi là nước tịnh thanh. Ngục hình, ngạ quỷ, súc sanh, Thảy đều chẳng có sanh thành nơi đây.
(Xem: 52689)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 19195)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo Pháp mây hương Ngát tỏa khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 143647)
Đây là quyển sách với những quy ước về nghi lễ tang ma của nhân gian. Người Phật tử chỉ nên tham khảo cho biết, không nên y cứ để thực hành...
(Xem: 16174)
Đại từ, đại bi thương chúng sanh, Đại hỉ, đại xả, cứu hàm thức, Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm, Chúng con chí tâm thành đảnh lễ...
(Xem: 19547)
Chúng con cung kính nghe rằng: Hương sơn đại định, Viên thành ngàn vạn Đà la; Nam hải trùng ba, Quảng phát mười hai diệu hạnh...
(Xem: 9366)
Cùng Tổ ngộ lòng thiền, trong cửa Tây Thiên vâng lời thọ ký; Vì người khai Phật trí, tại chùa Thiên Mộ, nối nghiệp độ sinh !
(Xem: 18237)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 53439)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 29672)
Nam mô từ Lâm Tế chánh tôn sắc tứ Chúc Thánh Tự khai sơn trùng hưng quá cố đường thượng chư vị lịch đại Tổ sư...
(Xem: 23060)
Khể thủ nhứt thiết xuất thế gian, Tam giới tối tôn công đức hải, Trí giả năng thiêu phiền não cấu, Chánh giác ngã kim quy mạng lễ...
(Xem: 60878)
Nhất tâm đảnh lễ A tỳ ngục tốt, sơ phát thiện tâm, Chúng hòa: Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.
(Xem: 24267)
Lễ tắm Phật là một trong những nghi thức phổ biến của lễ hội Phật đản hằng năm trong nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Nghi thức này vốn đã xuất hiện khá lâu tại Ấn Độ, Trung Á và Trung Hoa...
(Xem: 81607)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài, cùng lúc ấy, chư thiên tung hoa trời, trổi nhạc trời chúc mừng thái tử.
(Xem: 35547)
Bản Sưu Tập các Bài Tán nầy được trích trong các cổ bản Tán Sám, Nghi Thức, Hành Trì viết tay bằng hán tự... Quảng Bảo
(Xem: 12976)
Muốn cho cuộc lễ được tươm tất và thành kính, chuông trống bát nhã không thể thiếu được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.... Thích Giác Duyên
(Xem: 24586)
Nghi Thức lạy 108 lạy Tam Bảo do HT Thích Trí Thủ biên soạn PL. 2518
(Xem: 21189)
Chuông vàng bảng ngọc thấu bốn phương, Thần Thánh về đây đếm không lường, Âm thinh biến khắp mười phương cõi, Chư Phật Bồ tát chứng đàn tràng... HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 24561)
Nguyện tiếng chuông nầy ngân khắp cõi, Thiết-vi ngục tối thảy xa nghe, Cõi trần trong sạch đều thông suốt, Giác ngộ sanh linh cả mọi loài... HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 10378)
Nghe Tụng Kinh Bát Nhã, Qua Nhiều Ngôn Ngữ... Hoavouu sưu tầm
(Xem: 27531)
Kính lạy Bồ Tát Tất Đạt Đa, Tánh đức từ bi hằng biểu lộ, Trải bao cuộc du hành mục đổ, Xót sinh linh kiếp số trầm luân... Nghi Lễ
(Xem: 25190)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 21158)
Dựa theo “Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi” của vua Trần Thái Tông, Việt-nam... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 142414)
Trung Khoa Du Già Thí Thực Khoa Nghi 中科瑜伽施食科儀(Đông Mật)... Quảng Minh dịch chú
(Xem: 38982)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 13957)
Nghi Thức Cúng Giao Thừa - Biên soạn Thích Nguyên An
(Xem: 23508)
Táo tiếng Hán có nghĩa là bếp. Hàng năm, khi năm hết Tết đến, vào ngày 23 tháng Chạp, nhà nhà đều sắm sửa lễ nghi, cúng tiễn ông Táo chầu trời... Tân Nguyễn
(Xem: 42704)
Khoa nghi này truyền sang nước ta đã lâu đời, thường được gọi là nghi thức đăng đàn chẩn tế, do các cao tăng làm sám chủ...
(Xem: 47860)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 32587)
Kính lạy chư Phật khắp mười phương, Tuyên dương Pháp nhiệm mầu thanh tịnh, Thánh Tăng cả ba thừa bốn quả, Rủ lòng từ bi xin chứng giám... Hạnh Cơ
(Xem: 18161)
Kính lạy Phật! Con từ vô thỉ kiếp, Mây vô minh che lấp tánh viên minh, Tạo bao việc ác, bỏ hết việc lành, Quanh quẩn luân hồi, vào ra sinh tử... Hạnh Cơ
(Xem: 23372)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 80952)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 17346)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 15461)
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn do HT Thích Nhất HạnhHội Đồng Giáo Thọ Làng Mai biên soạn
(Xem: 58022)
Nhạc Thỉnh Trong Trai Đàn Chẩn Tế - Thích Hạnh Tuệ sưu tầm
(Xem: 26624)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 22153)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 26508)
Bảng Chữ Nho khắc in tại chùa Báo Quốc, năm Đồng Khánh thứ 3, Mậu Tý (1888) - Chùa Báo Quốc
(Xem: 23778)
Thờ CúngLễ Bái là một trong những Gia Bảo tinh thần đáng quý của Tổ Tiên để lại cho con cháu kế thừa. Gia Bảo này đã đ­ược hấp thụ tinh hoa lâu đời do các Tôn Giáo bồi đắp...
(Xem: 60632)
Xưng là Tứ Thiên Vương bởi vì bốn vị Thiên Vương này ở bốn hướng Đông Tây Nam Bắc. Tứ Đại Thiên Vương là thần tướng của vua trời Đế Thích, ở núi Kiền Đà La...
(Xem: 26353)
Đạo Phật ngoài các vị thiên thần Hộ Pháp hộ giới ra còn có rất nhiều thiện hữu tri thức, bằng trí tuệ của mình, bằng phước đứctài lực của mình với tinh thần hộ trì chánh giới...
(Xem: 18529)
Khi giới sư đăng đàn truyền trao U Minh Giới cho vong linh. Chúng giới tử đại vị cho tiên hương linh của mình mà thay họ phụng thỉnh Tam Bảo, thọ nhận Giới pháp...
(Xem: 16432)
Nghi thức tuần chiếu trong Giới Đàn Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ thời Phật còn tại thế, Đức Thế Tôn theo thông lệ cứ mỗi năm ngày, Ngài đi tuần phòng của Tăng chúng.
(Xem: 19111)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 20285)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19055)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 45147)
Pháp Sự Khoa Nghi (3 tập) Soạn dịch giả: HT Thích Huyền Quang - Chùa Quang Thiện, California, USA - Ấn hành 2002
(Xem: 16205)
Nghìn nhà một bát, muôn dặm cô thân, Thần thông ứng cúng xa gần, Diệu dụng hóa duyên đây đó...
(Xem: 15918)
Thành ngữ Việt Nam có câu: “Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó”, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu đề tài ý nghĩatác dụng của lễ bái.
(Xem: 17176)
Lễ nhạc là điều rất quan trọng trong đời sống con người. Vì lẽ, đời thiếu lễ, thì đời sẽ hỗn loạn; đời thiếu nhạc, thì đời sẽ khô khan... Thích Lệ Trang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant