Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

13. Chương Hiền Thiện Thủ

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8049)
13. Chương Hiền Thiện Thủ

KINH VIÊN GIÁC LUẬN GIẢNG
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

Chánh văn và Lược giải

XIII- CHƯƠNG HIỀN THIỆN THỦ 

Lúc bấy giờ, Bồ tát Hiền Thiện Thủ ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, quì dài chắp taybạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài đã rộng vì chúng con và chúng sanh đời mạt pháp, khai ngộ việc bất tư nghì như thế. Bạch Đức Thế Tôn! Đại thừa giáo này có mấy tên gọi? Làm sao phụng trì? Chúng sanh nương vào kinh này tu tập, được công đức gì? Làm sao khiến con thủ hộ người trì kinh? Lưu bố kinh này đạt đến địa vị nào?”

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Hiền Thiện Thủ rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp, hỏi Như Lai về công đức, danh tự của kinh-giáo như thế. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Hiền Thiện Thủ rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.

“Này Thiện nam tử! Kinh này đã được trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật giảng nói. Ba đời Như Lai đều giữ gìn kinh này, mười phương các Bồ tát đều qui y. Đó là con mắt thanh tịnh của mười hai bộ kinh.

Kinh này gọi là “Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni”, cũng gọi là “Tu Đa La Liễu Nghĩa”, cũng gọi là “Bí Mật Vương Tam Muội”, cũng gọi là “Như Lai Quyết Định Cảnh Giới”, cũng gọi là “Như Lai Tạng Tự Tánh Sai Biệt”. Ông nên phụng trì.

Này Thiện nam tử! Kinh này duy hiển ra cảnh giới của Như Lai, chỉ Phật Như Lai mới tuyên thuyết một cách rốt ráo. Nếu các Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp nương đây tu hành, thì dần dần cũng tăng tiến lên Phật địa.

Này Thiện nam tử! Kinh này gọi là Đốn giáo Đại thừa, tiếp độ chúng sanh đốn cơ. Chúng sanh đốn cơ nương đây khai ngộ, nhưng cũng nhiếp tất cả các hạng tiệm tu; ví như biển lớn không nhường dòng nho,û cho đến muỗi mòng và thần Tu La, khi uống nước kia đều được no đủ.

Này Thiện nam tử! Giả sử có người thuần dùng bảy thứ báu chứa khắp Tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, không bằng một người nghe tên kinh này và hiểu nghĩa được một câu. Này Thiện nam tử! Ví như có người giáo hóa cho trăm hằng hà sa chúng sanh đắc quả A-la-hán, không bằng người giảng nói kinh này, phân biệt nửa bài kệ.

Này Thiện nam tử! Nếu lại có người nghe tên kinh này, lòng tin chẳng nghi, phải biết người này không phải chỉ gieo trồng phước và huệ nơi một hay hai vị Phật, mà đã từng nghe kinh giáo này, trồng các thiện căn khắp hằng hà sa tất cả chư Phật.

Thiện nam tử, này ông! Cần phải bảo hộ người tu hành vào đời mạt pháp, không để ác mangoại đạo làm não loạn thân tâm của họ, khiến họ lui sụt.

Khi ấy, trong hội chúng có tám muôn vị Kim Cang, như Hỏa Đầu Kim Cang, Tồi Toái Kim Cang, Ni Giám Bà Kim Cang... cùng các quyến thuộc của họ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sanh đời mạt về sau có thể trì kinh Quyết Định Đại Thừa này, con sẽ giữ gìn họ như giữ con mắt của mình. Cho đến Đạo tràng nơi họ tu tập, Kim Cang chúng con sẵn sàng thống lãnh đồ chúng, sớm tối thủ hộ chẳng cho thối chuyển. Cho đến tư gia,hằng không tai chướng, bệnh tật dứt hết, của báu sung mãn, thường không thiếu thốn”.

Lúc bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương cho đến hai mươi tám vị Thiên VươngTu Di Sơn Vương, Hộ Quốc Thiên Vương... liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện bảo hộ người trì kinh này, thường khiến an ổn, tâm không thối chuyển”.

Lúc ấy, có Đại Lực Quỉ Vương tên Kiết Bàn Trà cùng mười muôn quỉ vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện bảo hộ người trì kinh này, sớm tối giữ gìn khiến không lui sụt. Chỗ ở của người này trong phạm vi một do tuần, nếu có quỉ thần nào xâm hại cảnh giới đó, con sẽ làm cho chúng nát bấy như vi trần!”.

Phật thuyết kinh này rồi, tất cả Bồ tát, Thiên Long, quỉ Thần, bà con của tám bộ và chư Thiên, Phạm Vương... tất cả đại chúng nghe lời Phật nói, thảy đều vui mừng tin, chịu, vâng làm.

Từ đầu bản kinh đến đây, chúng ta đã tiếp xúc với 11 vị Đại Bồ tát, từ Ngài Văn Thù đến Ngài Viên Giác. Đó là phần chánh tông của kinh. Chương Hiền Thiện Thủ là phần lưu thông, cũng là chương cuối cùng.

Đại ý bổn chương, Bồ tát Hiền Thiện Thủ thưa thỉnh Đức Phật chỉ dạy 5 điều nhằm làm lợi ích cho chúng sanh đời sau. Những câu hỏi này nói lên tấm lòng bao dung của Ngài, muốn chánh pháp lưu truyền mãi mãi. Hiền là địa vị gần bậc Thánh, có nơi gọi là Á-Thánh; Thiện là tùy thuận với lý tánh tuyệt đối, là chỗ gần đến cứu cánh; Thủ là đứng đầu. Việc truyền bá kinh giáo để làm lợi lạc quần sanh, khiến những người lành thuận theo Viên Giác tiến lên Thánh vị, là việc thiết yếu bậc nhất. Vì vậy, người đứng lên thưa hỏi điều này phải là Ngài Hiền Thiện Thủ.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Hiền Thiện Thủ ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, quì dài chắp taybạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài đã rộng vì chúng con và chúng sanh đời mạt pháp, khai ngộ việc bất tư nghì như thế”: Trong suốt pháp hội, Đức Phật đã vì đại chúngchúng sanh đời mạt pháp khi nói cao, lúc nói thấp, khi nói Đốn, lúc nói Tiệm, đều qui về một điểm cùng tột: Đó là tự tánh Viên Giác sẵn đủ của mỗi người. Qui thú về Giác tánh là trả lại sự tự do tuyệt đối cho con người, lấy con người làm trọng tâm của sự giác ngộ, đưa con người trở lại bản vị là đồng đẳng với chư Phật, Bồ tát mười phương. Vì vậy, Bồ tát Hiền Thiện Thủ mới tán thán Đức Phật đã khai ngộ cho chúng hội việc bất tư nghì như thế.

Bạch Đức Thế Tôn! Đại thừa giáo này có mấy tên gọi? Làm sao phụng trì? Chúng sanh nương vào kinh này tu tập, được công đức gì? Làm sao khiến con thủ hộ người trì kinh? Lưu bố kinh này đạt đến địa vị nào?”

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần”: Ngài Hiền Thiện Thủlòng từ bi, muốn chúng sanh đời sau cũng được nghe những điều không thể nghĩ bàn như các vị trong pháp hội này, để biết con đường trở về với Giác tâm thanh tịnh của chính mình. Do vậy, Ngài nêu ra 5 câu hỏi, nhờ Đức Phật giải đáp:

1- Danh tự: Bản kinh này có mấy tên gọi?
2- Phụng trì: Làm sao vâng giữ để theo đó tu hành?
3- Công đức: Những chúng sanh nương vào kinh này tu tập, sẽ được công đức gì?
4- Hộ trì: Tấm lòng của Bồ tát muốn bảo hộ người trì kinh để khỏi thối lui trên đường tu.
5- Lưu bố: Hành giả tu theo Viên giác rốt ráo sẽ đạt đến quả vị nào? 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Hiền Thiện Thủ rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp, hỏi Như Lai về công đức, danh tự của kinh-giáo như thế. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Hiền Thiện Thủ rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.

Này Thiện nam tử! Kinh này đã được trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật giảng nói. ba đời Như Lai đều giữ gìn kinh này, mười phương các Bồ tát đều qui y. Đó là con mắt thanh tịnh của mười hai bộ kinh”: Trước khi trả lời 5 câu hỏi của Bồ tát Hiền Thiện Thủ, Đức Phật đưa ra 4 đặc điểm của kinh, để xác định niềm tin vững chắc cho toàn thể hội chúng. Bốn đặc điểm ấy là:

1- Kinh này không phải chỉ có Phật Thích Ca giảng nói, mà đã được thuyết giảng bởi trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật. Hằng hà sasố cát sông Hằng. Thuở xưa, nền văn minh của Ấn-Độ, kể cả các triết thuyếttôn giáo lớn, đều nằm ở lưu vực sông Hằng. Văn minh cổ đại nằm ở thượng lưu sông, sau đó xuôi dần về phía hạ lưu. Sông Hằng trở nên một biểu tượng để diễn đạt đạo lý, và số cát sông Hằng tượng trưng cho một số lượng vô cùng lớn, không thể tính đếm được.

Mỗi vị Phật đạt đến sự giác ngộ tối thượng, đều chứng triệt Viên Giác, nên các Ngài đều tuyên thuyết về Viên Giác là chỗ cứu cánh. Tuy mỗi vị Phật có thi thiết nhiều phương tiện khác nhau, tùy căn cơtrình độ chúng sanh, nhưng các Ngài đều có một mục đích duy nhất, như kinh Pháp Hoa nói: “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri-kiến-Phật”.

2- Vì thể nhập Viên Giácmục đích tối hậu của người tu, vì Viên Giác là chánh nhơn để viên thành Phật quả, nên ba đời Như Lai đều bảo hộ kinh này, khiến cho tất cả chúng sanh đều được nghe.

3- Những Bồ tát tu theo Viên Giác đều tùy thuận Giác tánh thanh tịnh của chính mình, nghĩa là trở về nương tựa Viên Giác. Vì vậy, Phật nói “Mười phương các Bồ tát đều qui y”.

4- Đây là con mắt thanh tịnh của 12 bộ kinh. 12 bộ kinh hay 12 phần giáo, là các thể loại thường dùng trong kinh điển của Đức Phật. Tất cả kinh điển đều nhằm làm sáng tỏ tánh Viên Giác bản hữu của mỗi chúng sanh. Khi thể nhập Viên Giác, hành giả thông suốt được tất cả kinh điển Tiểu thừaĐại thừa

Kinh này gọi là “Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni”, cũng gọi là “Tu Đa La Liễu Nghĩa”, cũng gọi là “Bí Mật Vương Tam Muội”, cũng gọi là “Như Lai Quyết Định Cảnh Giới”, cũng gọi là “Như Lai Tạng Tự Tánh Sai Biệt”. Ông nên phụng trì”: Đức Phật trả lời câu hỏi thứ nhất, là danh tự của kinh. Do đặc điểmgiá trị của Viên Giác nên kinh được gọi bằng nhiều tên khác nhau:

1- Đại Phương Quảng Viên Giác Đà-La-Ni: Đại là lớn; Phương là nơi chốn, bao gồm cả không gianthời gian; Quảng là rộng, bát ngát; Viên Giác là sự giác ngộ viên mãn; Đà-La-Ni tức Tổng trì, là bao trùm. Tên này ám chỉ tánh Viên Giác gồm chứa muôn pháp hữu vivô vi, thế gianxuất thế. Tánh Giác có nghĩa lý mênh mông bát ngát, sâu xa vi diệu, không thể đem tình thức mà lường được.

2- Tu-Đa-La Liễu Nghĩa: Tu-Đa-La tức là kinh, nguyên nghĩa là sợi chỉ. Kinh gồm hai ý: Khế lý và Khế cơ, nghĩa là lúc nào cũng phù hợp với chân lý tuyệt đối nên bất biến (khế lý); nhưng tùy tình huống, tùy thời đại, tùy trình độnhân sinh quan của người nghe mà thay đổi cho thích hợp, đó là tùy duyên (khế cơ).

Chính vì tùy duyên hóa độ, nên Phật phải dùng quyền biến phương tiện, dùng thuốc đối trị để dẫn dắt chúng sanh cănthấp kém. Các kinh dạy chúng sanh tu theo Nhơn-Thiên-thừa hay Thanh Văn, Duyên Giác thừa đều là kinh Bất liễu nghĩa, vì mới dừng ở Niết bàn Hóa-thành, chưa phải là Bảo-sở. Trái lại, những kinh diễn tả chân lý tối hậu là tất cả chúng sanh đều có chân tâm thường trụ sẵn đủ, bình đẳng với chư Phật-Bồ tát, là kinh Liễu-nghĩa, trực chỉ đến đất Như Lai, đó là Phật thừa.

3- Bí mật Vương Tam Muội: Tam muội được dịch là Chánh định, Chánh thọ... Viên Giác Tam-Muội rất sâu mầu, vi diệu hơn tất cả các tam muội khác, nên gọi là “Vương”. Lại nữa, tánh Viên Giác tuy sẵn đủ ở mọi chúng sanh, nhưng thấu triệt được chân lý tột cùng này chỉ có mười phương chư Phật; ngay cả Bồ tát Đẳng Giác cũng chưa hiểu thấu, cho nên nói “Bí-mật”.

4- Như Lai Quyết Định Cảnh Giới: Chỉ có mười phương ba đời chư Phật mới quyết định chứng triệt cảnh giới Viên Giác này.

5- Như Lai Tạng Tự Tánh Sai Biệt: Như Lai Tạng chỉ cho tự tánh thanh tịnh sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Do vọng tưởng chưa dứt, huyễn pháp chưa lìa nên tự tánh còn bị vùi trong lớp vô minh phiền não, gọi là Như Lai tại triền. Nói “sai biệt” vì có hai nghĩa: Một là, tự tánh vốn thanh tịnh nhất như, nhưng do quên đi tánh giác nên chúng sanh tạo nghiệp thành ngàn sai muôn khác; nghiệp chiêu cảm khác nhau nên có thân sai biệttự tánh sai biệt. Nghĩa thứ hai là, khi thể nhập tự tánh, Bồ tát phát khởi diệu dụng bất khả tư nghì để giáo hóa chúng sanh, gọi là Sai biệt trí; cho nên, thể của tự tánhnhất như, nhưng dụng thì sai biệt.

Như vậy, Đức Phật đã gọi bản kinh này bằng 5 tên, đều nói đến tự tánh Viên Giác sẵn đủ ở mỗi người. Tên thứ nhất có ý nghĩa hơn cả, nên sau này kinh được truyền tụng theo tên ấy, gọi tắt là Kinh Viên Giác

Câu cuối của đoạn này, Phật bảo “Ông nên phụng trì”, có thể xem như lời hứa giải đáp cho câu hỏi thứ hai, ở phần sau.

Này Thiện nam tử! Kinh này duy hiển ra cảnh giới của Như Lai, chỉ Phật Như Lai mới tuyên thuyết một cách rốt ráo. Nếu các Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp nương đây tu hành, thì dần dần cũng tăng tiến lên Phật địa”: Đức Phật trả lời câu hỏi thứ 5 trước. Kinh này duy nhất nhằm hiển bày cảnh giới của Phật. Đây là chỗ giác ngộ tột cùng mà chỉ có Như Lai mới thấu triệt được và diễn tả được cạn nguồn; còn các quả vị khác, dù tuyên thuyết được kinh này nhưng cũng chỉ được một phần, nhiều hay ít tùy trình độ tu chứng và sự thấu hiểu của vị ấy cao hay thấp mà thôi. Tuy vậy, nếu các Bồ tátchúng sanh đời mạt tùy thuận Giác tánh, cố gắng gia công tấn hạnh thì lần lần cũng viên thành Phật đạo. Ởû đây, Đức Phật lại một lần nữa, xác định hướng đi của kinh: Hành giả lúc đầu nhận ra tánh Viên Giác, dần dần đạt mục đích tối hậucảnh giới Như Lai.

Này Thiện nam tử! Kinh này gọi là Đốn giáo Đại thừa, tiếp độ chúng sanh đốn cơ. Chúng sanh đốn cơ nương đây khai ngộ, nhưng cũng nhiếp tất cả các hạng tiệm tu; ví như biển lớn không nhường dòng nhỏ, cho đến muỗi mòng và Thần Tu La, khi uống nước kia đều được no đủ”: Đây là lời đáp cho câu hỏi thứ hai. Chủ ý của bản kinhchỉ thẳng tâm Viên Giác, ai nhận ra và hằng sống được là cùng chư Phật bình đẳng, vì vậy gọi là Đốn giáo Đại thừa. Ví dụ trong chương Văn Thù, Đức Phật dạy phải dùng Căn bản trí để Biết - chỉ Biết mà thôi (Tri thị không hoa tức vô lưu chuyển, Diệc vô thân tâm thọ bỉ sanh tử). Đến chương Phổ Hiền, Phật dạy phải dùng Như huyễn tam muộicốt lõi của chương là hai câu “Tri huyễn tức ly bất tác phương tiện, Ly huyễn tức giác diệc vô tiệm thứ”. Rõ ràng kinh này tiếp độ cho những bậc thượng căn thượng trí, một nghe ngàn ngộ. Còn chúng ta nghe rồi mờ mịt, biết làm sao tu hành? 

Đến đây, một lần nữa chúng ta lại thấy lòng từ bi của Phật và các vị Đại Bồ tát trong pháp hội. Vì những chúng sanh cănthấp kém ở đời mạt pháp mà các Bồ tát đứng lên thưa hỏi Phật về những phương tiện tu hành; và Đức Phật đã giảng bày cặn kẽ về những pháp môn tiệm thứ. Cho nên, kinh này vì các bậc đốn cơtuyên thuyết, nhưng cũng không bỏ qua những hạng tiệm tu, nghĩa là dung nhiếp tất cả căn cơ trình độ.

Tiếp theo, Phật dùng thí dụ để giải rõ nghĩa này: Tất cả các con sông, dù lớn hay nhỏ đều chảy ra biển. Biển chỉ cho Giác tánh, các con sông chỉ tất cả phương tiện quyền biến, gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn đối trị với tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não. Mọi phương tiện đều chỉ nhằm một mục đích cuối cùngngộ nhập Viên Giác. Các hàng Thanh văn (muỗi), Duyên giác (mòng), Bồ tát Đại thừa (thần A-tu-la), khi uống nước biển Đại Giác kia đều được hưởng vị giải thoát, nghĩa là dù ở hạng nào, nếu y cứ theo kinh tu tập, cũng đều có kết quả.

Này Thiện nam tử! Giả sử có người thuần dùng bảy thứ báu chứa khắp Tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, không bằng một người nghe tên kinh này và hiểu nghĩa được một câu”: Trả lời cho câu thứ ba về công đức của người thọ trì kinh này, đầu tiên Phật dùng tài thí để so sánh. Một người dùng bảy thứ báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não) chứa đầy khắp Tam thiên đại thiên thế giới (tính ra bằng một tỉ Thái dương hệ) để bố thí, thử hỏi công đức lớn cỡ nào? Vậy mà không bằng người nghe tên kinh này và hiểu nghĩa được một câu. Chúng ta mới nghe qua thấy thật khó tin, nhưng gẫm lại lời Phật, quả sâu xa vô cùng.

Một người dù bố thí bảy báu cùng khắp hư không, nhưng dùng tâm hữu vi sanh diệt, thân ngã tướng sanh diệt và pháp bảy báu sanh diệt ra bố thí, rốt cuộc cũng chỉ là tu phước hữu lậu mà thôi. Gieo nhân hữu lậu thì sẽ nhận quả hữu vi, cao nhất cũng chỉ ở các cõi trời hưởng phước báo; đến khi phước đã tận, vẫn trở lại đọa lạc, không ra khỏi luân hồi. Ngược lại, một người nghe tên kinh, phát tâm tu hành, lần hồi hiểu được một câu thì hạt giống vô lậu thanh tịnh cũng đã in sâu trong tàng thức. Chờ đủ thời tiết nhân duyên, hạt giống nảy mầm, tăng trưởng thành cây và cuối cùng kết quả vô lậu. Cho nên, dù phước huệ phải song tu, nhưng chúng ta phải biết, Phước là quan trọng, còn Huệ lại là quyết định, cả hai đều phải lấy vô lậu làm chánh nhơn, nếu muốn đạt đến cứu cánh.

Trong Chứng-đạo-ca, Thiền sư Huyền Giác nói:

Giác tức liễu, bất thi công,
Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng,

Trụ tướng bố thí sanh thiên phước,

Do như ngưỡng tiễn xạ hư không.

Thế lực tận, tiễn hoàn trụy,

Chiêu đắc lai sanh bất như ý.

Tranh tự vô vi thực tướng môn,

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa”.

Trúc Thiên dịch :

“Biết là xong tất, chẳng cần công,
Thảy thảy hữu vi pháp chẳng đồng,

Của cho trụ tướng phước trời hưởng,

Ví như tên nhắm bắn hư không.

Đà bắn hết, mũi tên rơi,

Kiếp sau hận cũ lại bời bời,

Sao bằng tự cửa vô vi ấy,

Một nhảy vào liền đất Như Lai”.

Chứng đạo ca là một bản Anh hùng ca, một Thánh ca của người chứng đạo, chỉ thẳng chỗ giác ngộ tột cùng, theo Tối thượng thừa Thiền. Ngài Huyền Giác đã thấy, chỉ cần Biết là đủ, khỏi phải dụng công, một bước nhảy là vào đất Như Lai, an thân lập mạng. Còn tu phước hữu vi chẳng khác nào bắn mũi tên vào hư không. Phước báo nhơn thiên hưởng hết, kiếp sau lại bị trầm luân, như mũi tên rơi khi đà bắn không còn.

Này Thiện nam tử! Ví như có người giáo hóa cho trăm hằng hà sa chúng sanh đắc quả A-la-hán, không bằng người giảng nói kinh này, phân biệt nửa bài kệ”: Đoạn này, Phật nói về pháp thí. Một người giáo hóa cho hàng trăm hằng hà sa chúng sanh được quả A-la-hán, thì công đức Pháp thí lớn đến độ nào? Vậy mà không bằng một người giảng kinh này cho người khác am tường, chỉ nửa bài kệ thôi. Người giảng có công đức đã hơn mà người nghe hiểu nửa bài kệ của kinh này vẫn hơn A-la-hán. Điều này có ý nghĩa như thế nào? 

Ở đây, Đức Phật muốn nói đến các vị A-la-hán nhập diệt-tận-định rồi an thân lập mạng nơi Niết bàn Hóa thành, thối chí độ sanh. Các vị này sa vào chỗ trầm không trệ tịch, tiêu nha bại chủng. Các hàng Thanh văn nhận Hóa-thành làm Bảo-sở, dĩ nhiên không thể bằng người tu theo Đại thừa, vừa tự lợi vừa lợi tha, dù người này đang còn trên đường đạo, nhiều tập khí phiền não. Ví dụ, người có bằng Tú-tài ra làm việc, hiện tại có vẻ hơn một sinh viên đang học Y khoa vì có việc làm, có lương bổng. Nhưng trong tương lai, khi người sinh viên tốt nghiêp trở thành Bác sĩ, thì anh Tú tài không sao bì kịp. Cũng vậy, một vị A-la-hán đã thoát ly sanh tửđức độ phạm hạnh cao hơn nhiều so với một Bồ tát đang giáo hóa chúng sanh, thói phàm chưa dứt. Nhưng Bồ tát đang đi trên đường đến quả vị Phật thì chắc chắn trong tương lai, vị ấy phải hơn A-la-hán nhiều. Thật ra, con đường đến Phật quả rất xa xôi diệu vợi, người hành Bồ tát đạo phải trải qua vô lượng kiếp mới thành. Nhưng tâm hồn vị ấy trước tiên đã cao thượng hơn những người chỉ biết lợi ích cho riêng mình, vì đại từ đại bi thương muôn loài chúng sanh bình đẳng, vì đại nguyện lăn lộn trong ba cõi sáu đường để hành hạnh lợi tha, và vì đại quả là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Thiện nam tử! Nếu lại có người nghe tên kinh này, lòng tin chẳng nghi, phải biết người này không phải chỉ gieo trồng phước và huệ nơi một hay hai vị Phật mà đã từng nghe kinh giáo này, trồng các thiện căn khắp hằng hà sa tất cả chư Phật”: Trước khi trả lời câu hỏi thứ tư về việc bảo hộ, Đức Phật nói về những người có lòng tin quyết định đối với kinh này. Chưa hiểu được toàn bộ kinh, mới chỉ nghe tên mà đã sanh lòng tin không thối chuyển, đó là việc hiếm có trên đời. Người ấy đã gieo trồng phước huệ nơi hằng hà sa chư Phật, chứ không phải mới tu ở một hai đấng Như Lai.

Nghe đến đây, chúng ta tự hỏi: Được gặp một vị Phật ra đời là một điều rất khó, vì sao người này lại có cơ hội gặp vô lượng chư Phật để gieo trồng căn lành? - Phật trong đoạn này có nghĩa là Giác. Một đương niệm tỉnh giác là một vị Phật xuất hiện. Người này đã nhiều kiếp tu Đại thừa, từng sống trong tỉnh giác, nên chủng tử Viên Giác đã huân tập trong tàng thức một cách sâu sắc. Kiếp này được nghe nhắc lại, chỉ cần tên kinh thôi, chủng tử đã khởi hiện hạnh, liền phát khởi lòng tin kiên cố.

Thiện nam tử, này ông! Cần phải bảo hộ người tu hành vào đời mạt pháp, không để ác mangoại đạo làm não loạn thân tâm của họ, khiến họ lui sụt”: Trong câu này, Đức Phật vừa trả lời vừa khuyên bảo Bồ tát Hiền Thiện Thủ cùng hội chúng, phải hộ trì những người tu hành vào đời mạt pháp. “Người tu hành” chỉ cho những người nghe tên kinh sanh tín tâm nói trên, cùng tất cả những người tu theo Viên Giác.

Vì sao những người tu hành cần phải được bảo hộ? - Người đang đi trên đường đạo vẫn còn là chúng sanh, phàm tâm chưa đoạn dứt. Lại nữa, tu hành giống như bơi ngược dòng nước, tiến lên đã khó lại còn gặp biết bao chướng ngại từ bên ngoài lẫn bên trong. Đức Phật gọi “ác ma” để chỉ ngũ dục lục trần và “ngoại đạo” tức tà kiến, cả hai đều làm não loạn thân tâm người tu. Do vậy, họ cần được các Bồ tátThiện thần hộ trì, để khỏi thối chuyển.

Khi ấy, trong hội chúng có tám muôn vị Kim Cang, như Hỏa Đầu Kim Cang, Tồi Toái Kim Cang, Ni Giám Bà Kim Cang... cùng các quyến thuộc của họ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sanh đời mạt về sau có thể trì kinh Quyết Định Đại Thừa này, con sẽ giữ gìn họ như giữ con mắt của mình. Cho đến Đạo tràng nơi họ tu tập, Kim Cang chúng con sẵn sàng thống lãnh đồ chúng, sớm tối thủ hộ chẳng cho thối chuyển. Cho đến tư gia,hằng không tai chướng, bệnh tật dứt hết, của báu sung mãn, thường không thiếu thốn”: Do lời Đức Phật dạy, phải hộ trì người tu Viên Giác, nên những vị Hộ pháp đứng lên vâng mệnh hứa làm. Đầu tiên là những vị Thần Kim Cang. Các vị thường đến chỗ những người tu hành đắc lực, tâm an định, để bảo trợ không cho tà ma quấy nhiễu. Thần có quyến thuộc rất đông, tay thường cầm chùy Bảo Sử Kim Cang nên mang tên ấy. Các vị hứa sẽ thống lãnh đồ chúng, sớm tối giữ gìn bảo vệ người trì kinh Viên Giác một cách chu đáo như giữ gìn con mắt của mình, không để cho người tu thối tâm Bồ đề. Lại nữa, đối với tư gia của người ấy, Thần cũng khiến thoát khỏi mọi tai ương, của cải dẫy đầy.

Đoạn này, nếu hiểu theo sự tướng, chúng ta không khỏi nghi ngờ. Bởi vì, rất nhiều người tu hành chân chánh vẫn còn gặp tai nạn khổ ách, ngay cả Phật-Tổ cũng không thoát khỏi nghiệp quả đã gây nhân trong bao đời trước. Lý nhân quả vì thế mới là chân lý tuyệt đối của muôn đời. Ở đây, các thần Kim Cang lại hứa trước Phật như vậy, thì sự thật nằm tại chỗ nào? 

Chúng ta nên hiểu ý ngầm của kinh, tức hiểu theo lý: Người tu Viên Giác, đến một giai đoạn nào đó, tự nhiêndiệu dụng bất khả tư nghì. Do buông tất cả nên được tất cả, tâm an lạc thanh lương bên trong ứng hiện ra bên ngoài, mọi pháp đối với họ lúc ấy đều trở thành những phẩm vật trang nghiêm. Tâm sung mãn nên các pháp biến thành của báu đầy dẫy, thân trở nên mạnh khỏe tráng kiện, bệnh tật ít phát sinh. Trong cuộc sống đời thường, sự liên hệ giữa thân-tâm và cảnh có lẽ chúng ta cũng hơn một lần nhận biết. Cho nên, đối với người tu có kết quả, dù chưa đến rốt ráo, nơi họ vẫn toát ra một cái gì đó bình an tươi mát lạ lùng, và cái nhìn của họ trên mọi sự vật cũng không còn mang tính chủ quan thiên kiến như chúng ta

Lúc bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương cho đến hai mươi tám vị Thiên VươngTu Di Sơn Vương, Hộ Quốc Thiên Vương... liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện bảo hộ người trì kinh này, thường khiến an ổn, tâm không thối chuyển”: Đại Phạm Thiên Vương và hai mươi tám vị Thiên vương là các vị ở cõi trời Sơ thiền Sắc Giới; Tu Di Sơn VươngĐế Thích, chủ cõi trời Đao Lợi; Hộ Quốc Thiên VươngTứ Thiên Vương. Chư Thiên trong pháp hội cũng đảnh lễ Phật và hứa bảo hộ người tu theo Viên Giác, khiến họ không bị lui sụt.

Lúc ấy, có Đại Lực Quỉ Vương tên Kiết Bàn Trà cùng mười muôn quỉ vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện bảo hộ người trì kinh này, sớm tối giữ gìn khiến không lui sụt. Chỗ ở của người này trong phạm vi một do tuần, nếu có quỉ thần nào xâm hại cảnh giới đó, con sẽ làm cho chúng nát bấy như vi trần !”: Đến phiên các Quỉ vương cũng nguyện bảo hộ người trì kinh. Kiết Bàn Trà hay Cưu Bàn Trà thường ở gần loài người, có nhiều thần thông, lại đến nghe Phật giảng kinh nên là loài quỉ thiện. Cổ nhân có câu “Đức trọng quỉ thần kinh”, người có đạo đức thật sự thì cả quỉ thần cũng phải nể sợ. Do vì người tu hành Viên Giác, mang đại nguyện thượng cầu hạ hóa, nên quỉ thần thường xuyên ủng hộ, không để kẻ ác làm hại, đó là điều đương nhiên và dễ hiểu.

Phật thuyết kinh này rồi, tất cả Bồ tát, Thiên-Long, Quỉ thần, bà con của tám bộ và chư Thiên, Phạm vương... thảy đều vui mừng tin, chịu, vâng làm”: Đến đây kết thúc phần thuyết giảng của Đức Phật. Hội chúng gồm các Bồ tát cùng Thiên-Long, quỉ thần, chư Thiên, Phạm Vương... rất đỗi vui mừng vì được nghe những điều hy hữu. Nghe rồi, tin theo kinh Viên Giác và tin ở Giác tánh sẵn đủ của chính mình. Có tin mới có thọ nhận (chịu), cuối cùng vâng làm. Đó gọi là Tín, Thọ, Phụng hành.

Chúng ta ở vào thời mạt pháp, cách xa Đức Phật đã 25 thế kỷ, nhưng hôm nay vẫn còn được nghe những điều chưa từng có, phải biết chúng ta cũng đã có túc duyên với Phật pháp từ bao đời. Học xong chương này, chúng ta lại càng thấy niềm tin của mình được củng cố, không sức gì lay chuyển nổi: Thứ nhất, tin rằng tất cả chúng sanh, dù là hạ đẳng, đều có tâm Viên Giác bình đẳng như nhau. Thứ hai, tin rằng chúng ta đều có khả năng thành Phật, nếu chúng ta đi theo con đường Phật dạy, đi không biết mệt mỏi và không cần biết bao giờ sẽ đến đích. Và cùng tất cả đại chúng trong pháp hội Viên Giác này, khi đã có niềm tin, chúng ta cũng nguyện thọ nhận và vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33121)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6516)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30424)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12156)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12776)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34705)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9824)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10721)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10489)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10693)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10443)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16224)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21803)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7098)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12707)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12758)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16203)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16505)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13833)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16555)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12093)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13778)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9176)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11727)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16276)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16183)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12058)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15639)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14008)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11994)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12604)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14971)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13103)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14507)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20652)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10921)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20665)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14326)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20325)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17610)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31840)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11998)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant