Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Duy Thức Học Từ Nhận Thức Đến Thực Nghiệm

30 Tháng Chín 201510:57(Xem: 8154)
Duy Thức Học Từ Nhận Thức Đến Thực Nghiệm

DUY THỨC HỌC
TỪ NHẬN THỨC ĐẾN THỰC NGHIỆM

Thiên Hạnh

-Duy Thức Học Từ Nhận Thức Đến Thực Nghiệm

 

      Bài viết này xin không trình bày lần lượt hệ thống các lý thuyết căn bản về Duy thức học mà chú trọng những điểm thiết yếu chi phối toàn triệt quá trình nhận thức một cách cô đọng và đặc trưng nhất có thể.

     Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan, do đó có tính cá biệt đặc thù của mỗi cá thể. Sự tương tục tích góp bổ sung tỷ lệ thuận với thời gian trong một hệ giao thoa có ý thứcvô thức, do đặc trưng này nên gọi là tâm(citta). Diễn biến tư duy, cân đong đo đếm phân biệt với vô cùng các giới hạn liên đới nên có danh xưng là ý( manas).

  HIỆU ỨNG KHÚC XẠ

Khúc xạ là ảo ảnh có được khi một sự vật đi qua một môi trường khác với ban đầu, ảo ảnh do tác động của sự chiết suất( độ cong gãy) mà có. Tương tự, những gì từ thế giới xung quanh( tướng phần) được chủ thể( kiến phần) tiếp cận( không phải là cảm nhận) để xuất hiện những khái niệm, phán đoán, kết luận,…( lượng_tam lượng). Một cá thể hữu tình( còn cấu nhiễm) sẽ có những cảm nhận thiếu xác đáng, lệch lạc và sai lầm, trong đó vai trò của tự ngã( ngã si, ngã ái,…) và các phiền não trở thành chủ đạo.

  HỘI CHỨNG KHIẾM KHUYẾT_TIẾP NỐI_BỔ SUNG

Tất cả sự vật hiện tượng gọi chung là thế giới thật chất là tập hợp của vô số thông tin tồn tại như chính nó( nhậm trì tự tánh), trong khi cái tôi cá thể nương vào thức chấp ngã, tự nhuốm màu những cặp kính chủ thể làm bước đệm có tác năng như bộ vi xử lý( bộ lọc). Bước trung gian phản ánh sự khu biệt, hãn hữu, cắt xén, làm biến dạng thế giới chung quanh. Do vậy, chủ thể cảm nhận thế giới đã bị nhuốm màu phân biệt cuối cùng cái có được là những gì méo mó lệch lạc( những tín hiệu đã thay đổi với những mức độ khác nhau).

   Sự đa mang là tất yếu khi đồng hành với sự tiếp cận các pháp là sự có mặt của các chủng tử( bija) đúng hơn là các chủng tử gốc( bản hữu chủng tử), một dạng năng lượng tiềm tàng( thế năng) chúng sẽ trở thành nguồn năng lượng phát khởi và phát huy tác dụng theo những xu hướng định sẵn( thiện, ác) khi có đủ điều kiện kích hoạt đủ liều lượng( động năng). Chủng tử câu sanh này khởi hiện thông qua thức, hình thành định hướng sức sống và sự sống của chủ thể đương tại theo một quy thức mới có tính lập đi lập lại( tập khí_vasana) để rồi khi cơ hội chín muồi( dị thục) lại tiếp tục hình thành những dạng năng lượng mới( tân huân chủng tử) đưa vào kho chứa( tàng thức) dự trữ cho những vòng chuyển vận tác khởi tương lai.

   THỨC VÀ SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM, LỐI SỐNG, HÀNH XỬ MANG TÍNH XÃ HỘI.

   Đứng trước một pho tượng Phật tọa vị bên trong Phật đường, nhà điêu khắc sẽ bị thu hút bởi đường nét, mảng tối sáng, tính cân đối trong nghệ thuật tạo hình; nhà chất liệu học thoạt tiên sẽ khởi lên sự đóan định về chất liệu cấu thành, ước định về tuổi thọ hay trọng lượng,…của bức tượng; còn nhà nghiên cứu nội thất thì nghiêng về sự đánh giá tỷ lệ giữa bức tượng và các phần còn lại, mức độ tối ưu trong sự phân bố không gian,…những ai có tín tâm với Đức Phật thì phát khởi lòng kính ngưỡng, tâm thức dâng lên những cung bậc rung động tâm linh, chẳng khác nào trước mặt họ chính là Đức Phật đang hiện hữu sống động.

   Con người đánh giá cảm nhận tự nhiên thông qua thức, không ai giống ai và hệ lụy là những cách hành xử cũng muôn màu muôn vẻ. Lĩnh vực xã hội càng đa dạng đa sắc và phức tạp bội phần. Tư duy là vũ khí đặc hữu của con người( con người là cây sậy biết tư tưởng_Pascal). Sản phẩm của tư duy là kết quả của các bộ óc trải qua hàng chục thế kỷ để chúng ta có một nền tảng đồ sộ của nhân loại với văn hóa, triết học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật,…Riêng về các bình diện mang tính xã hội học có tác dụng định hướng lối sống nhiều người. Chuỗi phát triển từ ý niệm sau đó là ý tưởng rồi nâng lên một cách hệ thống nhờ sự tự khẳng định thành tư tưởng. Nếu tư tưởng đi đến sự chỉnh chu nhất định và có ảnh hưởng một bộ phận hay một thành phần trong xã hội thì xuất hiện hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng sẽ là tiền đề hình thành chủ thuyết và cao hơn là chủ nghĩa. Suy cho cùng chúng cũng chỉ là sự hợp lưu của những dòng tư tưởng cùng tần số tương thích, bổ khuyết và bổ sung cho nhau mà tự định hình lấy.

   Sáng suốt trong phán đoán đánh giá hiện thực, con người chỉ biết nương vào thức mà thức bản chất là vọng( thiếu xác đáng, mơ hồ), tuy vậy vẫn có những phán đoán mang tính sáng suốt nhất định( tợ hiện lượng) đây là dấu hiệu tích cực mà người đời hay dùng cụm từ đã nhận ra vấn đề!. Nghĩa là đã thấy đâu là phải, đâu là chưa hay để tự điều chỉnh lối sống, điều chỉnh lý tưởng sống ngay từ trong hành vi, ngôn ngữý tưởng.

Để bước qua được những giới hạn trầm kha của nhận thức, thâm nhập vào cảnh giới của trực cảm thể nhập duy thức tánh trực nhận các pháp đúng bản chất( như thị_ tathata ) buộc chủ thể phải có những bước cải biến mang tính cách mạng. Trước hết phải dần loại bỏ những thói quen cố hữu, những tính cách tiêu cực( tập khí ). Giới Luật được coi là sự điều chỉnh cần thiết khi đóng vai trò huân tu như một pháp đối trị những pháp gọi là huân tập. Sự miên mật trong hành trì Gíao Pháp là tác năng tích cực đánh động các chủng tử thiện tính tiềm tàng trong tàng thức( Giáo dục không phải là chất cho đầy mà là đốt lên ngọn lửa_John Keats, thi hào Anh) đồng thời cô lập và kiềm thúc các chủng tử bất thiện tính, qua đó hình thành những chủng tử mới tích cực.

Lộ trình tu tập của Duy Thức chung quy cũng là phản vọng quy chơn, lối về cũng đồng với tất cả các pháp môn tu trong đạo Phật. Có khác chăng là Duy Thức học khai triển nhận dạng quy trình diễn biến phức tạp của thức( duy thức tướng ), từ đó chỉ ra các xu hướng nhận diện và hành xử tích cực để đạt được trí của sự nhận chân toàn triệt( Đại viên cảnh ), trí của sự không ngăn ngại trong các khái niệm toàn cục hay bộ phận, không gian thời gian( Diệu quan sát ), trí của sự vô chấp ngã pháp năng sở bỉ thử( Bình đẳng tánh ) và trí không lấy tiền đề chủ quan vọng động làm cơ sở( Thành sở tác ).

Lấy thực trạng làm bối cảnh và thực tiễn là mối dung hợp chủ khách thể, chúng ta mới thấy được giá trị của Duy thức học giữa thực tế cuộc sống. Con người đặc biệt là giới trẻ đang quay cuồng trong vô số dòng hấp lực, sự định dạng các diễn trình phức hợp đan xen của trùng trùng các khía cạnh đời sống sinh hoạt, giải trí khuynh loát tâm thức con người. Thức vọng động, dao động, nhiễu động kéo tâm ý con người xa dần các chuẩn mực tương đối đời thường. Nhân cách nhân phẩm bị thử thách nghiệt ngã nói chi đến những lý tưởng cao cả xuất thế. Đó là chưa đề cập đến hội chứng tâm lý mất thăng bằng đang có xu thế tăng dần trong xã hội hiện đại( bệnh hoang tưởng, thần kinh phân liệt, căng thẳng tâm lý_stress,..)

Hy vọng Duy thức học, một môn tâm lý học Phật giáo( nói theo các học giả thế học) sẽ góp phần lý giải, điều hướng và là pháp môn trị liệu tích cực góp phần an lạc cho đời sống nhân sinh theo tinh thần Phật Pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác.

Sài Gòn, 25.9.2015

 (Thiên Hạnh)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1386)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1158)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 946)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1140)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1397)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1373)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1251)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant