Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Rộng mở tâm hồn đón nhận tất cả

18 Tháng Tư 201300:00(Xem: 13407)
Rộng mở tâm hồn đón nhận tất cả

RỘNG MỞ TÂM HỒN ĐÓN NHẬN TẤT CẢ
Ni sư Tenzin Palmo

tenzin_palmo-01


Tại sao chúng ta luôn chấp trì vào ý nghĩ rằng cuộc sống phải luôn thanh bình, êm ả? Rất nhiều người cho rằng chúng ta chỉ có thể thực hành Phật pháp khi không có bất cứ chướng ngại nào bên ngoài cũng như bên trong, rằng tu tập chân chính chỉ có thể thực hiện trong những kỳ chuyên tu nhập thất hay chí ít cũng phải đến chùa, tự viện hay các trung tâm Phật pháp. Trong đời sống thường nhật, bị áp lực thời gian, bất mãn với hàng loạt gánh nặng gia đình và công việc, mỗi ngày, chúng ta đều cảm thấy bế tắc, thậm chí tuyệt vọng. Vì tin rằng tu tập nghĩa là phải có thời gian để chuyên nhất quán tưởng, lễ lạy, thực hiện các nghi lễ cúng dàng hay tâm linh khác, v.v…, chúng ta càng tin tưởng mình còn thiếu thiện duyên. Ta vẫn tự nhủ "Làm sao mình có thể trở thành một hành giả chân chính nếu khôngthời gian để thực hành?" Tuy nhiên, đây là một cách hiểu về việc thực hành Phật pháp hoàn toàn thiếu thực tế, sai lầm.

Chúng ta hãy kiểm nghiệm lại pháp tu Lục độ Ba La Mật, mang ý nghĩa sáu phương pháp hoàn hảo gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền địnhtrí tuệ - tất cả đều cần thiết để thành tựu Phật quả. Bất kỳ sự thực hành nào trong số sáu phương pháp này đều đòi hỏi chúng ta phải liên hệ và tương tác với mọi người. Nói cách khác, để có thể thực hành Lục độ Ba la mật một cách sâu sắc, chúng ta cần những mâu thuẫnxung đột trong chính cuộc sống đời thường. Nếu chỉ ngồi yên nơi tịnh thất và cho rằng mình đang tràn đầy tình yêu thương cùng các phẩm chất tích cực như vị tha, bao dung, nhẫn nhục thì đó là điều quá dễ dàng bởi ta chẳng gặp phải bất kỳ thách thức nào. Nhưng khi xả thất, ta gặp gỡ rất nhiều người trong đời sống thực tế, những người không đối tốt với ta, không làm theo những điều ta mong muốn, ta sẽ nhìn thấy mình rõ hơn và bắt đầu hiểu thế nào là thực hành Phật pháp chân chính.

Chúng ta có thể áp dụng hai cách tiếp cận cơ bản trong quá trình tu tập của mình. Thứ nhất, ta cần học cách sống tỉnh thức mỗi ngày - đây là điều cốt yếu. Thứ hai là học cách rộng mở tâm hồn thông qua thực hành Lục độ ba la mật đặc biệt là hạnh bố thínhẫn nhục. Nếu tâm hồn chúng ta khép chặt, dù trì tụng bao nhiêu chân ngôn, thực hiện bao nhiêu lễ lạy, thụ nhận bao nhiêu quán đỉnh, tầm đọc bao nhiêu kinh sách cũng đều vô nghĩa. Nếu sự hành trì không giúp ta thay đổi một cách đúng đắn, tích cực thì điều đó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì.

Vì hay đồng hóa bản thân với đủ mọi cảm xúc, tư tưởng, thiên kiếnđịnh kiến nên chúng ta không còn chỗ cho chính mình để có thể nhìn mọi thứ một cách chân xác trong mọi hoàn cảnh. Đắm chìm trong "vũng lầy" vô minh ấy, ta thường có những lựa chọn sai lầm trong hầu hết mọi tình huống. Giống như bị quăng quật, quay cuồng giữa cơn bão biển, cuộc sống cũng tương tự vậy, chúng ta phải học cách giữ định tâm giữa những bão tố của đời thường. Cách tốt nhất là tỉnh thức và rộng mở tâm hồn đón nhận khoảnh khắc hiện tại. Như vậy được gọi là chính niệm. Bậc Đại thành tựu giả Milarepa từng nói rằng càng trải qua bão tố thăng trầm của hạnh phúc và khổ đau, càng có cơ hội tu tậpthành tựu giác ngộ trong cuộc đời.

Chúng ta hãy tìm hiểu về ý nghĩa thực sự của tỉnh thức. Thông thường, khi chúng ta nghĩ rằng mình đang trong giây phút hiện tại, thực ra đó là lúc chúng ta đang diễn giải hiện tại, chúng ta suy tưởng về hiện tại thay vì thực sự ở trong khoảnh khắc thuần túy đó. Chúng ta có thể tự nhủ "Phải rồi, mình sẽ chính niệm", ta ngồi và nghĩ “Đúng rồi, mình đang chính niệm đây”. Nhưng như vậy không phải là chính niệm, chẳng qua là chúng ta đang nghĩ về chính niệm mà thôi. Trong khoảnh khắc chính niệm thực sự, thậm chí khái niệm về chính niệm cũng không tồn tại. Chính niệm chỉ đơn giản là sự tỉnh thức trực tiếp, rộng mở. Vì tâm bị che mờ và lớp lớp vọng tưởng nên hiện tại không thể hiển lộ đối với chúng ta. Chúng ta có thể cho rằng mình luôn tỉnh thức, thông thái và khôn ngoan nhưng thực ra phần lớn thời gian chúng ta hành xử như một cái máy. Bấm nút và nhận kết quả. Tâm đầy ắp những suy tưởng về quá khứ hoặc tương lai, kẹt mắc giữa những vọng tưởng, mơ mộng, những câu chuyện được thêu dệt, những ý kiến, những bình phẩm và phán xét – như vậy quá khó có thể buông bỏ những vọng niệm này để chỉ chú tâm vào những gì đang thực sự diễn ra. Vì thế, chúng ta cần thức tỉnh chính mình khỏi cơn mê. Khoảnh khắc mà ta đạt được tỉnh thức - dù cho đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi - ta có thể nhận ra mình đã mê mờ. Trong trải nghiệm của tâm tỉnh thức rộng mở, mọi thứ đều trở nên sáng rõ. Mọi thứ đều thay đổi, đều được chuyển hóa. Ta nhận ra rằng không chỉ bản thân mình mê mờ mà hầu hết những người khác cũng vẫn còn đang vô minh như vậy.

Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại. Ngài bắt đầu với những khai thị về thân - cấp độ thô lậu nhất - bởi thân là trải nghiệm mà tất cả chúng ta đều dễ dàng nhận thấy. Trong lúc sống với thân này, phần lớn thời gian chúng ta không ý thức được về nó, chúng ta hoàn toàn tách biệt với thân. Vì vậy, bước đầu tiên là quay về với hiện tại của thân, chẳng hạn, khi ngồi ta biết mình đang ngồi; khi đứng ta biết mình đang đứng, khi đi ta biết mình đang đi; khi nằm ta biết mình nằm. Chỉ đơn giản như vậy. Chúng ta có thể so sánh việc này như là thức giấc. Nhưng tâm chúng ta chỉ có thể tỉnh thức trong chốc lát rồi lại tiếp tục mê mờ. Thật lạ lùng là tâm luôn muốn ngủ! Do vậy, chúng ta cần nhắc nhở mình trở về với hiện tại bởi đó là khoảng thời gian duy nhất ta thực sự sở hữu. Tất cả những thứ khác đều chỉ là sự phóng chiếu của tâm.

Cách khác để rộng mở tâm hồn trong khoảnh khắc hiện tại là dùng hơi thở. Hơi thở là yều tố liên hệ giữa thân và tâm. Sân hận, sợ hãi, an lạc hay bất kỳ cảm xúc nào mà ta có đều được thể hiện qua hơi thở. Theo truyền thống Phật giáo, hơi thở được ví như con tuấn mã trong khi tâm là người kỵ sĩ. Dù cho thông thường, hít thở là một quá trình tự động, chúng ta hoàn toàn có thể tỉnh thức trong tiến trình này. Và nếu ta có thể thực sự kết nối với hơi thở, hòa nhập vào trong hơi thở, không vọng niệm gì về việc hòa nhập hay kết nối này thì như vậy nghĩa là ta đang thực sự ở trong hiện tại. Bởi hơi thở chính là hiện tại, nó ở ngay đây, trong chính khoảnh khắc này. Khi bạn bị căng thẳng và stress, cách giải tỏa vô cùng thiện xảođiều phục tâm nương theo hơi thở vào ra. Điều này đặc biệt hữu ích khi ta phải xếp hàng chờ đợi hay đang lái xe. Khi phải dừng trước đèn đỏ, ta có thể nóng ruột nhưng nếu suy ngẫm rằng "đây chính là cơ hội tuyệt vời để thực hành", sau đó, ta xoay sự chú ý của mình về hơi thở, tình huống sẽ thay đổi ngay lập tức. Chúng ta sẽ hoan hỷ với viêc chờ đợi này!

Sự thực hành tu tập còn có một cấp độ khác đó là tỉnh giác nhận thức tâm của chính mình. Đây là cấp độ quan trọng nhất đồng thời khó khăn nhất để thực chứng bởi nó cũng là cấp độ vi tế nhất. Tất cả những Đại thành tựu giả yogi trong quá khứ đều cho rằng cốt tủy của việc thực hành là luôn quán sát tâm tại mọi thời điểm. Đây dĩ nhiêncăn bản của việc thực hành tu tập về tâm. Nhưng thế nào là giữ tâm tỉnh giác, sáng suốt? Ví dụ kinh điểnhình ảnh một người ngồi bên bờ sông quan sát dòng nước đang chảy trôi. Ví dụ khác nói về một người chăn cừu khéo léo, thiện xảo chăn dắt bầy cừu của mình.

Thiền định cũng bao gồm cách thức cứng nhắc và cách thức thiện xảo. Theo cách cứng nhắc, hành giả thiền định bằng cách cột chặt tâm mình đề giữ cho nó tỉnh thức, khiến tâm không có lối thoát và trở nên bí bách, căng thẳng. Bạn có thể thấy rằng, khi thiền giả quá gắng sức dồn ép tâm, hậu quả là họ thường bị xáo trộn các nguồn năng lượng bên trong cơ thể - người Tây Tạng gọi đó là "loong”. Khi đó, hành giả thường trở nên bực bội, muốn gào thét. Điều chúng ta cần là tâm thật sự thư giãn, tĩnh tại. Tâm cần trở nên rộng mở, sắc bén và tỉnh giác. Điều đó hoàn toàn khác với trạng thái hôn trầm (tức tâm mê mờ, ngủ gật) hay vọng tưởng (tâm lăng xăng, xao động). Nó cũng không có nghĩa là mọi thứ phải căng thẳng và mọi niệm hiện khởi phải gò ép theo một thứ tự hình thành nhất định. Một cách vô cùng đơn giản, tâm cần được rộng mở và sáng rõ.

Thực tại duy nhất mà ta có được chính là những gì đang diễn ra, ngay tại đây và ngay lúc này. Nếu ta phóng tâm với những mộng tưởng, ký ức, hy vọngsợ hãi, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất thực tại này và toàn bộ cuộc sống của ta chẳng khác gì giấc ngủ của mê mờ triền miên. Chúng ta làm sao có thể biết mình thực sự là ai khi mà mình không bao giờ ở trong thực tại?


Source: Drukpa Vietnam
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 273)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 276)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 377)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 751)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 734)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 849)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 820)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1119)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1343)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1136)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2434)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1831)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3529)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1659)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2596)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2366)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2019)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2975)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2062)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2393)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1822)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1712)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2449)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1525)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2826)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1873)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3804)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2129)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1970)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2520)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4499)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1931)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2827)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1656)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2557)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2644)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2039)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3622)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3079)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2005)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2054)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2382)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2078)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1920)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2463)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2138)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2163)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2576)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3654)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2230)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3332)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3007)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5278)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2625)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3910)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5328)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3864)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2788)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2519)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2733)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant