Tựa
và Mục Lục
Phần
Một
I.
Dẫn nhập
II.
Những bằng cứ chứng minh Trung A-hàm thuộc Nhất thiết hữu
bộ
III.
Vài đặc điểm của Nhất thiết hữu bộ và Thượng tọa
bộ
IV.
Tương quan giữa Trung A-hàm và Trung bộ
Phần
Hai - Những điểm đồng và dị giữa bản Hán tạng
và bản Pàli
Chương
I: Sự phân loại thành phẩm và kinh
Chương
II: Ni Đà Na
Chương
III: Vai trò các nhân vật trong kinh
Chương
IV: Giáo lý
Chương
V: Đức Phật
Chương
VI: Tăng già hay đoàn thể tỷ kheo
Chương
VII: Kệ tụng
Chương
VIII: Các ẩn dụ hay ngụ ngôn
Chương
IX: Phần kết các kinh
Phần
Ba - 15 mẫu nghiên cứu tỷ giảo giữa các kinh P và C tương
đương
NC1-2-5-6
NC15-17-22
NC26-30
NC31-39
NC40-54
NC
60-61
Phần
Bốn - Phụ lục
Phụ
Lục 1-2-3-4
Phụ
Lục 5-6-7-8
BẢNG
VIẾT TẮT
C
: Trung A-hàm, bản chữ Hán.
NC
: Nghiên cứu so sánh Trung A-hàm và Trung bộ kinh (xem Phụ Lục
5)
P
: Trung bộ kinh, bản chữ Pàli.
S
: chữ Phạn (Sanskrit).
Bảng
viết tắt phần chú thích:
A.M.R.H.
: "Đại
thừa
liên hệ với Tiểu thừa", N. Dutt.
C
: Chữ Hán.
C.A.P.N.
:
"Bản so sánh kinh A-hàm
chữ Hán và Kinh bộ Pali", C. Akanuma.
CMA
:
Trung A-hàm chữ Hán.
C
No 30,vi,18b,3-4 : Kinh
chữ Hán số 30, hộp Tsê số 6, trang 18b, dòng 3 và 4.
C.S.
No
:
Nghiên
cứu so sánh Số... (xem Phụ Lục 5)
D.P.P.N.
:
Tự điển tên riêng Pali.
E.M.B.
:
Phật giáo Nguyên thủy.
F.H.T.T.T.
:
Fu-hsueh-ta-tzu-tien (Phật học Đại từ điển).
H.I.L.
:
Lịch sử Văn học Ấn độ, quyển 2, Winternitz.
JRAS.
:
Bào Hội Hoàng-gia Á-châu.
M.A.
:
Sớ giải Trung-bộ-kinh (Hội kinh-điển Pali).
M.L.S.
:
Trung-bộ-kinh (tiếng Anh).
M.R.E.T.
:
Những bản thảo Phật giáo còn sót lại được tìm thấy
ở Đông Turkestan.
Ms.
:
Trung-a-hàm chữ Phạn.
Mv.
:
Đại-phẩm (ấn bản của Hội PTS)
P
: Pàli
P.E.D.
:
Tự điển Pàli-Anh (Hội PTS).
PMN
:
Trung-bộ-kinh chữ Pàli.
P.
No 2, (I, 89, 7-32) :
Kinh
Pàli số 2, quyển I, trang 89, dòng 7 tới dòng 32.
PTS
:
Hội kinh-điển Pàli.
Q.A.
:
Hỏi và Trả lời.
Rev.
Fr.
: Thưa hiền-giả.
Sarv.
:
Nhất-thiết hữu-bộ.
Sk.
:
chữ Phạn.
S.L.
:
Văn học Nhất-thiết hữu-bộ.
Ther.
:
Thượng-tọa-bộ.
ThigA.
:
Sớ giải Trưởng-lảo tăng-kệ. (Hội PTS).
T.M.N.
:
Trung-bộ-kinh Pàli (Hội PTS).
Tse
:
Hộp Tsê, Tục-tạng, ấn bản chữ Nhật.
Ven.
:
Thượng-tọa.
W.H.One
:
Thế-tôn.
TỰA
Những
người học Phật trên khắp thế giới phải cám ơn Tiến
sĩ Thích Minh Châu về tác phẩm công phu này. Công trình của
Tiến sĩ là so sánh kinh Trung bộ (Pàli Majjhima Nikàya)
với Trung A-hàm (Madhyama Àgama), tạng kinh thuộc Nhất
thiết hữu bộ (Sarvàstivàdins), hiện được duy trì
trong bản dịch chữ Hán. Bởi ít ai đề cập một cách chi
tiết, tạng kinh A-hàm (Àgama) hầu như bị niêm phong
đối với phần đông học giả quan tâm đến Phật giáo, vì
họ thiếu kiến thức về chữ Hán. Tác phẩm của Tiến sĩ
Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã
chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán
và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều
điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt. Đối với
tôi, ông đã rất đúng khi xác nhận rằng cả hai phái Nhất
thiết hữu bộ (Sarvàstivàdins) và Thượng tọa bộ (Theravàdins)
đều căn cứ trên một di sản chung. Mặc dù một người ngưỡng
mộ văn học Pàli có thể đồng ý với những nhà luận giải
như Buddhaghosa, rằng truyền thống Pàli gìn giữ giáo
lý nguyên thủy thuần túy và tiêu biểu cho lời dạy đích
thực của đấng Đạo sư, ngày nay những học giả đều phê
phán lời tuyên bố quá đáng này. Tất cả những học giả
phương Tây cũng như phương Đông hầu như đều có chung quan
điểm với Tiến sĩ Thích Minh Châu là, cả hai bản dịch chữ
Hán ngữ cũng như Pàli đều căn cứ trên một bản gốc
mà ngày nay đã thất lạc.
Tác
phẩm này được tác giả đệ trình làm luận án Tiến sĩ,
và đã được Hội đồng giám khảo đồng thanh phê chuẩn.
Công trình của ông quả thực đã mở rộng chân trời hiểu
biết của chúng ta. Ông đã đề cập đề tài này với cái
nhìn của học giả và với thái độ vô tư, cốt đề cao
chân lý chứ không với mục đích dựng lên một giáo điều
hay phân phái. Sự hiểu biết của chúng ta về Phật giáo trên
các phương diện học thuyết, triết lý và giới luật đều
phải bị hạn hẹp và cục bộ vì thiếu tài liệu. Rủi thay,
hầu như phần lớn giáo lý Phật giáo bằng nguyên bản Sanskrit
đã
mất, chỉ trừ một ít đoạn được các nhà nghiên cứu đưa
ra ánh sáng. Mặc dù số lượng tác phẩm bằng Sanskrit
ngữ
hiện có được so sánh một cách bất lợi với số lượng
văn học Pàli, giá trị nội tại của kinh Phạn ngữ,
với cái nhìn sâu sắc và đánh giá vấn đề một cách hợp
lý, đã chứng minh sự sai lầm của việc khai thác thái độ
thù hằn ganh tị của thời Trung cổ, một thái độ đã làm
cho Phật giáo trong quá khứ mất hết sinh lực. Nếu ta trung
thành với lý Trung đạo của đức Phật, thì ngày nay ta không
còn có thể bảo rằng Phật giáo tạng Sanskrit lạc xa
giáo lý nguyên thủy. Những phần nhỏ và những tác phẩm
nguyên bản Sanskrit này được tìm thấy tại Népal và
Tây Tạng, đã chứng tỏ nguồn sinh lực vô địch của đức
tin Phật giáo. Nhờ biết được những kho tàng này mà chúng
ta có được cái nhìn sâu sắc hơn về bí quyết truyền bá
đạo Phật tại các nước châu Á. Những học giả thường
phải lấy làm lạ khi thấy Phật giáo đã đạt đến tầm
vóc một tôn giáo toàn cầu, mặc dù không có sự bảo trợ
rộng rãi của triều đình và giới thương gia giàu có. Dĩ
nhiên, sự bảo trợ ấy cuối cùng vẫn xảy đến, vì Phật
giáo tiêu biểu yếu tố thiêng liêng trong con người, chỉ
đường vượt qua những bản năng thú vật. Sự bảo trợ
của vua chúa là hậu quả của sự hoằng dương chứ không
phải là điều kiện để truyền bá đạo Phật. Nhờ luôn
nhấn mạnh tính vô thường của tài sản thế gian cũng như
của nghịch cảnh, Phật giáo củng cố được nghị lực tâm
hồn của tín đồ xuất gia và tại gia. Nó tịnh hóa những
người quyền thế và khích lệ những người nghèo khổ, những
kẻ bị chà đạp.
Lịch
sử trung cổ và cận đại đều cho thấy quyền lực và tài
sản thế gian rất cần thiết trong việc bảo vệ tiến bộ
tâm linh và truyền thống dân tộc. Những sự xâm lăng của
ngoại bang đã làm cho nhiều dân tộc bị trị khắp thế giới
mất hết sinh lực. Hậu quả là tình trạng bội giáo, cải
đạo xảy ra như núi lở. Sức mạnh và vinh quang của đạo
Phật bắt nguồn ở lòng từ bi bao la của nó. Đức Phật
chinh phục bằng lòng từ bi, và những tín đồ của Ngài cũng
vậy. Thế giới ngày nay hết sức cần đến triết lý tình
yêu này, và thật không đáng ngạc nhiên khi những học giả
trí thức đang tìm đến Phật giáo như ánh sáng xua tan bóng
tối gây nên bởi sự thi đua quyền lực, quân sự và binh
bị. Thế giới đang bị siết chặt trong cơn hãi hùng khủng
khiếp, và không gì làm người ta xuống tinh thần hơn là sự
mất hết tự tin. Cuộc đời đức Phật là một tấm gương
sống động về tinh tấn (viriya) và tỉnh giác (appamàda).
Nếu chúng ta có thể có được dù chỉ một phần nhỏ những
đức tính ấy trong cuộc đời rộn rịp, thế giới cũng sẽ
đi đến một tương lai tốt đẹp và cao thượng hơn.
Tiến
sĩ
Thích Minh Châu không làm gì gián tiếp nhắm đến mục
đích này. Công việc của ông là công việc của một nhà
học giả, có tính cách phê phán, thận trọng và trung thành
với sự thật. Nhưng kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) và
Trung bộ (Majjhima Nikàya) đều có những cuộc đối thoại
và ngụ ngôn phong phú để tịnh hóa tâm hồn chúng ta, giúp
chúng ta đi đúng chíùnh đạo. Người nào dành thì giờ để
nghiên cứu tác phẩm này tự nhiên cũng muốn đọc đến nguyên
bản các kinh Trung bộ và A-hàm, những kinh sẽ gieo vào tâm
hồn họ những đức tính mà Phật giáo đề cao. Hậu quả
tức thời của việc nghiên cứu có thể không có tính cách
thực tiễn cho lắm nói theo nghĩa rộng. Tuy vậy, đấy không
phải là một công việc vô bổ. Nó đem lại những hậu quả
trường cửu hơn, hùng mạnh hơn vì có cơ sở trên sự nghiên
cứu khách quan. Sự áp dụng những giá trị lý thuyết vào
đời sống là một dư vị đến sau. Xét theo viễn tượng
ấy, tác phẩm của Tiến sĩ Minh Châu sẽ tưởng thưởng cho
công khó của những người đọc sách ông về ngắn hạn cũng
như dài hạn. Tôi hy vọng rằng Tiến sĩ Thích Minh Châu sẽ
không từ bỏ đường hướng nghiên cứu sưu tầm này. Chúng
ta rất cần một sự khám phá toàn diện về đạo Phật, và
bằng nỗ lực và tấm gương của ông, Tiến sĩ Thích Minh
Châu có thể gợi cảm hứng cho nhiều học giả về sau. Phật
giáo phải được phục hồi trở lại với vinh quang và nguồn
sinh lực nguyên thủy, và điều này chỉ có thể thực hiện
nhờ đi theo đường hướng làm việc của tác giả trong chân
tinh thần truyền giáo.
Tôi
hết sức hài lòng vì tác phẩm này đã được hoàn tất trong
khuôn viên Tân tòng lâm Nalanda (Nava Nalanda Mahavihara).
Chúng tôi sẽ mãi mãi hãnh diện về những gì Tiến sĩ Thích
Minh Châu và những người cộïng sự của ông đã làm. Khi
ông trở về quê hương (Việt Nam), Tiến sĩ Thích Minh Châu
cũng sẽ như Huyền Trang (Hsuan-tsang), dành trọn cuộc
đời của mình để làm tròn sứ mạng truyền bá chân diệu
pháp (Saddharma) vì an lạc cho nhiều người, vì hạnh
phúc cho nhiều người, phát triển từ bi bằng cách nêu rõ
sự vô ích của thiên kiến ngã chấp.
S.
Mookerjee
Viện
trưởng,
Tân
tòng lâm Nalanda (Nava Nalanda Mahavihara)
23-3-1964
Source: thuvienhoasen