Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phân Tích Tính Chất Đồng Nhất

04 Tháng Tám 201512:06(Xem: 10085)
Phân Tích Tính Chất Đồng Nhất
Phân Tích Tính Chất Đồng Nhất

Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ
Phân Tích Tính Chất Đồng Nhất

Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức

Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.

(Vô tự tính)

 

-LONG THỌ TÁN DƯƠNG THỰC TẠI

 

Bây giờ chúng ta sẳn sàng để phân tích “cái tôi” có thể là một với tâm thứcthân thể hay không.  Quan tâm những ngụ ý sau.  Nếu “cái tôi” được thiết lập trong tự nó và của chính nó, như nó hiện diện đến tâm thức chúng ta, và nếu nó cũng là một với tâm – thân, thế thì “cái tôi” và tâm – thân hoàn toàn không thể khác biệt.  Chúng sẽ phải là hoàn toàn và luôn luôn là giống nhau là một với nhau.  Những hiện tượng xuất hiện một cách nhưng tồn tại trong một cách khác là sai lạc, nhưng không thể cho những gì là thật sự được thiết lập có một sự đối kháng giữa sự xuất hiệnsự kiện thực tế.  Điều gì thật sự phải xuất hiện cung cách nó tồn tại và phải tồn tại trong cung cách nó xuất hiện.

 

Nếu “cái tôi” là một với tâm – thân, thậm chí có hợp lý để thừa nhận sự tồn tại của “cái tôi” không?  Như Long Thọ nói trong Trung Quán Luận:

 

Khi được xem nhưvô ngã

Ngoại trừ phức hợp tâm – thân,

Thế thì phức hợp tâm – thân tự nó sẽ là tự ngã

Nếu như thế, tự ngã của bạn không tồn tại

 

Nếu “cái tôi” và phức hợp tâm – thân là giống nhau một cách chính xác, sẽ không thể nghĩ về “thân thể tôi” hay “cái đầu tôi” hay “tâm thức tôi” hay phỏng đoán rằng “thân thể tôi đang mạnh mẽ hơn.”  Cũng thế, nếu tự ngã và tâm – thân là một, thế thì tâm thứcthân thể không tồn tại nữa, tự ngã cũng sẽ không tồn tại.

 

Vấn đề thứ hai là, vì tâm thứcthân thể là số nhiều, những tự ngã của một người sẽ phải là nhiều vẻ.  Như Nguyệt Xứng nói:

 

Nếu tâm thứcthân thể là tự ngã,

Thế thì bởi vì tâm thứcthân thể là số nhiều

Những tự ngã sẽ phải đúng là số nhiều

 

Hay, như tự ngã là một, tâm thứcthân thể cũng sẽ là một (số ít), một cách vô lý.

 

Vấn đề thứ ba là, giống như tâm thứcthân thể được sản sinh và suy tàn, “cái tôi” cũng phải được sản sinh một cách cố hữu và suy tàn một cách cố hữu.  Mặc dù Phật Giáo thừa nhận rằng tự ngã được sản sinh và suy tàn, chúng tôi cho rằng điều này thật là quy ước tục đế, không phải một cách cố hữu từ chính phía nó.  Trong việc vắng mặt của sự tồn tại cố hữu (vô tự tính), có thể cho một chuỗi thời khắc, ngay cả sự sống, hình thành một sự tương tục mà trong ấy cái sau tùy thuộc vào cái trước.  Tuy nhiên, nếu tự ngã được sản sinh một cách cố hữu và tan rả một cách cố hữu, thì không thể có những thời khắc hiện tại của đời sống của quý vị tùy thuộc trên những thời khắc trước, vì mỗi thời khắc vì mỗi thời khắc được sản sinh và tan rã trong tự nó và của chính nó, mà không tùy thuộc trên bất cứ điều gì khác.  Trong trường hợp này, những đời sống quá khứ sẽ không thể có, vì mỗi đời sống sẽ tồn tại trong tự nó và của chính nó [mà không liên hệ với bất cứ điều gì khác].

 

Đức Phật nói về việc nhớ lại những đời sống quá khứ, và một số người tiếp nhận một cách sai lầm rằng  điều này có nghĩa là Đức Phật sau sự giác ngộcá nhân, Ngài ở trong một cuộc đời quá khứ là một và giống nhau, và vì thế  là thường còn.  Tuy nhiên, khi Đức Phật diễn tả những đời sống trước đây, Ngài đã cẩn thận không đồng nhất rằng con người của đời sống hiện tại của Ngài trong một nơi đặc thù tại một thời điểm đặc thù là con người trong một nơi đặc thù tại một thời điểm đặc thù của quá khứ.  Ngài đã nói trong dạng thức tổng quát, nói một cách đơn thuần rằng, “Trong quá khứ ta đã là một con người như thế như thế,” những Ngài đã không nói, “Trong quá khứ Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người như vậy như vậy.”

 

Trong cách này, chủ thể của hành động (nghiệp) trong một đời sống quá khứtác nhân trãi nghiệm những kết quả của những nghiệp chướng đó được bao gồm trong sự tương tục của điều mà Phật Giáo gọi là “cái tôi tồn tại không cố hữu” (hay “chỉ là – cái tôi” đã du hành từ đời này sang đời khác.  Nói cách khác, nếu “cái tôi” được sản sinh một cách cố hữu và tan rã một cách cố hữu, sự tương tục như thế sẽ không thể có, vì hai kiếp sống – con người làm những hành động và con người chịu đựng những hậu quả - sẽ không liên hệ với nhau.  Điều này sẽ đưa đến kết quả vô lý rằng những hiệu quả an lạc của những hành vi đạo đức và những hậu quả khổ đau của những hành động vô đạo đức sẽ không sinh hoa trái cho chúng ta; những hậu quả của những hành động đó sẽ là lãng phí, chúng ta sẽ trãi nghiệm những hậu quả mà chính chúng ta đã không tạo tác.

 

Thiền Quán Phản Chiếu

 

Quan tâm những hậu quả nếu “cái tôi” được thiết lập trong tự nó và của chính nó [không liên hệ với bất cứ thứ gì khác] phù hợp với việc nó xuất hiện như thế nào trong tâm thức chúng ta và nếu nó cũng là một với tâm – thân chúng ta:

 

1-    “Cái tôi” và tâm – thân sẽ hoàn toàntuyệt đối là một.

2-    Trong trường hợp đó, thừa nhận một “cái tôi” sẽ vô nghĩa.

3-    Sẽ không thể nghĩ về “thân thể tôi” hay “cái đầu tôi” hay “tâm thức tôi”.

4-    Khi tâm thứcthân thể không tồn tại nữa, tự ngã cũng sẽ không tồn tại.

5-    tâm thứcthân thể là số nhiều, những tự ngã của một người cũng sẽ là số nhiều.

6-    Vì “cái tôi” chỉ là một (số ít), tâm thức vả thân thể cũng sẽ là một (số ít).

7-    Giống như tâm thứcthân thể được sản sinh và tan rã vì thế sẽ phải thừa nhận rằng “cái tôi” được sản sinh một cách cố hữu và tan rã một cách cố hữu.   Trong trường hợp này, không có hiệu quả an lạc của những hành động đạo đức , cũng không có hậu quả khổ đau của những hành động phi đạo dức sản sinh hoa trái cho chúng ta, hay chúng ta sẽ trãi nghiệm hậu quả của những hành vichúng ta đã không tạo tác.

 

Hãy nhớ rằng, những gì được thiết lập một cách cố hữu không thể được bao gồm trong cùng sự tương tục mà phải là khác biệt một cách không liên hệ.  Thấu hiểu rằng điều này lệ thuộc trên việc tiếp nhận một ý nghĩa đúng đắn của việc “cái tôi” và những hiện tượng khác thường xuất hiện đến chúng ta là sự tự cấu thành [[1]] và chúng ta thường chấp nhận sự xuất hiện đó và rồi hành động trên căn bản của nó như thế nào.  Đây là loại hiện hữu phóng đại mà chúng ta đang khảo sát.

 

Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ

 


[1] Không liên hệ đến những thứ khác, tức là sự xuất hiện độc lập, không do nhân duyên, mà đấy là điều không thể có.  Và chúng ta phải thấu hiểu điều này một cách rõ ràng, mới có thể có chính kiến về sự liên hệ hổ tương hay duyên sinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 129)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 190)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 280)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 192)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 241)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 231)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 257)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 288)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 366)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 600)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 459)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 477)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 568)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 820)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 850)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 836)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 729)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 708)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 711)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 832)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 935)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 607)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 705)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 822)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 707)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 706)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 812)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 844)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 817)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 862)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 884)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 950)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1649)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1064)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1209)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 954)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1210)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1275)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1543)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2023)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1093)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1095)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 944)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1062)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1092)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1516)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1274)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant