Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 35: Thanh Lọc Thân Tâm

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10092)
Chương 35: Thanh Lọc Thân Tâm

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG 
HT Thích Phước Tịnh Giảng Giải

CHƯƠNG 35
THANH LỌC THÂN TÂM

Thưa đại chúng,
Thanh Lọc Thân Tâmchủ đề của chương ba mươi lăm. Chúng ta sẽ đi vào đoạn Kinh với âm Hán văn như sau:

A. CHÁNH VĂN.

Phật ngôn: “Như nhân đoạn thiết, khử chỉ thành khí, khí tức tinh hảo. Học đạo chi nhân, khử tâm cấu nhiễm, hạnh tức thanh tịnh hỷ”

Đức Phật dạy: “Giống như người ta luyện sắt trừ bỏ phần cặn bã để trở thành loại sắt tinh luyện thì món đồ mới đẹp đẽ tinh ròng. Người học đạo cũng như thế, mình luyện lọc từ bỏ tâm ô uế, cáu bẩn thì hạnh mới được thanh tịnh.”

Có hai chữ lạ chúng ta cùng lưu ý là chữ “Đoạn” có nơi gọi là chữ “Đoàn” có nghĩa rèn luyện, lọc cặn bã.

Chữ “Hành” hay chữ “Hạnh” ở đây có rất nhiều nghĩa, nhưng chữ Hành ở đây có nghĩa là thành tựu đạo nghiệp.

B. ĐẠI Ý.

Đoạn kinh nói lên “Sự thành đạt của người tu được đánh giá bằng công phu thanh lọc tâm thức.”

Đại ý nầy cũng cho chúng ta biết sự thành đạt có nhiều tầng đưa đến cho người xuất gia. Từ một ông thầy tu bình thường rồi đến một ông thầy làm trụ trì, khá hơn là làm một vị thầy khả kính, đạo hạnh, một vị giảng sư uyên bác, đức độ. Và đến mức cao hơn là làm vị Đạothành tựu được tuệ giác, thanh lọc được hết ô uế của tâm; cả một đời sống tỏa hương phạm hạnh, tỏa hương giác ngộ. Cuối cùng sự thành đạt người tu là chứng được quả vô sinh hiện tiền như các vị A La Hán thời Phật, hay các vị Tổ sư Thiền quá khứ.

Cố nhiên, ở mặt cạn, muốn trở thành một người tu có phẩm chất tốt làm chỗ nương cho phật tử, tín đồ và làm hưng thịnh Tam Bảo thì công phu thanh lọc tâm rất cần. Một thầy tu mà tâm thức đầy ô nhiễm chắc chắn không làm lợi ích cho mình, cũng không làm lợi ích cho cho tín đồdĩ nhiên không xứng đáng danh nghĩa người tu.

Bao nhiêu tầng của sự thành đạt cũng đều đặt căn bản trên sự thanh lọc tâm thức. Cả một đời tu của chúng ta chỉ làm một việc là thanh lọc tâm mà thôi. Đây là điều rất quan trọng.

C. NỘI DUNG.

1. Thanh lọc, đào thải là nguyên tắc của đời sống.

Ví dụ như khi vo gạo, ta phải chế bỏ nước đục ra nhiều lần cho đến khi chỉ còn nước trong để không còn trấu, cám nữa.

Có hai chữ Hán Việt trong đoạn Kinh này là “Đào thải”. “Đào” có nghĩa là đãi, lọc, luyện. Là dùng nước để gạn lọc những cấu bẩn ra ngoài. “Thải” là loại bỏ những hạt sâu, hạt lép, hạt không nguyên vẹn và loại hết chất dơ đi thì gọi là thải. Hai từ này mang hàm nghĩa là công phu, luyện lọc rất khổ nhọc; đòi hỏi phải đầu tư năng lực và nhiệt tình rất lớn gọi là “đào thải.”

Từ ngày con người có mặt trên hành tinh nầy cho đến bây giờ, con đường chúng tađi lên, càng ngày người ta càng khám phá vào chiều sâu, chiều rộng những cái gì xa nhất, tinh vi nhất cũng đều thăm dò được. Và vì thế quy luật của thanh lọc, đào thải để sự sống vận hành là nhu cầu tất yếu không loại trừ ngành nghề nào cả. Nhìn vào cuộc sống xã hội, chúng ta thấy để phát triển tồn tại thì nguyên tắc chung là khám phá, phát triển và vươn lên. Đó là nhu yếu của đời sống xã hội.

Ví dụ như ngành y khoa ngày xưa là một bộ môn bao quát nhưng về sau càng ngày càng phát triển và đến hôm nay người ta đã chia ra từng ngành và trong mỗi ngành họ còn chia ra từng khoa riêng biệt nhau. Có thể trong tương lai ngành nhãn khoa không bao quát như bây giờ mà từ những khám phá mới của khoa học về thần kinh não bộ người ta có thể chữa trị từng con mắt một. Cũng như ngày xưa người ta quan niệm thần kinh não bộ là một nhưng ngày nay trong bộ não, mỗi bán cầu não có những chức năng khác nhau. Từ hai bán cầu não này sinh ra tính cách con người rất khác nhau. Ví dụ người xử dụng tay trái thì ảnh hưởng của bán cầu não phải phát triển nên người người ấy có khuynh hướng về tâm linh, nghệ thuật. Người xử dụng tay phải nhiều do vì bán cầu não bên trái phát triển nên người ấy có khuynh hướng của toán học...

Từ điều này, nhìn vào mọi lãnh vực để thấy mọi loài càng tiến hóa tinh tế hơn và trong xã hội loài nào không thích ứng thì tự đào thải, tự hủy hoại.

Con người cũng vậy từng tế bào một luôn luôn thay đổi, làm mới. Một cơ thể nào không phát triển theo chiều hướng thanh lọc đào thải thì cơ thể đó chết, năng lực đề kháng không còn. Ví thử vi trùng xâm nhập vào cơ thể ta, nếu chúng ta dùng thuốc trị nó mà không dùng đúng liều lượng thì loại vi trùng đó sẽ tìm cách thích ứng với loại thuốc kia và có khả năng phát triển tồn tại, trở lại hủy hoại hình hài ta. Chỉ một loại sinh vật li ti bám vào một phần cơ thể để sống mà còn có khuynh hướng thanh lọc đào thải để tồn tại, thế thì toàn bộ cơ thể con người chúng talãnh vực cạn là thân cũng đi theo con đường như vậy.

Đây là nguyên tắc không chừa một sinh linh nào cả. Đời sống nào muốn vươn lên đều đi theo quá trình nầy để tự thanh lọc, đào thảitồn tại.

Thưa đại chúng, làm chủ hình hài vật lý này là tế bào thần kinh bộ não cũng phát triển liên tục. Người ta nghiên cứu con người ngày xưa mới có mặt với trọng lượng não bộ lúc ấy, thì thấy bộ não bây giờ phát triển rất vĩ đại không thể lường được. Bên trong não bộ sự hoạt động của ý thức càng ngày càng tinh tế.

Trong cơ thể chúng ta khả năng quân bình của hệ thần kinh giao cảm và thần kinh đối giao cảm rất tuyệt vời. Nó luôn luôn tự tái lập trật tự, tự thanh lọc những trầm cảm, bất an, u sầu... của tâm thức và tự làm dịu bớt đi nên đôi khi chỉ cần năm mười phút nghỉ ngơi chúng ta thấy khỏe nhẹ và thư thái.

Muốn đời sống có phẩm chất, muốn vươn lên để thăng hoa thì đặc tính thanh lọc, đào thải những cấu bẩn của thân tâm là điều tự nhiên mà không vì thời khóa đặt ra hay quy chế của Tu viện bắt buộc nên ta làm. Điều nầy không phải chỉ để dành riêng cho những người trong một tôn giáo nào mà nó là nhu yếu tự nhiên của tất cả sự sống trong hành tinh này.

2. Thanh lọc thân.

Để ứng dụng sự thanh lọc vào thân và làm thế nào để thanh lọc thân, xin quí vị nhớ cho là những gì chúng ta làm cho thân cũng là làm cho tâm. Thân mình an thì tâm mình an, và ngược lại tâm an thì thân chúng ta an. Hai điều nầy hỗ tương có mặt trong nhau. Tâm thức chúng ta an bình thì đời sống chúng ta biểu hiện ra ngoài sự an bình thảnh thơi, và nhìn đời bằng đôi mắt trong sáng. Nếu tâm thức chúng ta nặng nề, bất an, xao xuyến thì cũng thể hiện ra bên ngoài như vậy. Nên pháp chế của Đức Thế Tôn đặt ra cho người tu chúng ta phải gìn giữ thân tâm lúc nào cũng quân bình, không bao giờ thiên lệch một bên nào; xem nhẹ thân mà coi trọng tâm hay ngược lại.

Người đời nhìn người tu chúng ta qua những biểu lộ ra bên ngoài thân ở phong cách là họ đánh giá được đời sống bên trong của tâm thức, rộng hơn người ta đánh giá Phật giáo đang hồi suy vong hay hưng thịnh. Dĩ nhiên chăm sóc thân không có nghĩa là chúng ta làm dáng phô trương chuộng sang, chuộng đẹp. Chăm sóc thân được biểu hiện qua nếp sống của người tu sự giản dị, thanh đạm, và đời sống thanh tịnh vốn dĩ là việc tất nhiên.

Nhìn vào đời sống của Tăng Ni ở những trung tâm tu học người ta thấy ngay thọ mạng dòng chảy của trung tâm đó. Nơi nào biểu lộ ra bên ngoài đời sống chư Tăng Ni đua đòi, ưa chuộng hình thức hào nhoáng chạy theo hướng lợi danh thì đời sống tâm linh ở đó rất thấp, rất nghèo nàn.

Chúng ta chăm sóc thân cũng là chăm sóc tâm và điều cạn nhất là khi chăm sóc thân chúng ta phải cẩn thận trong vấn đề thức ăn. Chúng ta phải khéo chăm sóc và nuôi dưỡng thân mình để phát triển đời sống tâm linh. Nếu không nuôi sống được chúng ta qua cửa thức ăn thì đời sống tâm linh sẽ khó phát triển.

Ngoài thức ăn đi vào miệng chúng ta còn có những loại thức ăn đi vào tai, vào mắt. Hai loại thức ăn nầy có khả năng đi vào nuôi dưỡng đời sống bên trong tâm thức nhiều hơn đời sống hình thể vật lý.

Có những trường hợpchúng ta không được đất trời ưu đãi điều kiện tốt lành thì chúng ta có thể tạo thức ăn thanh khiết cho chính mình bằng phương pháp Đức Phật đã dạy. Như khi ăn, ngồi trước bát cơm, chén nước ta trải tâm từ để quán chiếu trước khi ăn, gửi niệm lành bằng niềm tri ân thì năng lượng tâm thức ảnh hưởng đến thức ăn có khả năng nuôi dưỡng ta rất lớn. Cho nên ngoài món quà rất quí là thức ănthiên nhiên ban tặng cho chúng ta, thì tự chúng ta cũng tạo ra năng lượng tốt lành, thanh tịnh nuôi dưỡng ta trước khi ăn uống. Đó là con đường thanh lọc thân bằng “tư niệm thực” và “bằng thức thực.”

Tôi chia xẻ điều nầy để quí vị lưu ýđoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, và thức thực là những thức ăntính chất nuôi dưỡng thân ta dĩ nhiên quan trọng nhưng quan trọng hơn hết là nuôi dưỡng tâm bên trong.

Ta có thể xử dụng“tư niệm thực” và“thức thực” bằng cách khởi quán chiếu. Trước khi ăn chúng ta vận dụng nguyện lực lành gửi vào trong thức ăn, và khi ý niệm lành được gửi vào thức ăn thì thưa quí vị, tính chất kỳ diệu cùng năng lượng rất lớn của nó có khả năng nuôi dưỡngtrị liệu không những thân mà còn trị liệu tâm chúng ta nữa.

Ví dụ khi chúng ta muốn gửi năng lượng lành đến một người nào, thì qua không gian năng lượng nầy được truyền tãi đến người kia không phải bằng sóng điện mà bằng ý thức. Như chúng ta đã biết tốc độ âm thanh thường chậm hơn ánh sáng nhưng nhanh hơn ánh sáng là sóng ý thức của ta. Ý thức ta khởi tức thì đến ngay với người kia, và bằng tâm thức mạnh, thiện lành như thế nên người nhận cảm thấy bình an, thư thái.

Tôi kể câu chuyện nầy qua kinh nghiệm chính bản thân tôi. Hồi nhỏ tôi là một đứa bé khó nuôi, mẹ tôi không nghĩ là tôi có thể sống đến sáu tuổi. Ở nhà quê thì thuốc thang thiếu thốn nên mỗi lần trị bệnh là Bà cụ bế tôi đi khoảng bốn, năm cây số đến nhà một bà Thầy Mo gọi là “xác cậu Mười” để chữa bệnh.

Bà Thầy đã chữa cho tôi bằng cách phun rượu vào lưng tôi, cầm mấy cây nhang họa vòng vòng xong, bẻ nhang thành từng lọn, bỏ thêm mấy lát gừng, ba ngọn húng cây, ba lá bầu bầu, gói lại thành thang thuốc bảo mẹ tôi đem về nấu để tôi uống. Vậy mà nuôi tôi lành bệnh cho đến mười mấy tuổi.

Thưa đại chúng, bây giờ cùng nhìn lại những điều trên chúng ta thấy có những điều xem quê mùa, hủ lậu như vậy nhưng rất khoa học. Có hai điều làm nên sự lành bệnh của tôi; thứ nhất là người đã chữa bệnh cho tôi có năng lượng rất lành muốn cho đứa bé khỏe mạnh và nhờ bao nhiêu người chung quanh tin tưởng rằng bà Thầy sẽ chữa lành bệnh cho tôi, nhất là trong đó có mẹ tôi và tôi.

Tự thân nơi bà thầy Mo phát khởi một niềm tin rất mạnh là mình có năng lực lớn để trị bệnh. Bà đã gửi năng lượng lành của ý thức mình vào hớp rượu ngậm trong miệng và phun vào lưng đứa bé để làm nên điều kỳ diệu. Thứ hai Bà cụ cũng tin như vậy và bản thân tôi cũng tin khi uống bát nước nấu từ mấy lát gừng, mấy ngọn rau húng, mấy lá bầu kia sẽ lành bệnh. Cho nên cách trị liệu đó, thưa không phải là vấn đềvấn đềniềm tin của bao nhiêu người bên ngoài, trong gia đình, năng lượng từ người thầy và nhất là bản thân người bệnh đã tự trị liệu mình.

Đức Phật từ ngàn xưa đã dạy chúng ta là mọi động tác của người tu là phải làm bằng con đường khởi quán năng lượng lành để nuôi dưỡng mình và đây là một pháp môn thực tập. Chúng ta có khi học nhiều, tu nhiều nhưng chúng ta quên những điều căn bản nầy. Chúng ta đừng tưởng cầm một ly nước niệm ba tiếng Phật, ba tiếng Bồ Tát hoặc một câu chú là điều không cần thiết. Cho dù chúng ta tu đến trình độ nào thì điều nầy rất cần trong thực tập hàng ngày và xin các vị lưu ý hãy ứng dụng sự thanh lọc nầy vào trong thân quí vị trước.

Người tu không làm được việc cạn nhất như thế nầy thì không thể làm được việc sâu hơn. Luyện lọc tâm tinh tế hơn nhiều và khi chúng ta làm được cho thân thì chúng ta làm được cho tâm.

3. Thanh lọc tâm thức.

Bước vào con đường thanh lọc tâm khó hơn gấp nhiều lần so với việc thanh lọc thân. Khó hơn vì chúng ta không cảm nhận được những chuyển biến của nó. Hơn nữa tâm vốn vô hình, chúng ta không thể đo lường khả năng phát triển, tôi luyện nó đến mức nào để được tâm trong sạch không cáu bẩn. Cho nên trên bước đường luyện tâm, thanh lọc tâm người ta dễ bỏ cuộc, dễ chán, dễ quay lưng.

Từ khó khăn nầy, chúng ta nên lưu ý điều đầu tiên là khởi phát nhu yếu luyện tâm thức và thanh tẩy nó. Chúng ta làm thế nào để đốt lên ngọn lửa đam mê trong tim mình thì mới có năng lực làm được công việc nầy. Nếu không chúng ta khó có khả năng đeo đuổi con đường nầy lâu, tu chơi chơi ít lâu rồi bỏ cuộc. Nhiều khi lỡ khoác áo người tu rồi thì bất đắc dĩ tu luôn cả đời nhưng thực tế thì không tu gì cả.

Thưa quí vị, nếu một thỏi sắt mà chưa được thanh lọc, chưa tôi luyện thì sắt kia không làm thành một vật dụng tốt được. Dù là vàng nhưng chưa luyện, lọc sạch quặng bên trong thì không thể làm thành một món nữ trang giá trị, đẹp được. Kim cương là loại khoáng chất được cho là quí nhất, cứng nhất nhưng nếu có một viên kim cương bên trong có tí bọt thì viên kim cương bị mất giá ngay. Nguyên tắc trong đời sống là như vậy, cái gì luyện được tinh sạch mới có giá trị.

Người tu chúng ta cũng vậy, tâm thức chúng ta mà chưa thanh lọc được thì chỉ làm một ông thầy tu hay một ni cô cơm cháo qua ngày thôi.

Con đường thanh lọc tâm thức nhắc nhở chúng ta trong cuộc đời muốn xứng đáng là con của đức Thế Tôn thì luyện tâm thức là điều tất yếu. Chúng ta không có lý do gì khước từ sự thực tập, chỉ có một điều là chúng ta có chịu tu hay không mà thôi.

Tu hay luyện tâm là đem tâm mình về lại để nhận biết từng việc mình làm. Chúng ta có trọn thì giờ cả một ngày để thực tập điều nầy chỉ trừ khi ta không muốn tu. Đi một bước thực tập, thở một hơi vào ra thực tập, uống một hớp nước thực tập... Không ai lấy bước chân của quí vị, không ai lấy hơi thở của quí vị, chỉ có cái đầu của quí vị không chịu tu thôi.

Cách thứ nhất để chúng ta thanh lọc tâm thức là thanh lọc ý niệm trước. Chữ ý niệm nầy trong văn học duy thức còn gọi là tác ý. Tác ý là khởi ý. Có hai trường hợp khởi ý: khởi ý có chủ động và khởi ý không có chủ động. Thường thường không chủ động chúng ta dễ đi lạc vào hướng tiêu cực (phi như lý tác ý), và hướng chủ động thì đưa chúng ta vào chiều tích cực (như lý tác ý).

Muốn thanh lọc ý niệm, đầu tiên chúng ta nên áp dụng phương cách làm khởi phát trong tâm thức ta ý niệm lành. Nếu có một ý niệm tiêu cực phát sinh chúng ta phải tức khắc đưa ra khởi ý tích cực theo kèm, và ý niệm lành khởi lên chắc chắn môi trường sống của chúng ta an bình, hạnh phúc. Nếu không có nhu yếu thanh lọc tâm thì chúng ta để mặc cho tác ý tiêu cực dẫn ta nổi chìm vào ngõ tăm tối của nhân gian. Dĩ nhiên, tất cả ý niệm là những đứa con của chúng ta, là những hóa thân của chúng ta cho ra cuộc đời. Quí vị nên nhớ là ý niệm một khi sinh khởi thì không bao giờ mất đi, khả năng của nó đọng lại trong không gian bên ngoài, trong tâm thức chúng ta. Do vậy, thanh lọc ý niệm là bước căn bản của thiền nhân.

Bước vào mức độ sâu hơn chúng ta không cần khởi ý niệm lành gì cả mà chúng ta cần có khả năng nhận biết sự có mặt của niệm khởi. Ở tầng nầy đòi hỏi khi bất cứ sinh khởi nào của ý niệm có mặt thì ta không phải là người sinh khởi ý niệm nữa; mà ta là người nhìn thấy một cách khách quan từng ý niệm có mặt trong ta. Tầng nầy chúng ta gọi là tầng nhận biết sự có mặt của ý niệm. Khi chúng ta làm được điều nầy thì chúng ta đã có định lực rất vững vàng.

Chúng ta chỉ làm mỗi một việc nhận diện đơn thuần thôi. Nhận diện rõ thực tánh sinh diệt, đến đi của ý niệm là ta đang làm công việc thanh lọc tâm thức ở tầng sâu nhất, tuyệt vời nhất. Và chắc chắn một điều là tất cả những nghiệp thức xấu ác, ô nhiễm... từ vô thỉ kiếp hoàn toàn cạn sạch như khi chúng ta nghiêng bình trút hết những cặn bã, cáu bẩn ra ngoài.

Thưa đại chúng, sự thanh lọc tâm thức đơn giản mà lại sâu sắc nhất là chúng ta luôn luôn có mặt với sự nhận biết tỏa sáng những gì đang xẩy ra; từ tiếp xúc bên ngoài của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tiếp xúc với các đối tượng. Rồi quay vào bên trong thì cũng luôn có mặt nhận diện những cảm thọ, tâm hành của mình sinh khởi, và sâu hơn là những suy tư, ý niệm.

Con đường nầy các bậc Thánh quá khứ đã từng đi vàohiện tiền chứng nghiệm Thánh vị A La Hán. Truyền thống Thiền Trung Hoa các bậc Thầy, các vị Thiền sư cũng theo con đường nầy thực tập quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp chứng nghiệm giải thoát ngay trong hiện đời.

Chúng ta đang đi trên con đường nầy, con đường Thiền quán. Chúng ta cần phải có nhiệt tình tu, có niềm đam mê thực tập sự thì thành công sẽ có mặt.

Nữ thiền sư cư sĩ Dipama dạy thiền sinh rằng: “Sự tỉnh thức chánh niệm chỉ giản dị là luôn có mặt với những gì đang xẩy ra”. Đây chính là tiêu ngữ cho những người đang đi trên con đường thiền tập.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33306)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6562)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11309)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30422)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30448)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7996)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12225)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12271)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11622)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12853)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34814)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9860)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52286)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10767)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10540)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10730)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13098)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16308)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21870)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9638)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7139)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12784)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12808)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16254)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16549)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13881)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16616)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12144)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13855)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14342)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9227)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11769)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11291)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16354)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14369)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16212)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12703)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12099)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11808)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11528)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14032)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12681)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11977)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13143)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14570)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20747)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10980)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20736)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14380)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20411)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17678)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14039)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31871)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12030)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant