Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 30: Ðoạn Các Duyên Sinh Khởi Ái Dục

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10649)
Chương 30: Ðoạn Các Duyên Sinh Khởi Ái Dục

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG 
HT Thích Phước Tịnh Giảng Giải

CHƯƠNG 30
ĐOẠN CÁC DUYÊN SINH KHỞI ÁI DỤC

Thưa đại chúng,

Chủ đề của chương ba mươi chúng ta đi vào hôm nay là Đoạn Các Duyên Sinh Khởi Ái Dục. Đây là vấn đề được Đức Phật lưu ý nhiều nhất, nó chiếm đến một phần ba nội dung bốn mươi hai chương Kinh và chúng ta đã gặp nhiều lần trong những kỳ học trước.

Với thông số như thế chúng ta có thể nhận thức được rằng Đức Thế Tôn đương thời rất quan tâm đến sinh hoạt tu học của các Tỳ kheo. Và rõ ràng ái dụcvấn đề quan trọng nhất làm trở ngại con đường thực tập, hoặc giúp chúng ta thăng tiến trên con đường tâm linh tùy vào sự thông minh nhận diện và biết cách chuyển hóa của chúng ta. Ái dục thô là sinh hoạt dục bình thường của nhân gian, nhưng với những người tu thì chúng ta quán chiếu vào tầng sâu thẳm của ái dục chứ không phải ở ngoài mặt thô cạn của ái dục.

Bước vào đời sống xuất giachúng ta đã xả ly gia đình, người thân, sống độc thân. Bên ngoài biểu hiện sự thanh tịnh là xả ly dục ái nhưng quan trọng trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương Phật dạy chúng ta loại trừ ái nhiễm, dục lậu trong tâm thức mình.

Trong chương nầy chúng ta sẽ khai thác những duyên tạo thành sự vướng mắc, đắm nhiễm và nổi chìm. Chúng ta cũng khai thác tận gốc rễ của nó tức hạt nhân chính yếu của vấn đề ái dục. Hai điều nầy nằm trong chương ba mươi và ba mươi mốt.

Chương ba mươi có nội dung là loại trừ những tập nhân, những yếu tố phụ thuộc tác động sinh khởi ái dục trong tâm ta.

A. CHÁNH VĂN.

Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, như bị càn thảo, hỏa lai tu tỵ. Đạo nhân kiến dục, tất đương viễn chi.”

Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, như bị càn thảo, hỏa lai tu tỵ. Đạo nhân kiến dục, tất đương viễn chi.”

Đức Phật dạy: “Người tu hành như người mang cỏ khô, lửa đến phải tránh. Người tu chúng ta thấy đối tượng ái dục ắt phải lánh xa.”

B. ĐẠI Ý.

Người tu hãy tinh tế nhận diện và đoạn trừ các duyên sinh khởi ái dục.

C. NỘI DUNG.

1. Các loại nhân và duyên dẫn khởi ái dục.
Thưa đại chúng, ái dục là hạt mầm làm cho chúng ta có mặt trên cuộc đời. Chưa có ai là Thánh, nên người thông minh là người biết ngăn chận những duyên tác động sinh khởi ái dục. Chờ khi ái dục thành lửa cháy mạnh trong tâm thức, ta mới trị liệu thì đã muộn rồi, như thân ta khi bị bệnh không nhận biết để kịp thời chữa trị sẽ phát sinh trầm trọng chữa trị không dễ. Tâm thức chúng ta không giống như thân vật lý; thương tật nơi hình thể vật lý trị lành cũng cần thời gian vết sẹo mới liền được, huống hồ tâm thức tật bệnh cho dù có chửa lành thì vẫn còn những ấn tượng, kỷ niệm thành những vết hằn vô hình khó xóa vô cùng. Bởi lẽ những gì càng tinh tế bao nhiêu thì sức tàn phá của nó lớn bấy nhiêu. Chúng ta hãy ngăn chận từ khi hạt mầm còn rất nhỏ.

Chúng ta lần lượt đi vào bốn duyên và sáu nhân sau đây rồi qui chiếu vào các duyên và nhân làm phát sinh ái dục:

Nhân duyên: là những điều kiện hay những yếu tố trực tiếp đưa đến kết quả. Ví dụ tâm chúng ta đầy ái nhiễm là nhân ở bên trong nhưng không có điều kiện trực tiếp bên ngoài làm phát sinh thì không thể phát sinh được. Ví dụ như một bông hoa, một cảnh vật, một con người, một bản nhạc... tác động làm tâm thức ta vướng vào thì duyên trực tiếp đó gọi là nhân duyên.

Đẳng vô gián duyên: Nếu duyên chỉ xuất hiện một lần, rồi dừng lại và biến mất thì không tạo điều kiện phát sinh ra ái nhiễm. Nhưng nếu duyên nầy nó tái hiện đi, tái hiện lại rất nhiều lần không chịu ra đi gọi là đẳng vô gián duyên. Ví dụ như khi chúng ta phát sinh tâm vướng mắc với một đối tượng nào đó, nhưng đối tượng ấy nửa tháng mới đến một lần thì duyên đó không tạo thành sự vướng mắc. Xuất hiện rồi biến mất, nhạt nhòa đi gọi là “gián duyên” tức duyên đứt quãng, ngăn cách. Nhưng duyên ấy lại có mặt rất thường, đi ra đi vào đều gặp mặt phát sinh ái nhiễm trong ta thì gọi là đẳng vô gián duyên.

Phân tích như vậy để thấy rằng chúng ta loại trừ rất dễ duyên sinh khởi của tâm vướng mắc với đối tượng nào đó. Và khi biết rõ mặt tiêu cực của các duyên hình thành chất liệu chìm đắm đọa đày, thì cũng từ những duyên nầy chúng ta có thể chủ động tiếp xúc, chuyển hóa, giúp mình tăng trưởng, phát triển, nuôi lớn tâm Bồ Đề từng ngày là mặt tích cực.

Dĩ nhiên không có pháp hữu lậu nào không chịu tác động liên tụchiện hữu. Tất cả mọi con đường phiền não đều đi vào từ duyên thứ nhất và duyên thứ hai nầy mà thôi.

Sở duyên duyên: là những điều kiện phụ thuộc vào duyên. Ví dụ như một bông hoa, một người khác phái là duyên chính, nhưng một yếu tố chính chưa đủ làm nên cớ sự, nên phải có nhiều yếu tố phụ đi vào. Những yếu tố phụ ấy giúp cho duyên chính trưởng thành gọi là sở duyên duyên.

Tăng thượng duyên: Là duyên được nuôi lớn từng ngày không dừng lại, ngày càng trưởng thành trong tâm thức. Những yếu tố nuôi lớn phiền não, nuôi lớn tâm thức ái nhiễm của chúng ta thúc đẩy chúng ta đi vào hướng tiêu cực gọi là tăng thượng duyên.

Xin các vị lưu ý bốn duyên nầy có mặt rất rộng, hay nói cách khác là những yếu tố làm duyên sinh khởi ái dục có mặt và phát triển rất dễ. Nếu năng lực chánh niệm ta yếu, hoặc sự quán chiếu lơ là không nhận diện được thì nó mỗi ngày càng lớn mạnh, và dẫn ta lạc nẻo lúc nào không hay.

Trên con đường tu, chúng ta tiến đạo ở bình diện thường như cúng bái, lễ lạc, làm lành lánh dữ, giảng dạy giáo lý, làm từ thiện rất dễ. Nhưng đi vào chiều sâu hướng nội loại trừ ô uế của tâm, chuyển hóa nhận thức của ta, làm cho đời sống mỗi ngày mỗi thăng hoa chúng ta phải vận dụng trí tuệ chứ không có con đường nào khác.

Đạo Phậtđạo trí tuệ, con đường tu chỉ dành cho những con ngườitâm thức tinh tế, bén nhạy, nên Đức Phật đã nói: “Giáo lý của ta là giáo lý giác ngộ. Hãy để cho người có trí đến để tự mình chứng nghiệm.”

Thưa đại chúng, ngoài bốn duyên chúng ta còn có sáu nhân:

Năng tác nhân: là năng lực phát sinh tự hữu của hạt mầm. Ví dụ như hạt mầm của cây thông sinh ra cây thông rất tự nhiên, và hạt mầm của con người thì có khuynh hướng đi tìm kết hợp với một người để sự sống được kế thừa. Cái nhân chính bên trong hạt mầm thúc đẩy gọi là năng tác nhân. Năng tác nhânđộng lực tự hữu trong hạt mầm và năng tác nhân không bị tính chất ngăn trở làm chướng ngại.

Câu hữu nhân: Là những nhân cùng có mặt với năng tác nhân. Nó thôi thúc yểm trợ nhau làm thành vạn hữu.

Ví dụ như hành tinh nầy sức mạnh tự hữu của nó là sinh ra mặt đất, và không gian mênh mông nầy nó cũng có sức mạnh tự hữu là khoảng không nên không chướng ngại cho bất cứ sinh vật nào có mặt. Thế nên nhân nầy còn có tên là cộng sinh nhân. Là những nhân cùng sinh ra trong một lần.

Đồng loại nhân: nhân cùng có một chủng loại. Ví dụ như trong tâm thức của ta có ba loại hạt giống là lành, trung tínhbất thiện. Ba loại hạt giống nầy tương ưng với những duyên nào hợp với nó bên ngoài để phát sinh. Gọi là đồng loại nhân.

Tương ưng nhân: ta có chữ đồng loại là cùng một thể loại. Nhưng tương ưng nhân là khác thể loại mà lại yểm trợ nhau sinh khởi. Do năng lực của hạt mầm nầy rất mạnh lôi kéo kẻ khác giống cùng sinh khởi. Hay nói cách khác là những nhân nào tuy khác với nó nhưng sức mạnh yếu hơn thì nó có thể khuyến dụ làm bạn bè trôi theo hướng với nó để tương ưng cùng nó, gọi là tương ưng nhân.

Biến hành nhân: khác với đồng loại nhân, khác với tương ưng nhân là nó đi cùng khắp nhưng chỉ ở trong lãnh vực phiền não, nhiễm ô, nghi ngờ, sầu khổ, giận hờn, bạo động để liên kết nhau lại gọi là biến hành nhân.

Dị thục nhân: Hạt nhân nầy có khả năng duy trì làm cho những hạt mầm tiêu cực từ đời nầy truyền qua nhiều đời trở thành quả sầu khổ trong tương lai. Có những hạt nhân phát triển hiện tại cho ta quả hiện tại, nhưng có những hạt nhân gieo từ bây giờ phải trải dài qua nhiều kiếp ta mới gặt được quả. Dị thục nhântrải qua khác thời, khác xứ mà thành thục và kết quả.

2. Từ “nhận biết sáng chói” đoạn trừ cội gốc ái dục.

Chúng ta hãy nhận diện đối tượng chính của sáu căn là sáu trần.

Có một thiền sinh hỏi vị thầy của mình là một Thiền sư: “Thưa thầy, làm sao con có thể giải thoát để không vướng mắc, không sầu khổ, không bất an?” Vị Thầy bảo: “Tâm không dính với cảnh thì giải thoát.”

Thưa quí vị, khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với các đối tượng, sự tiếp xúc ấy gọi là lục nhập. Năm căn đầu khi tiếp xúc với năm trần thì chúng ta rất dễ nhận diện, nhưng ý nằm sâu bên trong làm chủ phần lục nhập nầy. Và ý còn có trách nhiệm là tổng hợp phần tiếp xúc của năm căn, trần. Cho nên lục nhập qua xúc, qua thọ đó chỉ là tiếp xúc của năm tầng cạn đưa ra sự định danh, phân loại và làm phát sinh cảm thọ.

Khi quán chiếu vào bình diện sâu hơn ta sẽ thấy rằng sự có mặt của xúc và thọ là do ý thức chen vào làm sinh khởi và dẫn dắt. Ví dụ như mắt khi chạm với sắc màu thì mới chỉ là tiếp xúc đơn thuần ở bình diện nhận biết, chưa phát sinh ái nhiễm gì trong tâm chúng ta cả. Từ lục nhập đến xúc nầy chỉ là sát na rất ngắn; chưa đủ phát sinh điều gì để cho chúng ta ngăn chận, loại trừ. Nhưng khi ý đi vàovận động thì chỉ tích tắc là tâm thức ta bắt đầu hoạt động rất mạnh phát sinh một tràng dài vui, buồn, sầu não, bất an... Tất nhiên khi các cảm thọ sinh khởi thì những gì vui, hạnh phúc chúng ta muốn giữ lại, những gì khó chịu chúng ta muốn loại trừ. Thế là từ cảm thọ đi đến ái, thủ và hữu rồi chìm đắm vào sầu, bi khổ, ưu, não chỉ một bước rất ngắn mà thôi.

Thưa quí vị, giải thoát không tìm ở đâu ra, không phải tìm ở phương trời nào không có bóng người, không có sắc màu, không có âm thanh. Giải thoát hay không, vướng mắc hay không là ngay nơi đây chúng ta nhận diện tất cả sắc màu trước mắt chúng ta, chánh niệm khi nhận biết. Sâu xa hơn nữa là dừng lại ngay nơi sự nhận biết tỉnh sáng hiện tiền, vô ngôn bất động mà đừng để cho tâm thức chúng ta chạy vào, chạy ra, lục lọi khai báo, chạy về quá khứ, hướng đến tương lai thì đó là cách chúng ta cắt được dòng chảy nhân duyên.

Con đường tu chỉ có một điều duy nhất rất nhỏ cho chúng ta thực tập là làm thế nào để mời gọi năng lượng nhận biết tỉnh sáng, vô ngôn bất động lúc tiếp xúc với tất cả sự vật, mà không để cho ý thức phát sinh tiếng nói thì thầm, độc thoại, đối thoại bên trong là chúng ta an trụ được tâm ngay sát na hiện tiền.

Đây là phương pháp loại trừ tất cả những vướng mắc, đắm chìm vào các đối tượng chúng ta tiếp xúc. Khi làm được điều nầy tức khắc ta đoạn được nhân duyên sinh khởi ái dục. Cũng có nghĩa là đoạn được con đường dẫn ta đi vào ba cõi sáu đường ngay trong kiếp hiện tại.

Vào khoảng thế kỷ thứ bảy, thứ tám tại Hàn Quốc có một nhà sư rất lỗi lạc là Ngài Nguyên Hiểu. Nhận thấy tình trạng đạo Phật của đất nước đang hồi suy thoái, nên Ngài phát tâm qua Trung Hoa học đạo, mong rằng mang giáo lý Thiền Tông nhiệm mầu về để chấn hưng Phật pháp. Trên con đường lang thang đến Trung Hoa, đi qua quãng đường dài vắng vẻ Ngài khát nước vô cùng nhưng không có nhà ai để xin nước uống. Trong lúc quá mỏi mệt thì may mắn thay giữa vùng ánh trăng sáng ông thấy một vũng nước bèn vội vàng gục đầu xuống uống, và cảm nhận từng ngụm nước thanh lương mát ngọt như nước Cam Lồ thấm vào thân tâm làm tiêu tán khổ nhọc mệt mỏi bao ngày. Ông nghĩ chắc đây là nước Cam Lồ tịnh thủyBồ tát Quan Thế Âm ban tặng cho mình nên cúi đầu lễ tạ. Rồi bên cạnh tàng cây ông dừng lại ngủ qua đêm.

Sáng mai thức dậy, nhìn quanh thấy vũng nước mình vừa uống tối hôm qua ông giật mình kinh khiếp, lợm giọng; thì ra đó là nước của nửa cái đầu lâu còn đọng lại, chứ không phải nước tinh khiết như mình nghĩ. Ông móc cổ muốn ụa ra nhưng đã qua một đêm đâu còn gì nữa. Ngay khi đó ông ngộ ra được một điều là tâm thức của mình có khả năng kỳ diệu phát sanh được mọi thứ. Và cũng bừng sáng một điều nữa là mọi vật đều do duyên sinh, đều do tâm sinh khởi: Cũng một loại nước mà ông đã uống trong đêm qua thì nghĩ là nước Cam Lồ, sáng đến nhìn thấy nó từ cái đầu lâu thì ông nghĩ nước rất ô uế, dơ bẩn muốn nôn mửa.

Thưa đại chúng, trong sinh hoạt tu tập ở cấp độ cạn nhất cũng là căn bản nhất, ấy là nếu chúng ta đem năng lượng chánh niệm rọi sáng mọi tiếp xúc bên ngoài (màu sắc, âm thanh, mùi vị...) thì ta sẽ không bị nhiễu loạn bởi phiền não, lo âu, sầu đau... Và khi lòng chúng ta đã vững, năng lượng chánh niệm hùng hậu thì những duyên phát sinh ái dục không thể sinh khởi được.

Người xưa có thể an trú giữa phố chợ xôn xao mà tâm vẫn bất động, đi vào thương trường làm những doanh nhân mà không đam mê tiền bạc, sống trong cõi dục mà lòng vô nhiễm, thanh tịnh. Cho nên những lời Kinh nầy do Đức Phật răn dạy để chúng ta tu tập đoạn trừ nhân duyên phát sinh ái dục trong giai đoạn tâm thức còn yếu. Dĩ nhiên chúng ta cần phải tạo nhiều cơ duyên thuận lợi để an trú tâm, để sống với chánh niệm từng phút giây. Nhưng khi chúng ta đã có nội lực tu hùng mạnh thì mọi duyên bên ngoài đều trở thành thắng duyên cho các vị làm đạo. Nếu chúng ta tu tập vững vàng thì dù sống trong rừng hoang, sống giữa hàng ngàn đại chúng, sống giữa phố chợ xôn xao, giữa già lam, tự viện.. cũng không có gì trở ngại, ở đâu cũng tốt giống nhau thôi. Nếu luyện được nội lực thâm hậu, chúng ta sẽ làm chủ mình trong từng hơi thở vào ra, trong từng sát na hiện tiền.

Người xưa có những phương pháp thử nghiệm nội lực của họ có vững hay không. Ví dụ như khi bị lâm vào cơn bệnh rất nặng, lúc đó chính là cơ hội cho họ thử nghiệm lòng mình xem có giữ được chánh niệm vững vàng hay không. Cơn đau bất ngờ đổ ập xuống mà ta vẫn an nhiên không mất chánh niệm. Ta vẫn bình yên, tĩnh tại nhìn cái đau đến với thân ta. Tức là cái đau của ta mà không phải ta đau, thì người đó có nội lực vững mạnh. Khi an trú tâm được nơi vùng trời nhận biết sáng chói ấy là lúc ta có thể thách thức được với tử thần rồi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32609)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11095)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30232)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12588)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52118)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9520)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12528)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11962)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16128)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11950)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17467)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant