Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13837)
14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM TU DI SƠN ÐẢNH KỆ TÁN
THỨ MƯỜI BỐN

Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, từ ngoài trăm phật-sát vi-trần-số quốc-độ, mười-phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng một phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng vân tập đến. Mười đại Bồ-Tát là : Pháp-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, Thắng-Huệ Bồ-Tát, Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát, Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Trí-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát, Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát. Cõi nước của các ngài theo thứ-tự là : Nhơn-Ðà-La-Hoa thế-giới, Ba-Ðầu-Ma-Hoa thế-giới, Bửu-Hoa thế-giới, Ưu-Bát-La-Hoa thế-giới, Kim-Cang-Hoa thế-giới, Diệu-Hương-Hoa thế-giới, Duyệt-Ý-Hoa thế-giới, A-Lô-Hoa thế-giới, Na-La-Ðà-Hoa thế-giới, Hư-Không-Hoa thế-giới. Chư Phật ngự trị nơi đó theo thứ tự là : Thù-Ðặc-Nguyệt-Phật, Vô-Tận-Nguyệt Phật, Bất-Ðộng-Nguyệt Phật, Phong-Nguyệt Phật, Thủy-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Nguyệt Phật, Tinh-Tú-Nguyệt Phật, Thanh-Tịnh-Nguyệt Phật, Minh-Liễu-Nguyệt Phật.

Chư Bồ-Tát này đến đảnh-lễ chơn Phật, rồi tùy phương đến, đều riêng hóa hiện tòa sư-tử Tỳ-lô-giá-na-tạng mà ngồi kiết-già trên đó.

Như chư Bồ-Tát vân tập đến đảnh núi Tu-Di nơi thế-giới này, thập-phương thế-giới cũng đều như thế cả, đến danh hiệu, quốc-độ và chư Phật cũng đồng.

Lúc đó đức Thế-Tôn, từ nơi các ngón của hai chưn phóng trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp trong cung của Ðế-Thích ở mười phương thế-giới, Phật và đại-chúng đều hiển hiện cả.

Pháp Huệ Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Phật phóng tịnh quang-minh

Thấy khắp tất cả Phật

Ðảnh núi Tu-Di-Vương

Ở trong điện Diệu-Thắng.

Tất cả Thiên-Ðế-Thích

Thỉnh Phật vào cung-điện

Ðều nói mười kệ hay

Ca ngợi chư Như-Lai.

Trong các đại hội ấy

Bao nhiêu chúng Bồ-Tát

Ðều từ mười-phương đến

Hóa tòa mà an-tọa.

Bồ-Tát trong hội đó

Danh hiệu đồng chúng tôi,

Những cõi từ đó đến

Danh-tự cũng vẫn đồng;

Bổn-quốc chư Như-Lai

Hồng-danh đều cũng đồng,

Bồ-Tát nơi bổn Phật

Tịnh tu hạnh vô-thượng.

Ðại chúng nên quan-sát

Như-Lai tự-tại-lực

Tất cả Diêm-Phù-Ðề

Ðều nói Phật tại đấy.

Chúng tinh-tấn nay thấy Phật

Trụ nơi đảnh Tu-Di

Thập-phương cũng như vậy

Như-Lai tự-tại-lực.

Trong mỗi mỗi thế-giới

Phát tâm cầu phật-đạo

Nương nơi nguyện như vậy

Tu tập hạnh bồ-đề.

Phật dùng nhiều thân hình

Du hành khắp thế-gian

Pháp-giới không chướng ngại

Không ai trắc lượng được.

Huệ-quang hằng chiếu khắp

Ðời tối đều trừ diệt,

Tất cả không sánh bằng

Thế nào lường biết được !

Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Giả-sử trăm ngàn kiếp

Thường thấy đức Như-Lai

Chẳng y chơn-thật nghĩa

Mà quán đấng Cùu-Thế,

Người này chấp lấy tướng

Thêm lớn lưới mê lầm

Giam trói ngục sanh tử

Ðui mù, chẳng thấy Phật.

Quan-sát nơi các pháp

Ðều không có tự-tánh

Tướng nó, vốn sanh-diệt

Chỉ là danh thuyết giả.

Tất cả pháp vô-sanh

Tất cả pháp vô-diệt

Nếu hiểu được như vậy

Chư Phật thường hiện tiền.

Pháp-tánh vốn không tịch

Vô-thủ, cũng vô-kiến

Tánh không, tức là Phật

Chẳng thể nghĩ lường được.

Nếu biết tất cả pháp

Thể tánh đều như vậy

Người này thời chẳng bị

Phiền-não làm nhiễm trước.

Phàm phu thấy các pháp

Chỉ chuyển theo tướng giả

Chẳng rõ pháp vô-tướng

Do đây chẳng thấy Phật.

Ðức Phật lìa ba thời

Các tướng đều đầy đủ

Trụ nơi vô-sở-trụ

Cùng khắp mà bất-động.

Tôi quán tất cả pháp

Thảy đều được rõ ràng

Nay thấy đức Như-Lai

Quyết-định không nghi ngờ.

Pháp-Huệ trước đã nói

Như-Lai chơn-thiệt tánh,

Tôi từ đó rõ biết

Bồ-đề khó nghĩ bàn.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Như-Lai đại trí-huệ

Hi-hữu không sánh bằng

Tất cả những thế-gian

Tư-duy chẳng đến được.

Phàm-phu vọng quan-sát

Chấp tướng chẳng đúng lý

Phật lìa tất cả tướng

Chẳng phải họ biết được.

Kẻ vô-tri mê lầm

Vọng chấp tướng ngũ-uẩn

Chẳng biết chơn-tánh kia

Người này chẳng thấy Phật.

Rõ biết tất cả pháp

Ðều không có tự-tánh

Hiểu pháp-tánh như vậy

Thời thấy Lô-Xá-Na.

Vì do tiền-ngũ-uẩn

Có hậu-uẩn tương-tục

Rõ biết nơi tánh này

Thấy Phật khó nghĩ bàn.

Ví như báu trong tối

Không đèn thời chẳng thấy

Phật-pháp không người nói

Dầu huệ chẳng biết được.

Cũng như mắt bị lòa

Chẳng thấy màu xinh đẹp

Như vậy tâm bất-tịnh

Chẳng thấy các phật-pháp.

Lại như mặt trời sáng

Kẻ mù không thấy được

Tâm không có trí-huệ

Trọn chẳng thấy chư Phật.

Nếu chữa hết bịnh lòa

Bỏ lìa lòng tưởng sắc

Chẳng thấy nơi các pháp

Thời thấy được Như-Lai.

Nhứt-Thiết-Huệ đã nói

Chư Phật Bồ-Ðề pháp

Tôi nghe lời ngài nói

Ðược thấy Lô-Xá-Na.

Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Các pháp không chơn-thật

Vọng chấp là chơn-thật

Cho nên các phàm-phu

Luân-hồi ngục sanh-tử.

Nơi ngôn từ thuyết pháp

Tiểu trí vọng phân-biệt

Vì thế sanh chướng-ngại

Chẳng rõ được tự-tâm.

Chẳng rõ được tự-tâm

Ðâu biết được chánh-đạo

Họ do huệ điên-đảo

Thêm lớn mọi điều ác.

Chẳng thấy các pháp không

Hằng thọ khổ sanh-tử

Người này chưa có được

Pháp-nhãn thanh-tịnh vậy.

Xưa kia tôi thọ khổ

Vì tôi chẳng thấy Phật,

Nên phải tịnh pháp-nhãn

Xem kia chỗ đáng thấy.

Nếu được thấy nơi Phật

Thời tâm không chấp lấy

Người này thời thấy được

Pháp của Phật đã biết.

Nếu thấy Phật chơn-pháp

Thời gọi bực đại-trí

Người này có tịnh-nhãn

Hay quan-sát thế-gian.

Không thấy chính là thấy

Hay thấy tất cả pháp

Nơi pháp nếu có thấy

Ðây thời là không thấy.

Tất cả các pháp-tánh

Không sanh cũng không diệt

Lạ thay đấng Ðạo-Sư

Tự-giác hay giác-tha.

Ngài Thắng-Huệ đã nói

Pháp của Như-Lai ngộ

Chúng tôi nghe Ngài nói

Biết được Phật chơn-tánh.

Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu trụ nơi phân-biệt

Thời hư thanh-tịnh nhãn

Thêm ngu-si, tà-kiến

Trọn chẳng thấy được Phật.

Nếu rõ được tà-pháp

Như thiệt chẳng điên-đảo,

Biết vọng vốn tự chơn

Thấy Phật thời thanh-tịnh.

Có thấy, thời là nhơ

Ðây thời chưa phải thấy

Xa lìa các kiến chấp

Như vậy mới thấy Phật.

Pháp ngôn-ngữ thế-gian

Chúng-sanh vọng phân-biệt

Biết thế đều vô-sanh

Mới là thấy thế-gian.

Nếu thấy 'thấy thế-gian'

'Thấy' là tướng thế-gian

Như thiệt đồng không khác

Ðây gọi người chơn-kiến.

Nếu thấy đồng không khác

Nơi vật chẳng phân-biệt

Thấy này lìa phiền-não

Vô-lậu được tự-tại.

Chỗ chư Phật khai thị

Tất cả pháp phân-biệt

Ðây đều chẳng thể được

Vì pháp-tánh thanh-tịnh.

Pháp-tánh vốn thanh-tịnh

Vô-tướng như hư-không

Tất cả không năng thuyết

Người trí quán như vậy.

Xa lìa nơi pháp-tưởng

Chẳng thích tất cả pháp

Ðây cũng không chỗ tu

Thấy được Ðại-Mâu-Ni.

Như ngài Ðức-Huệ nói

Ðây gọi là thấy Phật;

Chỗ có tất cả hạnh

Thể-tánh đều tịch-diệt.

Lúc đó Thiện-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Hi-hữu đại dũng-kiện

Vô-lượng chư Như-Lai

Ly-cấu tâm giải-thoát

Tự độ hay độ người.

Tôi thấy Thế-gian-Ðăng

Như thật chẳng điên-đảo

Như trong vô-lượng kiếp

Bực đủ trí chỗ thấy.

Tất cả hạnh phàm-phu

Ðều mau về diệt tận

Tánh nó như hư-không

Nên nói là vô-tận.

Người trí nói vô-tận

Ðây cũng không chỗ nói.

Vì tự-tánh vô-tận

Ðược có nan-tư tận.

Trong chỗ nói vô-tận

Không chúng-sanh được có

Biết chúng-tánh như vậy

Thời thấy Ðại-Danh-Xưng.

Không thấy nói là thấy

Vô-sanh nói chúng-sanh

Hoặc thấy, hoặc chúng-sanh

Rõ biết không thể-tánh.

Năng-kiến cùng sở-kiến

Kiến-giả đều khiển trừ,

Chẳng hoại nơi chơn-pháp

Người này rõ biết Phật.

Nếu người rõ biết Phật

Và pháp của Phật nói

Thời hay chiếu thế-gian

Như Phật Lô-Giá-Na.

Chánh-giác khéo khai thị

Ðạo một pháp thanh-tịnh,

Ðại-Sĩ tinh-tấn huệ

Diễn nói vô-lượng pháp.

Hoặc có hoặc không có

Tưởng niệm này đều trừ

Như thế thấy được Phật

An-trụ nơi thiệt-tế.

Lúc đó Trí-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Tôi nghe pháp tối-thắng

Liền sanh trí-huệ quang

Chiếu khắp mười-phương cõi

Ðều thấy tất cả Phật.

Trong đây không chút vật

Chỉ có danh-tự giả

Nếu chấp có ngã nhơn

Thời là vào đường hiểm.

Những phàm-phu chấp trước

Chấp thân là thiệt có

Phật chẳng phải sở-thủ

Họ trọn chẳng thấy được.

Người này không huệ-nhãn

Chẳng thể thấy được Phật

Ở trong vô-lượng kiếp

Lưu chuyển biển sanh-tử.

Hữu-tránh nói sanh-tử

Vô-tránh là niết-bàn

Sanh-tử và niết-bàn

Cả hai chẳng nói được.

Nếu theo danh-tự giả

Chấp lấy hai pháp này

Người này không đúng thật

Chẳng biết Phật diệu-đạo.

Nếu móng tưởng như vầy :

'Ðây Phật, đây tối-thắng'

Ðiên-đảo chẳng phải thật

Chẳng thấy được Chánh-giác.

Biết được thật thể này

Tướng chơn-như tịch-diệt

Thời thấy đấng Chánh-Giác

Vượt khỏi đường ngữ-ngôn.

Ngôn ngữ nói các pháp

Chẳng hiển được thiệt-tướng

Bình-đẳng mới thấy được

Như pháp, Phật cũng vậy.

Thời quá-khứ chư Phật

Vị-lai và hiện-tại

Dứt hẳn gốc phân-biệt

Thế nên gọi là Phật.

Chơn-Thật-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Thà thọ khổ địa-ngục

Ðược nghe hồng-danh Phật

Chẳng thích vô-lượng vui

Mà chẳng nghe danh Phật.

Sở-dĩ nơi thời xưa

Chịu khổ vô-số kiếp

Lưu chuyển trong sanh-tử

Vì chẳng nghe danh Phật.

Với pháp chẳng điên-đảo

hiện chứng như thật

Lìa các tướng hòa hiệp

Gọi là Vô-Thượng-Giác.

Hiện chẳng phải hòa hiệp

Khứ, lai cũng như vậy

Tất cả pháp vô-tướng

Ðây là chơn-thể Phật.

Nếu quán được như vậy

Các pháp nghĩa thậm-thâm

Thời thấy tướng chơn thật

Pháp-thân của chư Phật.

Nơi thật thấy chơn-thật

Chẳng thật thấy chẳng thật

Hiểu rốt ráo như vậy

Cho nên gọi là Phật.

Phật-pháp chẳng giác được

Rõ đây gọi 'giác pháp'

Chư Phật tu như vậy

Một pháp bất-khả-đắc.

Biết do một nên nhiều

Biết do nhiều nên một

Các pháp không chỗ tựa

Chỉ do hòa hiệp khởi.

Không năng-tác, sở-tác

Chỉ từ nghiệp tưởng sanh

Tại sao biết như vậy

Vì khác đây không có.

Tất cả pháp vô-trụ

Ðịnh-xứ bất-khả-đắc

Chư Phật trụ nơi đây

Rốt ráo không dao động.

Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Ðấng đại-thừa vô-thượng

Xa lìa tưởng chúng-sanh

Không có ai hơn được

Nên hiệu là Vô-Thượng.

Chỗ chư Phật đã được

Vô-tác, vô-phân-biệt

Thô-thần-thông vô-sở-hữu

Vi-tế cũng như vậy.

Cảnh chư Phật sở-hành

Trong đó không có số

Là chơn-pháp của Phật.

Như-Lai quang chiếu khắp

Diệt trừ những tối-tăm

Quang này chẳng có chiếu

Cũng chẳng phải không chiếu.

Nơi pháp không chỗ chấp

Không niệm cũng không nhiễm

Không trụ không xứ sở

Chẳng hoại nơi pháp-tánh.

Trong đây không có hai

Cũng lại không có một

Bực đại-trí thấy đúng

Kheó an-trụ thật lý.

Trong không, không có hai

Không hai cũng như vậy

Tam-giới tất cả không

Là chỗ thấy chư Phật.

Phàm-phu không hay biết

Phật khiến trụ chánh-pháp

Các pháp vô-sở-trụ

Ngộ đây thấy tự thân.

Chẳng thân mà nói thân

Chẳng khởi mà hiện khởi

Không thân cũng không thấy

Là Phật-thân vô-thượng.

Như ngài Thật-Huệ nói

Chư Phật diệu pháp-tánh

Nếu người nghe pháp này

Sẽ được thanh-tịnh-nhãn.

Lúc đó Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Vĩ-đại ! quang-minh lớn

Bực vô-thượng dũng kiện

Vì lợi ích quần-sanh

xuất hiện thế-gian.

Phật dùng tâm đại-bi

Quan-sát khắp chúng-sanh

Thấy ở trong ba cõi

Luân-hồi thọ nhiều khổ.

Chỉ trừ đấng Chánh-Giác

Ðấng Ðạo-Sư đủ sức

Tất cả các Trời Người

Không ai cứu hộ được.

Nếu chư Phật Bồ-Tát

Chẳng xuất hiện thế-gian

Thời không một chúng-sanh

Có thể được an-lạc.

Như-Lai đẳng-chánh-giác

Và các chúng Thánh Hiền

Xuất hiện ở thế-gian

Cho chúng-sanh được vui.

Nếu ai thấy Như-Lai

Vì được lợi hành lớn

Nghe hiệu Phật sanh tin

Thời là tháp thế-gian.

Chúng tôi thấy Như-Lai

Vì được lợi ích lớn

Nghe diệu-pháp như vậy

Ðều sẽ thành Phật-đạo.

Chư Bồ-Tát quá-khứ

Do thần-lực của Phật

Ðược huệ-nhãn thanh-tịnh

Rõ cảnh-giới chư Phật.

Nay thấy Lô-Xá-Na

Càng thêm thanh-tịnh-tính

Phật-trí không ngằn mé

Diễn thuyết chẳng thể hết.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thảy

Và tôi Kiên-Cố-Huệ

Trong vô-số ức kiếp

Cũng nói chẳng thể hết.

 

************************

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33259)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6551)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11293)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30408)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30438)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7989)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12204)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12266)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11610)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12838)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34793)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9850)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52276)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10756)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10534)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10720)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13092)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16293)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21855)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9628)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7130)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10402)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12768)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12802)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16240)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16540)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13873)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16600)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12136)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13829)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14336)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9220)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11765)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11285)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16334)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14348)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16196)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12701)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12085)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11802)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15671)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11520)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14024)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12020)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12638)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15002)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11966)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13137)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14564)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20730)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13241)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10970)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20717)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14371)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20401)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17669)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14026)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31864)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12023)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant