Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nhân Duyên Phát Khởi Niệm Phật

30 Tháng Giêng 201520:20(Xem: 8958)
Nhân Duyên Phát Khởi Niệm Phật


NHÂN DUYÊN PHÁT KHỞI NIỆM PHẬT

Tác giả: Pháp Sư Viên Anh

Thích Nguyên Anh biên dịch


anh_dep_Phat_Giao___83_Đại sư Liên Trì nói rằng: “Một niệm siêu ba cõi, một lời ngang với Thánh hiền, thật là diệu dụng bất khả tư nghị, điều ấy chỉ có trong kinh A Di Đà mà thôi vậy!”. Kinh này là nhân duyên phát khởi pháp môn trì danh niệm Phật. Đức Thích Ca Mâu Ni quán thấy hết thảy chúng sinh vốn xưa nay là Phật, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, chỉ vì vọng tưởng vô minh che đậy nên không thể thấy được tự tánh Như Lai; tuy bị mê mờ, luân hồi trong ba cõi sáu đường nhưng Phật tánh vốn có ấy vẫn không bị mất đi.

Như kho bảo châu chôn ở trong nhà, viên minh châu buộc trong chéo áo chưa từng tán mất. Cho nên Đức Phật chỉ bày pháp môn niệm Phật là muốn khiến cho hết thảy chúng sinh phát tâm niệm Phật, mà ngộ nhập được tri kiến Phật vốn có ấy.

Các Đức Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là “khai thị cho chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật”. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật bảo với ngài Xá Lợi Phất rằng: “Này Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là chư Phật Thế Tôn, vì một nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời? Chư Phật Thế Tôn muốn cho hết thảy chúng sinh khai tri kiến Phật, đắc thanh tịnh giải thoáthiện ra nơi đời; muốn chỉ cho chúng sinh thấy tri kiến Phậtxuất hiện nơi đời; muốn cho chúng sinh ngộ tri kiến Phậtxuất hiện nơi đời; muốn cho chúng sinh nhập tri kiến Phậtxuất hiện nơi đời”. Tri kiến Phật tức là Bồ đề tứ trí (Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí) của chư Phật, cũng tức là ba đức (Pháp thân, Niết bàn, Giải thoát) đang ẩn tàng trong chúng sinh. Chư Phật ngộ Phật tri kiếnthành đẳng chánh giác; chúng sinh vì mê nên phải luân hồi trong sinh tử. Nên biết mê và ngộ tuy có khác nhau nhưng Phật và chúng sinh xưa nay bình đẳng. Kinh Kim Cang nói rằng: “Pháp bình đẳng ấy không có cao thấp”. Tức là: Chúng sinh vốn đầy đủ tri kiến Phật bằng chư Phật không khác.

Hai chữ “tri kiến” là nói theo căn tánh. Căn tánh tức là Phật tánh. Tánh này thường ở đầu cửa sáu căn; ở mắt thời gọi là thấy, ở tai thời gọi là nghe, ở mũi thời ngửi, ở lưỡi thời nếm, ở thân thời xúc chạm (cảm giác), ở ý thời gọi là biết, nay chỉ đưa ra ý cănnhãn căn nên gọi là tri kiến (thấy biết), thật ra thì sáu tánh này chỉ là một tánh. Như Kinh Lăng Nghiêm nói, vốn chỉ là một tinh minh nhưng phân thành sáu hòa hợp. “Cái biết” của Phật là thật biết, không có cái gì mà chẳng biết; “cái thấy” của Phật là thật thấy, không có cái gì mà chẳng thấy. Nay chúng sinh do mê lầm nơi vọng tưởng chấp trước nên cái thấy biết trở thành vọng kiến vọng tri (không phải là cái thấy biết chân thật). Cổ đức có nói rằng: “Biết bao con chim đã mê lầm lót ổ trên một đám mây trắng giăng ngang miệng vực”. Nên biết vọng niệm không có tự tánh, toàn thể tức chân, Phật vì chúng sinh mà khai mở, mà chỉ thị khiến chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật, như chỉ cho biết trong nhà vốn đã có kho báu, viên minh châu vốn có sẵn trong chéo áo, hà tất cầu tìm.

Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện, thành tựu tự tánh Di Đàhoàn thành giai đoạn nhân duyên xuất thế này.

Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này. Thấy căn tánh của chúng sinh chỉ có tu trì theo pháp môn niệm Phật này, là pháp môn dễ nhất, lại dễ đắc độ, nên không ai đặt vấn đề mà tự thân thuyết (vô vấn tự thuyết), đó là cuốn Kinh A Di Đàchúng ta trì tụng hằng ngày. Ngài tự nói cho Xá Lợi Phất biết rằng: “Từ đây hướng về phía Tây trải qua 100.000 ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực lạc, nước Cực lạc ấy có Phật hiệuA Di Đà hiện đang thuyết pháp”. Cực lạcy báo, Di Đàchánh báo. Vì để muôn đời trì danh hiệu Phật nên Đức Thích Ca đã nói ra pháp môn vi diệu này. Pháp môn này thượng, trung, hạ căn đều có thể hành trì, tứ sinh lục đạo đều được siêu thoát, lợi ích của nó thật là không thể nghĩ bàn vậy.

Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật giải thích hai chữ “Cực lạc” rằng: “Xá Lợi Phất! Nước ấy vì sao có tên là Cực lạc? Vì những chúng sinh sinh về nước ấy không có các khổ não, chỉ có an vui, cầu gì được nấy nên gọi Cực lạc”. Trên đây là nói rõ các thứ trang nghiêm y báo chánh báo của cõi Tây phương, hầu phát khởi tín ngưỡng của chúng sinh; thứ đến là khuyến cáo chúng sinh mỗi người hãy nên phát nguyện, nguyện cầu vãng sinh Tây phương Cực lạc. Kinh rằng: “Này Xá Lợi Phất! Khi chúng sinh nghe đến cõi nước Cực lạc hãy nên phát nguyện sinh về nước ấy. Vì sao? Vì được ở cùng chư thiện tri thức”. Cuối cùngchí thành khuyên bảo nên trì danh hiệu Phật A Di Đà để được nhất tâm bất loạn. Kinh rằng: “Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tín nữ nghe nói đến Phật A Di Đàchấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hai ngày... cho đến bảy ngày được nhất tâm bất loạn thời người ấy lúc lâm chung được Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng tay nâng kim đài hiện ra trước mặt, người ấy lúc lâm chung tâm không điên đảo tức được vãng sinh về thế giới Cực lạc”.

Như những điều đã dẫn trên đây thì cốt yếu của Kinh A Di ĐàĐức Phật muốn khuyến phát tín nguyện hạnh. Người tu pháp môn niệm Phật nên lấy tín nguyện hạnh để làm tư lương cho lộ trình vãng sinh nước Cực lạc. Nếu như đầy đủ được ba món tư lương này thì chắc chắn hành giả được lên ngôi cửu phẩm. Nên biết: Có vãng sinh được hay không hoàn toàn đều do nơi hành giả có hay không có tín nguyện; phẩm vị cao thấp là do ở chỗ hành trì cạn hay sâu. Tín nguyện hạnh này như đỉnh ba chân, thiếu một thời không đứng được. Tôi thường khuyến khích mọi người nên tu trì pháp môn Tịnh độ, đối với ba món tư lương này, mỗi món thêm một chữ, gọi là: Tín tất phải thâm tín (tin sâu); nguyện tất phải thiết nguyện (nguyện thiết tha); hành tất phải thật hành.

Nếu được như thế thì chắc chắn cầm chiếc vé vãng sinh Tây phương Cực lạc.

I. Tin sâu, sơ lược có bốn:

1/ Tin Đức Thích Ca Như Lai đã viên mãn tam giác (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn), tứ trí.

2/ Tin cõi Tây phương Cực lạc là thực có, do Đức Phật A Di Đà đại từ đại bi làm giáo chủ, lúc còn ở nhân địa tu hành đã phát đại 48 hoằng thệ nguyện, nguyện sau khi tinh cần tu vạn hạnh thành tựu được công đức trang nghiêm chứ không phải là hư ảo.

3/ Tin chư Phật ở sáu phương đều xuất ra tướng lưỡi dài rộng che khắp tam thiên đại thiên thế giới tán thán pháp môn Tịnh độ, là công đức không thể nghĩ bàn. Chư lịch đại Thánh hiền hoằng dương pháp môn Tịnh độtu hành bằng con đường tắt trong các con đường tắt, cho đến muôn kinh vạn luận nơi đâu cũng chỉ rõ ràng. Thánh hiền xưa nay ai ai cũng đề xướng pháp môn Tịnh độ, quyết định là những lời chân thật không phải dối lừa.

4/ Tin rằng cõi Ta bà ngũ trược là do chiêu cảm ác nghiệp của chúng sinh; cõi Cực lạc thanh tịnh sạch đẹp, thành tựu do những tịnh nghiệp của chúng sinh. Niệm Phật được thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý, khi tịnh nghiệp đã thành thì vãng sinh Tịnh độphù hợp với nhân quả chớ không phải là hư cuống. Quả thật lúc đầy đủ bốn niềm tin này thì cho dù ai đó nói có pháp môn nào đó siêu việt hơn, khuyên ta tín ngưỡng ta cũng không đổi ý. Bởi vì ta đã tin tưởng vào pháp môn niệm Phậtpháp môn tối thắng hơn hết, đây chính là tin sâu.

II. Nguyện thiết tha, lược có bốn loại:

1.- Nguyện không phụ tánh linh của mình. Tánh này là Phật tánh tự nhiên mà mỗi chúng sinh đều có đủ. Chỉ vì do phiền não mê lầm, kết nghiệp trói buộc mà phải luân hồi trong biển khổ sinh tử. Nay may mắn được sinh làm người, được nghe Phật pháp, lại được nghe đến danh hiệu Phật A Di Đà, công đức bổn nguyện tín ngưỡng sâu xa nên tự phát nguyện, nguyện suốt đời thọ trì pháp môn niệm Phật để cầu liễu sinh thoát tử, cầu vãng sinh Tịnh độ, cầu thành Phật đạo để không cô phụ tánh linh.

2.- Nguyện ly khổ đắc lạc. Chúng ta theo nghiệp mà sinh vào thế giới Ta bà năm trược này, bị các khổ, tam khổ, bát khổ, vô lượng chúng khổ nói không cùng tận. Nay thử đem Ta bà, Cực lạc so sánh. Ta bàtam khổ: 1/ Khổ khổ; tức là chúng sinh trong năm đường (ngũ thú chúng sinh) chịu thân sinh tử này đã là khổ mà lại còn phải chịu bao nhiêu cái khổ bức bách nên gọi là khổ khổ (cái khổ này chồng lên cái khổ kia). 2/ Hoại khổ; từ trời Lục Dục cho đến trời Tam Thiền tuy có lạc thọ, nhưng cái lạc ấy không trường cửu, rốt cuộc cũng bị tán hoại nên gọi hoại khổ. 3/ Hành khổ; từ trời Tứ Thiền trở lên tuy không còn khổ lạc nhưng vẫn phải bị hành ấm thiên lưu, chưa đắc tự tại giải thoát, lúc hết quả báo cõi trời thì vẫn phải bị đọa lạc nên gọi hành khổ. Và chúng sinh ở cõi Cực lạc chỉ thọ những sự thư thái an vui của thân tâm mà không có khổ khổ; chỉ thọ những sự an vui của chánh báo trang nghiêm mà không có hoại khổ; chỉ thọ những sự an vui của tam muội tịch diệt mà không có hành khổ.

Lại thế giới Ta bà có tám khổ: 1/ sinh là khổ, 2/ già là khổ, 3/ bệnh là khổ, 4/ chết là khổ, 5/ thương yêu mà phải xa lìa là khổ, 6/ ghét nhau mà phải ở cùng là khổ, 7/ mong cầu không được là khổ, 8/ năm ấm không hòa hợp là khổ. Và chúng sinh ở cõi Cực lạc thì chỉ có cái vui hóa sinh hoa sen mà không có cái khổ của thai sinh; chỉ có niềm vui của tướng đẹp sáng ngời mà không có cái khổ của sự suy thoái vì thời gian; chỉ có niềm vui tự tại mà không có cái khổ của bệnh tật; chỉ có niềm vui của sự thọ mạng mà không có cái khổ của tứ đại phân ly; chỉ có niềm vui của sự đoàn tụ mà không có cái khổ của sự thương yêu mà phải xa lìa; chỉ có cái vui của sự thương yêu mà không có cái khổ của sự oán ghét mà phải sống chung; chỉ có niềm vui của sự cầu gì được nấy mà không có cái khổ dục bất như ý; chỉ có niềm vui của năm ấm được điều hòa mà không có sự khổ lúc phiền não bừng lên. Hai cõi một uế một tịnh, khổ lạc khác nhau trời vực nên thiết nguyện vãng sinh ly khổ đắc lạc.

3.- Nguyện mau được lên ngôi cửu phẩm không còn thoái chuyển. Tu hànhcõi Ta bà này khó tiến mà lại rất dễ thoái thất, là vì hoàn cảnh xấu ác, duyên chướng đạo nhiều, duyên trợ đạo ít. Hoặc ban đầu thì tinh tấn sau lại giải đãi, hoặc là công hạnh chưa thành, khi duyên đời hết đổi báo thân khác không nhớ việc tu hành đời trước nên không thể tiếp tục, đời sau lại tạo nghiệp mới ắt phải thoái đọa. Những khó khăn của sự tu hànhcõi Ta bà, như Bồ Tátquả vị thập tín, đã phát đại tâm mà còn tiến lên thoái xuống huống hồ phàm phu. Có tín tâm tu hành phải trải qua một vạn kiếp, khi tín tâm đầy đủ, thiện căn thành thục mới chứng được sơ trụ (một trong thập trụ), được quả vị bất thoái. Và pháp môn niệm Phật vừa được vãng sinh là chứng liền tam bất thoái (vị bất thoái, hành bất thoái, niệm bất thoái). Kinh A Di Đà nói rằng: “Những chúng sinh được sinh lên Cực lạc đều là A bệ bạt trí (bất thoái địa) nên quyết định cầu vãng sinh Tịnh độ, nguyện chứng bất thoái chuyển.

4.- Nguyện chính mắt thấy Phật A Di Đà. Bởi vì khó mà tự thân thấy được chư Phật xuất thế, thí như hoa Ưu đàm, 3000 năm mới nở một lần. Người xưa than thở: “Lúc Phật xuất thế con còn trầm luân, nay được thân người Phật đã diệt độ; hận cho thân này nhiều nghiệp chướng, không thấy được thân sắc vàng của Như Lai”. Chúng ta sinh nhằm vào thời mạt pháp, Phật Thích Ca đã diệt độ, Phật Di Lặc lại chưa sinh nên muốn tự thân thấy Phật nghe pháp thật là việc khó vô cùng. Thí như đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa đáng thương biết bao, đã không cha mẹ lại thêm nghèo đói thì cuộc đời cô độc của nó nguy hiểm đến thế nào? Nay ở thế giới Cực lạc Đức A Di Đà từ tôn đang thuyết pháp, thương nhớ chúng sinh như mẹ thương con. Chúng ta quyết tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, nguyện thấy Phật A Di Đà, cho dù trải qua kiếp số nhiều như cát bụi nguyện này không bao giờ thay đổi. Cho dù lúc lâm chung hoặc trời Đế Thích tiếp dẫn ta lên cõi trời Đao Lợi, hoặc vua trời Đại Phạm đón rước ta sinh lên cõi trời Sơ thiền ta cũng nhất định không đi, huống gì là những đường ác thú khác.

Lại nữa, không những chỉ nguyện sinh Tây phương mà thôi đâu, ta còn phải nguyện sinh lên thượng phẩm thượng sinh, mong được đài vàng để sớm thấy Phật, mau chứng vô sinh pháp nhẫn. Như Đại sư Hoài Ngọc chỉ chuyên tu tịnh nghiệp. Một ngày nọ, ngài thấy Phật A Di Đà hiện thân, trên không trung phát ra muôn tiếng nhạc, Phật A Di Đà tay cầm đài bạc đến tiếp dẫn, Hoài Ngọc nghĩ: Ta một đời tinh tấn tu hành cốt chí tâm ở đài vàng, nay chỉ được đài bạc ta quyết không vãng sinh. Suy nghĩ thế xong thì thấy Đức A Di Đà từ từ bay về hương Tây biến mất. Từ ấy trở đi Hoài Ngọc càng thêm tinh tấn, ngày 21, Phật cùng chư Bồ Tát lại hiện khắp cả hư không, đức A Di Đà lần này tay cầm đài vàng đến tiếp dẫn. Ngọc nghĩ: Nguyện ta đã trọn vậy. Bèn chắp tay hướng về phía Tây thị tịch, lúc ấy trong không trung phát ra muôn ngàn âm nhạc. Thái Thủ Tụng nói rằng: “Thầy tôi một niệm lên sơ địa, trăm ngàn khí nhạc thảy đồng ca; cây hòe cổ thụ nơi đầu ngõ, trên cành có quải một kim đài”. Chính như Quang Minh Thiện Đạo cũng có nói rằng: “Nguyện ngươi thế nào, thì được thành tựu như thế ấy”.

Sức nguyện lực thật không thể nghĩ bàn. Các thứ trang nghiêm của thế giới Tây phương Cực lạc đều do nguyện lực của Đức Phật A Di Đàthành tựu. Nếu niệm Phật có tín mà không nguyện thì tín ấy chỉ là hư tín. Cho nên, có niềm tin rồi còn cần phải phát nguyện. Phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện lấy mười đại nguyện vương làm tư lương cho lộ trình đi về Cực lạc. Lại nữa, Bồ Tát Phổ Hiền còn phát kệ thệ nguyện rằng: “Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy bao chướng ngại; tận mắt thấy Phật A Di Đà, tức được vãng sinh nước Cực lạc”. Là những người tu trì pháp môn Tịnh độ, nguyện ấy không thể không khẩn thiết.

III. Thực hành, hành tức là trì danh hiệu Phật, chuyên tu Tịnh độ.

Hành ấy quý ở chỗ chân thật, nếu có tín, nguyện mà không có thực hành thì vẫn không được vãng sinh thế giới Cực lạc. Thí như tin (tín) vào hạt giống có thể cho hoa kết trái, rồi cũng mong (nguyện) hạt giống ấy cho hoa thơm trái ngọt nhưng lại không gieo xuống đất, không chăm sóc tưới tẩm (không thực hành) thì tất nhiên là không thể có quả để thu hoạch. Cũng như thế, niệm Phật phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh, thiếu một thời không thể được. Hạnh có hai loại:

1.- Sự hành: Là dùng cái tâm năng niệm, niệm Phật sở niệm, năng sở rõ ràng, tâm, Phật tương ưng, tâm không rời Phật, Phật không rời tâm, niệm niệm tương tục không gián đoạn, đi, đứng, nằm, ngồi không rời câu “Nam mô A Di Đà Phật”, không khởi vọng tưởng. Tâm như hồ nước trong lắng không chút gợn sóng, Phật như trăng mùa thu vằng vặc trên trời, trạm nhiên bất động, đó là niệm Phật bằng sự hành.

2.- Lý hành: Tức là rõ lý trung đạohành pháp tu niệm Phật. Nghe nói pháp môn niệm Phật rồi tin theo không chút mảy may nghi ngờ, nguyện vãng sinh Cực lạc, chuyên tu tịnh nghiệp, không trụ ở có, không rơi vào không, niệm mà không thấy có niệm, không thấy ta là người niệm, Phật là người được niệm. Niệm Phật đến lúc không còn năng sở thì tâm, Phật nhất như, tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, không có hai tướng cũng không thể tìm ở có không. Nếu nói là có thì cái tâm năng niệm bản thể vốn vắng lặng, Phật sở niệm tướng bất khả cầu. Nếu nói là không thì cái tâm năng niệm linh thông chưa từng bị hôn tối, Phật sở niệm sáng rỡ muôn đời. Không còn có tướng có không mà trở về với thật tướng. Cổ đức nói kệ rằng: “Bỗng nhiên khởi niệm niệm Di Đà, đất bằng không gió dậy phong ba; thân tâm yên lặng trong vô niệm, khởi lên (biết) không niệm cũng là tà”. Đây không chuyên tu sự tướng mà là thuần tu lý quán, sức quán thành tựu thì sẽ biết rõ tâm, Phật tuy có hai tên gọi nhưng bản thể chỉ là một, thấy được tự tánh Di Đà, tâm hồn trong lắng thì đó là niệm Phật lý hành.

Tín nguyện hạnh là ba món tư lương của hành giả trên con đường đi đến Cực lạc. Đã chuẩn bị đầy đủ tư lương thì vấn đề vãng sinh nào còn có khó gì? Đã vãng sinh Cực lạc thì không còn khổ não, siêu vượt tam giới. Vì thế nên Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì chúng sinh mà tự nói ra Kinh A Di Đà để làm nhân duyên phát khởi niệm Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1276)
Vũ trụ chúng ta sinh ra đã được gần 14 tỷ năm. Đó là quá trình tiến hóa, từ vật chất không có sự sống đến vật chất có sự sống, lên đến
(Xem: 2116)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 4909)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4345)
Mùa Phật Thành Đạo năm nay Phật lịch 2564 - Dương lịch 2021, chúng ta đồng nhất tâm cầu nguyện...
(Xem: 12178)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 6640)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4279)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 4705)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 5971)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 12518)
Ngày lễ Vu Lan trong Đạo Phật là ngày “Phật Hoan Hỷ”, ngày “Tự Tứ”. Tăng, Ni tập trung vào sự tu niệm và thỉnh cầu những bậc...
(Xem: 5093)
Lễ Vu Lan báo hiếu không chỉ là ngày dành cho các Phật tử mà đó còn là mùa báo ân, báo hiếu của tất cả những người con dành cho bố mẹ.
(Xem: 5981)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 8032)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 5318)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5561)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3597)
Hôm nay đây, nhân mùa Phật đản, chúng ta lại thấy dường như hình ảnh Đức Phật đang thấp thoáng trong những lời cầu nguyện
(Xem: 4997)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 7661)
Đức Phật hay Đạo Phật, mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh, và hiện hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người, và muôn loài ...
(Xem: 7342)
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
(Xem: 6006)
Thông Điệp Chúc Mừng Vesak 2643 (2019) Của Thủ Tướng Úc Đại Lợi, Ông Scott Morrison; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 4977)
Đạo Phật xuất hiệnthế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
(Xem: 4817)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 5711)
... Tôi hân hoan đón mừng ngày Phật Đản, ngày ra đời của một con người trí tuệ, bậc Thầy của muôn loài chúng sinh.
(Xem: 12456)
Tào-Khê tịnh thất, sớm mai thăm vườn kiểng bên hiên, nhìn chậu mai đơm nụ, bỗng nhớ rừng mai năm nào …
(Xem: 11688)
Con đường tâm linh đưa con người vượt khỏi thế giới hiện tượng vô thường (hoa tàn hoa nở) để đến thực tại vô tận, bất sanh bất diệt (xuân vô tận).
(Xem: 12845)
Theo truyền thống văn hóa Trung Quốc cũng như truyền thống Á Đông, cây tùng cúc, trúc, mai tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một năm;
(Xem: 8443)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 8396)
Heo là một loài vật có hình dáng tròn trịa mũm mỉm, béo tốt ủn ỉn và hiền từ, khác với loài thú dữ khác như rắn, sư tử, beo… hại người, hại vật.
(Xem: 6810)
Chúc mọi nhà một năm mới đủ ăn, dư mặc, thừa tình yêu thương và giàu lòng quảng đại. Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019!
(Xem: 8530)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
(Xem: 6227)
Bài viết này đã đăng trên Đặc San Kỷ niệm lể Vu Lan 1989, năm Kỷ Tỵ, của chùa Hoa Nghiêm ở Toronto, Canada.
(Xem: 6967)
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hận cha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
(Xem: 5473)
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
(Xem: 9291)
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
(Xem: 9554)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 6167)
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tử xa gần.
(Xem: 8714)
Năm nay trời thiếu mưa, và sương mù cũng không nhiều như những năm mới đến cư ngụ tại thủ phủ Sacramento, bang California.
(Xem: 6468)
Chó vẫy đuôi mừng, vầng trăng thiện hạnh trùm khắp, từ bi toàn thân hỷ lạc.
(Xem: 6572)
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dương rực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
(Xem: 8308)
Lòng từ bi nhân ái, tiếng Tây Tạng là Tse wa (rtse ba) là một thuật ngữ nói lên tình mẫu tử và nỗi âu lo vô biên của chư Phật đối với mỗi chúng sinh.
(Xem: 10633)
Thời thanh xuân, tiếng nói trong trẻo, du dương; trung niên, tiếng trầm như sấm; lão niên, tiếng khàn đục như cối xay.
(Xem: 9301)
Đây là một quyển sách khác thường của Đức Đạt-lai Lạt-ma phân tích bản chất của thiền định thật chi tiết và sâu sắc.
(Xem: 8068)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6155)
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
(Xem: 8862)
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạng căng thẳng tâm thần, các xúc cảm tiêu cựccải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác động tích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
(Xem: 7010)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 6638)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 10372)
Sống trong thời đại văn minh, con người cần phải học hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
(Xem: 8991)
Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người.
(Xem: 8488)
Hãy chấp nhận các kinh nghiệm của bạn, ngay cả các kinh nghiệm bạn ghét.
(Xem: 9097)
Tu tập tự thân chính là công phu quan trọng nhất trong toàn bộ cái gọi là Phật giáo.
(Xem: 7449)
Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, sinh năm 1915 tại tỉnh Chanthaburi, Đông nam Thái Lan (gần biên giới Campuchia).
(Xem: 7061)
Lời Thầy thường dạy, lại bàng bạc không gian “Ta là tiếp nối của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Các Ngài ở trong ta và ta ở trong các Ngài...
(Xem: 6435)
Dường như con người có thể phát tiết ra khả năng kỳ lạ để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh sống mà có lẽ chính họ đôi khi cũng không ngờ.
(Xem: 6001)
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấn tu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thành dưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựng cộng đồng nhơn loại...
(Xem: 8036)
Khởi đầu, thiền định là một phương pháp tu luyện tâm thức (bhāvanā), bắt nguồn từ Ấn Độ cách đây vài ngàn năm, phát triển chủ yếu trong...
(Xem: 7907)
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
(Xem: 11133)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 11651)
Nơi biển khơi ngàn con sóng bạc đầu, hay trên cánh đồng xanh lúa chín rì rào đâu đâu cũng thấy hiện thân nỗi binh an khắp tất cả.
(Xem: 7835)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 10226)
Một hiện thể độc nhất, này các Tỷ-kheo, một nhân thể phi thường trác việt khi xuất hiệnthế gian, sự xuất hiện ấy đem lại hạnh phúc cho...
(Xem: 8039)
Không dễ tìm được một chúng sinh nào chưa từng một lần trong quá khứ là mẹ của ngươi…
(Xem: 8195)
Ngày 4-5 vừa qua, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres đã gởi đi Thông điệp nhân Ngày Vesak 2641 (2017)
(Xem: 7577)
Bài này chỉ giới thiệu sơ sài đôi nét độc đáo của bản dịch Việt thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông...
(Xem: 8212)
Bước chân ban đầu là bước chân khai mở con đường vượt thoát những phiền não, ràng buộc của kiếp sống...
(Xem: 7155)
Khi một hiện hữu làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó, cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rung động.
(Xem: 8294)
Cảnh sát là một nghề căng thẳng hơn rất nhiều nghề khác trong đời thường. Đôi khi, buổi sáng ra đi, không chắc gì buổi chiều đã toàn vẹn trở về.
(Xem: 10229)
Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
(Xem: 11808)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung.
(Xem: 9794)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
(Xem: 10342)
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
(Xem: 9316)
Năm cũ sắp sửa trôi qua với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11526)
Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai...
(Xem: 8314)
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm...
(Xem: 10265)
Vẽ đẹp cao quý trong ngày xuân là mọi người có dịp làm mới lại những truyền thống văn hóa, đạo đứcdi huấn của tổ tiên...
(Xem: 10705)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêm tại đảo quốc xinh đẹp này.
(Xem: 10446)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 11569)
Bài Thuyết Trình Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Lần Thứ 10 tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada ngày 07 – 09 tháng 10, 2016
(Xem: 9384)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 22757)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 10505)
Thiền Vipassana là một phương pháp để giúp chúng ta có được một đời sống nội tâm lành mạnh, an lạc.
(Xem: 10054)
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có...
(Xem: 10262)
Có nhiều phương pháp giúp chúng ta giảm bớt đau khổ tạm thời. Khi các bạn gặp đau khổ, các bạn đổi hướng chú ý của ...
(Xem: 10362)
Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua...
(Xem: 10313)
Tôi nhớ mãi một buổi chiều, Mẹ ngồi bên thềm sân, Cúi xuống, thoang thoáng một nét buồn.
(Xem: 10754)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy...
(Xem: 13088)
Ngày Lễ Phật Đản Visak là ngày quan trọng nhất đối với tất cả Phật tử trên toàn thế giới. Đây là ngày...
(Xem: 14639)
Cách đây hơn 2.600 năm, vào ngày trăng tròn tháng Tư, tại vườn ngự uyển Lumbini, thành Kapilavastu...
(Xem: 13346)
Theo truyền thống Phật Giáo, nói về các thời điểm nhất định, thí dụ như Sự Ra Đời Và Sự Giác Ngộ Của Đức Phật, có một nguồn ánh sáng...
(Xem: 12660)
Vẫn như mọi năm, tháng Tư âm lịch ngày trăng tròn là ngày kỉ niệm Đức Phật đản sanh. Theo truyền thống Phật giáo thì ...
(Xem: 9649)
Xin chia buồn cùng tang quyến và cầu nguyện hương linh Đạo hữu Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần vãng sanh Cực Lạc Quốc
(Xem: 11177)
Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là ...
(Xem: 10768)
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp.
(Xem: 14508)
Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu kính gởi đến Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử
(Xem: 12406)
Thế Tôn, bậc tôn quý nhất, đấng Giác ngộ duy nhất, tối tôn ở đời. Bởi chỉ có thành tựu tuệ giác vô ngã, kết quả của thiền quán mới ...
(Xem: 11716)
Bảy bước đi liên tòa kết nụ Chỉ đất trời thượng hạ tuyên ngôn "Như Lai vô thượng chí tôn Thân này kiếp chót vĩnh tồn vô sanh"
(Xem: 11688)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 23421)
Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
(Xem: 11324)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 10536)
Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant