ĐỢI CHỜ
Kiếp người, một giấc mộng thôi
Biết buông huyễn mộng thảnh thơi an nhàn
Huỳnh Trung Chánh
Dì Tư Lợi có ba cô gái đang xuân tuổi từ 24 đến 30, đều xuất thân đại học, đều có việc làm tốt tại San Jose, California, đứa nào cũng theo nếp sống Âu Mỹ giao du rộng rãi, đùa giỡn tưng bừng mà vẫn lửng khửng chẳng “kết” ai. Dì Tư thầm lo sợ “ba hũ mắm nêm” nổ thình lình, nên cứ nhì nhằng than thở : “Bây lớn tồng ngồng hết rồi mà sao chẳng đứa nào chịu lấy chồng cho má có cháu ngoại má bồng?”. Cô út dĩ nhiên là được mẹ cưng nhất, nghe mẹ than, thường chu mỏ õng ẹo: “Con không lấy chồng đâu! Con sống hoài hoài với má mà!”. Nghe con nói, dì cũng vui vui, dì nghĩ nếu đám con bỏ đi mất biệt không vương vấn như bọn Mỹ, hàng năm mỏi mòn chờ đợi cầu may nhận được mỗi cái thiệp chúc Giáng sinh, thì chắc dì buồn héo hắt, rồi theo phứt ông chồng qua cõi bên kia cho rồi. Dù sao ở xứ nầy được đám con gái gần gũi săn sóc cũng ấm lòng: bởi vậy nếu chúng thường lăng xăng tíu tít bên dì xem phim bộ Đại Hàn lấy lệ vài mươi phút, thì dì cũng ép bụng ngồi ngắm các con hào hứng xem phim Hoa kỳ tẻ nhạt cho chúng.thỏa lòng.
Một hôm, đang cùng cả nhà quây quần xem video Cánh đồng thảm sát (The Killing Fields), mô tả lại cảnh đày đọa khủng khiếp mà dân lành Cam bốt phải gánh chịu khi lực lượng Khmer Đỏ thống trị nước nầy, Mai Liên bỗng xúc động nghẹn ngào đau xót như chính bản thân mình đang bị hành hạ đọa đày. Nàng thảng thốt cất tiếng: “Thật là lạ lùng! Cảnh tượng nầy sao nó quen thuộc với con quá má à!” Cử chỉ bất an của cô gái út khi quan sát cảnh tượng bắn giết, tra tấn khủng bố trên những cánh đồng ngổn ngang xác chết... nào có dấu được đôi mắt thương yêu bén nhạy của mẹ. Dì Tư lo lắng nhìn con, muốn khuyên con đừng bận tâm buồn thương chuyện thiên hạ, nhưng chưa biết mở lời ra sao, thì Mai Lý, người chị thứ Hai bỗng cười ngất, rồi ào ào chen vào: “Xạo hoài hà! Mầy sanh ở Mỹ, biết mốc xì gì chuyện bom đạn mà bày đặt khoác lác là quen thuộc cảnh giặc giã chiến tranh. Trong ba chị em mình, chỉ có tao là chứng nhân thời cuộc, chỉ có tao mới hội đủ tư cách tự hào là mắt thấy nghe mà thôi! hà! hà!”. Mai Lan, cô thứ Ba buột miệng: “Chị hai mới là tay “xạo tổ”. Năm 1975 khi gia đình mình di tản thì chị mới bốn tuổi! Chị biết cái con khỉ gì mà giở trò “nộ” hai đứa nầy!”. Lúc bình thường có lẽ Mai Liên cũng đã “sừng” lên đấu khẩu với chị, nhưng lần này chẳng biết do duyên cớ gì, cô nàng lại buồn hiu lủi thủi bỏ đi, chẳng tranh cãi chi cả. Thái độ khác thường nầy khiến bà mẹ lo sợ cuống cuồng, bà nghiêm mặt khẽ trách cô gái lớn: “Bộ con không thấy vẻ mặt thiểu não của nó sao mà chọc ghẹo?” Mai Lan góp ý; “Coi chừng bệnh cũ của nó tái phát thì nguy vô cùng má ạ! Cũng tại chị Hai hết trơn hà! Tự dưng thuê cái video rùng rợn nầy về xem làm chi cho em Út nó sợ!”
Thuở nhỏ, đôi khi đang ngủ say, bé Liên bỗng giựt mình khóc thét, mắt trợn trừng, toàn thân run bần bật, như bị kinh phong... Bà mẹ hoảng hốt ôm cứng con gái, vỗ về giây lâu thì con bé dịu lần, tiếp tục vào giấc ngủ an lành như chẳng có gì xảy ra. Tình trạng nầy thỉnh thoảng lại tái diễn khiến bà mẹ hoảng hốt đưa con đi khám bệnh khắp nơi, từ khoa nhi đến các khoa chuyên, thử nghiệm mãi chẳng ai khám phá ra căn bệnh nào rõ rệt. Nhân lúc điện thoại về nước thăm mẹ, dì Tư than thở bệnh hoạn con Út, bà già nói: “Chắc ban ngày bây làm nó sợ, ban đêm nó chiêm bao giựt mình chứ gì!” Tuy chẳng chút tin tưởng vào kiến thức bà già trầu quê mùa, dì Tư cũng cẩn thận theo dõi sinh hoạt trong ngày, rồi khám phá rằng chính những màn đấu đô vật dã man trên truyền hình đã gây ra cớ sự. Nguyên Út thường nhỏng nhẻo đeo dính cứng cha, nên chịu ảnh hưởng trầm trọng bởi những show TV nầy. Ông già có tật mê mẫn màn đánh đấm, quên hết mọi thứ, chẳng chút lưu ý đến phản ứng sợ hãi của con, thành thử, hễ ban ngày ông hả hê xem đấu vật, đêm đến thế nào con bé cũng giựt mình khóc thét.
Từ khi ông già “cai các show đấu vật”, bệnh giật mình khóc thét của con bé thưa dần rồi dứt hẳn, nhưng có lẽ nó bị dị ứng bởi bom đạn, chiến tranh hay sao, mà khi đã trưởng thành, thỉnh thoảng vô tình nghe tin thời sự về các vụ đàn áp, khủng bố... ở chốn nào, Mai Liên cũng cảm giác đớn đau giày vò như chính mình là nạn nhân vậy.
Lần nầy, khi vừa khởi chiếu phim dì Tư đã nghi ngại, nhưng dì không dám ngăn chận ngay sợ mất lòng con gái lớn, thế rồi, dì bị mẩu chuyện thu hút quên mất mối lo nầy, mãi cho đến khi khám phá vẻ mặt thảm sầu của Út, thì mọi sự đã trễ rồi. Tưởng Liên chỉ mất vui trong vài ngày, không ngờ lần nầy, cơn buồn dị ứng phát xuất từ cảnh phim “Cánh đồng thảm sát” kéo dài ra, và ngày càng chất ngất đến nổi nàng thường nghĩ đến cái chết. Nàng đờ đẫn giam mình trong phòng riêng chẳng màng giao tiếp một ai, nàng bỏ ăn mất ngủ khiến sức khỏe suy sụp trầm trọng, rồi nàng đột ngột xin nghỉ việc... Dì Tư lo lắng nài nĩ con đi khám bệnh. Ở nhà thì nàng ủ dột câm nín, khi gặp bác sĩ thì nàng lanh lợi nói năng, nên mấy ai truy ra căn bệnh, họ đành gượng gạo biên toa thuốc trầm cảm uống cho yêu đời. Riêng bà bác sĩ tâm thần thì suy diễn rằng có lẽ khi mang thai Mai Liên, bà mẹ vẫn còn bị cái kinh hoàng chiến tranh ám ảnh, nên đã chuyền cái nỗi lo sợ nầy cho đứa con, khiến nó bị hội chứng trầm cảm tiềm phục. Vậy, tốt nhứt là hai mẹ con nên đưa nhau trở về nước, khi cô gái thấy rõ nếp sinh hoạt bình an thường nhật, thì mới hi vọng xóa nhòa cái ám ảnh chiến tranh kinh hoàng ngày xưa.
Mai Liên chẳng để ý gì đến lời chẩn bệnh mò mẫm nầy, nên dù mẹ nài nĩ dai dẳng nàng vẫn dứt khoát chẳng đi. Bất ngờ, bỗng có đứa bạn chủ văn phòng dịch vụ du lịch thấy nàng đang rảnh rang, gạ gẫm tặng nàng vé máy bay để nhờ dẫn dắt dùm cặp vợ chồng già ngờ nghệch về nước thăm con cháu. Thấy Mai Liên còn dùng dằng, cô bạn cố thuyết phục:
- Trước mua vui, sau làm nghĩa mầy! O.K. nhé!
- Ừ, O.K thì... O.K..., Mai Liên lừng khừng đồng ý.
Chuyến đi đột ngột ngoài sức tiên liệu của dì Tư, khiến dì chới với, dì chỉ muốn bám chặt cô út săn sóc bảo vệ nó nhưng thời gian cấp bách quá không sắp xếp kịp. Dì vội liên lạc với cô em thứ Năm, căn dặn hàng trăm lần: “Em nhớ đón rước cháu và lo lắng cho nó kỹ dùm chị nha, vì nó khờ lắm, còn ‘nhỏ híu hà’”. Mai Liên hộ tống hai cụ về đến phi trường Tân sơn Nhứt bàn giao cho gia đình họ thì kể như công tác hoàn tất mỹ mãn. Nàng hí hửng chào từ giã hai cụ, vừa “phủi tay” quay lại chợt thấy đám em con dì Năm: Khánh, Điệp và Phượng chực hờ sẵn từ lúc nào, túa ra chào hỏi loạn lên, khiến Liên lính quính đối đáp thiếu điều hụt cả hơi. Chúng hộ tống nàng lên xe, nhất quyết đưa nàng về quê ngay dù nàng muốn lang thang ở Saigon vài ngày. Thật ra, đám em cũng thích la cà ở chốn đô hội nhộn nhịp phong lưu, nhưng lệnh dì Tư là phải rời Saigon ngay, vì theo như dì đã thận trọng nghiên cứu thì Saigon quá ô nhiễm và nguy hiểm lắm.
Quê ngoại Liên tại Mỏ Cày, Bến Tre, có vườn cây trái sum sê, đồng ruộng tươi mát, lại có giòng Cửu Long cuồn cuộn nước phù sa, dân quê mộc mạc mà hiếu khách vô cùng. Chiều chiều ngắm đám học sinh vận đồng phục áo trắng đơn sơ, cỡi xe đạp từng đoàn nhởn nhơ nói cười tíu ta tíu tít dễ thương làm sao. Nếp sống thôn quê bình dị, chậm chạp đồng điệu mà nhàn nhã, nên đầu óc căng thẳng của Mai Liên lần lần trở nên nhẹ nhàng thư thái, bệnh trầm cảm của nàng biến dạng lúc nào chẳng hay. Dì Năm ủy thác con trai trưởng, một thổ công tại địa phương phụ trách tiếp đãi Liên. Gia đình sẵn có cơ sở phục vụ ngành du lịch với đoàn ghe máy hùng hậu, nên Khánh trưng dụng ngay một chiếc ghe, đưa chị họ cùng hai em “tiếu ngạo giang hồ” khắp miền sông rạch xa gần: khi thả thuyền ra cửa Cổ Chiên, Hàm Luông ngắm cảnh bao la trời nước, thảnh thơi dạo bước trên bãi Cồn Lợi, Cồn Tiên, Cồn Ốc... xinh xinh bé bỏng, có lúc mon men vào những con lạch nhỏ len lỏi luồn qua đám bần lóc ngóc rễ, những bụi dừa nước rậm lá chồm ra đến giữa giòng, để đến tận khu vườn dừa xã An Thành tìm hiểu cơ sở thủ công chỉ xơ dừa, quan sát xưởng bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, đến Sân chim Vàm Hồ ngắm cò vạc ngập trời, ghé nhà vườn Cái Mơn, vườn Cẩm Sơn, tha hồ ăn cây trái... còn ẩm thực thủy sản thoải mái giữa cảnh thiên nhiên bát ngát thì đủ loại cá vược cá dứa, tôm cua, nghêu ốc sẵn sàng. Tóm lại, kể ra, thì đặc sản quanh vùng, chỉ trừ thuốc ngon Mỏ Cày kiêng cữ, thứ nào Mai Liên cũng thật thà tận hưởng, phong phú hơn câu ca dao người xưa giới thiệu rất nhiều:
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn,
Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày
Thừa thắng xông lên, cả bọn rủ nhau phóng ghe theo giòng Cổ Chiên, đến thị xã Trà Vinh xem màn thể thao đặc biệt “đua ghe ngo” nhân lễ hội Ok-Om-Bok, một lễ nhằm tôn vinh thần mặt trăng theo truyền thống đồng bào Việt gốc Miên diễn ra trên sông Long Bình vào ngày thứ hai của lễ hội(1). Hội đua ghe ngo, tiếng Khmer, gọi là “Tuk ngo” mang ý nghĩa thiêng liêng là đưa nước ra biển cả, trả nước về cho thần rắn Naga, nên việc tổ chức phải mang tính chất long trọng trang nghiêm vừa triển khai được khía cạnh tranh tài thể thao hào hứng. Kẻ hiếu kỳ ước lượng đến hai mươi ngàn người tấp nập kéo đến, tranh nhau đứng dài dài theo hai bên bờ sông tìm địa điểm thuận lợi quan sát cuộc đua. Khanh đã thuê sẵn vị trí, có ghế ngồi uống nước chờ đợi, vừa có thể dùng để đứng lên quan sát kỹ khi màn đua trở nên hào hứng. Liên bị thu hút ngay bởi những chiếc ghe ngo trang trí sặc sở, hình dáng xinh xắn lạ lùng với cả mũi và lái đều cong vút, thân ghe thật dài so chiều ngang quá hẹp (2) cùng với hai hàng dầm tua tủa như chân rết, lướt trên sông ào ạt như rồng lướt sóng, kiêu hảnh và hùng vĩ vô cùng.
Hàng chục ghe tranh tài bắt đầu tề tựu trong tư thế căng thẳng chuẩn bị, tiếng reo hò ủng hộ đội nhà đã rộn rã từng cơn. Vừa có lệnh xuất phát: nhịp cồng thúc quân vang dậy, hai hàng dầm bổ xuống đồng loạt quẫy mạnh thì những chiếc ghe dài ngoằng đó bỗng chồm lên vun vút lao đi như tên bắn giữa tiếng reo hò, tiếng trống thôi thúc cổ vũ náo nhiệt, vang động cả một khúc sông dài, rộn ràng nhất là khi hai ghe so tài tranh nhau cò cưa từng ly từng tấc ở mức đến.
Mai Liên vốn trầm lặng, nhưng không khí vui nhộn hào hứng có sức quyến rũ mãnh liệt quá, khiến nàng cũng cổ vũ la hét hết mình, vui không tưởng tượng nổi. Điệp khều Phượng nói nhỏ: “Hì! hì! Xem kìa! Chị Mai Liên quả đúng là Miên Lai phải không? Chắc chị bắt đúng tầng số rồi nên coi bộ “giựt “ quá mạng, Phượng há!”, hai đứa thấm ý cười ngất, khiến Liên càng vui nhộn tưởng bụng dạ chúng cũng giống mình. Nhận thấy người chị sống ở nước ngoài tỏ vẻ thích thú với lễ hội dân tộc Khmer, Khanh cất tiếng:
- Tiếc quá, nếu biết chị vui như thế nầy thì mình tới đây từ hôm qua, để xem nghi lễ cúng trăng tại chùa Miên, cùng với tục lệ thả đèn nước trên sông và đèn gió lên trời cũng hấp dẫn lắm.
- Ờ! Kể ra cũng hơi tiếc! Mà chẳng biết sao chị cảm thấy hạp lối lễ lạc vui vẻ hồn nhiên của người Miên quá hà! Có chùa Miên nào ở gần đây không em?
- Ồ! Nhiều chùa lắm! nếu chị thích hành hương thì mình viếng ngôi chùa cổ Samrong Ek xây dựng từ năm 642, tại xã Nguyệt Hóa, cũng gần đây thôi!
- Dĩ nhiên là chị thích! Sao chị cảm thấy thân thương gần gũi với họ quá chừng...chừng hà!
Tổng thể chùa Samrong Ek tọa lạc giữa rừng cây um tùm diện tích khoảng bốn mẫu, với khá nhiều cổ thụ: sao và dầu cao ngất ngưởng, tạo ra cảnh thiên nhiên êm đềm thoát tục. Kiến trúc chùa là sự phối hợp hài hòa của ngôi chánh điện cổ kính cùng với ngôi bảo tháp rêu phong, bên cạnh nét tân kỳ trang nhã của những cụm tượng cảnh - ghi lại vài hình ảnh của Đức Phật ngày xưa - rải rác trong khuôn viên.
Nhóm hành hương ngẫu hứng đến chùa quá sớm khi phần lớn sư sải và Phật tử địa phương vẫn còn bận bịu ủy lạo đoàn ghe ngo nhà, nên cả khuôn viên chỉ loáng thoáng vài bóng người đây đó, ngôi chùa vắng lặng và thanh thoát lạ lùng. Nhờ vậy, Mai Liên mặc tình tung tăng quan sát khu chánh điện và kiến trúc phụ thuộc, nàng háo hức chiêm ngưỡng từng pho tượng, từng nét kiến trúc điêu khắc đặc thù của dân tộc Khmer. Rời chánh điện, nàng tiếp tục tiến sâu vào khoảnh rừng rậm rạp, đi loanh quanh lừng khừng không chủ đích, bất chợt, nàng thấy có vị sư cả phúc hậu, không cười mà như thanh thoát cười đang lim dim ngồi tọa thiền dưới bóng cây sao. Không dám làm kinh động sư, nàng khẽ thối lui, không ngờ sư bỗng mở mắt ngâm nga bâng quơ: “Kiếp người một giấc mộng thôi! Biết buông huyễn mộng thảnh thơi an nhàn!” Liên ngơ ngẩn chẳng biết sư lẩm bẩm một mình hay muốn nói riêng với nàng, nàng muốn cất tiếng dò hỏi thì sư đã khép mắt lại, bất động như một pho tượng gỗ, nên đành chắp tay xá thật sâu rồi lui trở ra.
Liên chỉ muốn thơ thẩn hoài ở chốn nầy, nhưng Khánh ngại lái ghe máy đi trên sông lớn vào lúc tối trời dễ gặp nguy hiểm cho ba cô tiểu thơ, nên cứ hối thúc mãi khiến nàng đành rời bước.
Thấu rõ tâm lý “chân bước đi xa mà lòng còn ngoảnh lại” của Liên, Điệp gạ gẫm:
- Chùa tháp nầy so với bên Kam pu Chia thì có nhằm nhò gì! Nếu chị thích tìm hiểu đền đài và văn hóa truyền thống của dân tộc họ, sao không đi du lịch qua đó một chuyến!
- Hay! Ý kiến hay lắm! Vậy chị mời ba em cùng du lịch với chị cho vui nhé!
Điệp và Phượng kẻ trước người sau nhiệt tình lên tiếng:
- Hoan hô! Hoan hô chị Liên!
- Tuyệt vời quá! chị Liên “chơi sộp” quá!
Phần Khanh, vì quá bận rộn với cơ sở kinh doanh gia đình không thể tham gia, nhưng anh ta cũng liên lạc với công ty du lịch quen biết đặt một chuyến đi sang trọng cho ba cô tiểu thơ, theo đó, nhóm có hướng dẫn viên riêng và chương trình cũng co dãn hoặc thay đổi tùy thích. Đến Phnom Penh, ba cô dành khá nhiều thời giờ tham quan Hoàng Cung và Chùa Bạc(3), nơi tàng trử nhiều cổ vật quí có giá trị lịch sử và tôn giáo, đặc biệt nhất là pho tượng Phật vàng ròng và pho tượng cẩm thạch... Sau đó đoàn tiếp tục viếng Chùa Tháp (Wat Phnom) một ngôi chùa xưa xây dựng tương đối tầm thường, nhưng được coi là linh thiêng cổ kính tượng trưng cho vùng đất thủ đô. Trên con đường đi viếng Toul Sleng(4), địa điểm mà bọn khát máu Pol Pot đã dã man tra tấn và tàn sát dân lành, bỗng nhiên Liên cảm thấy nỗi kinh hoàng tràn ngập suýt ngất xỉu, khiến nàng quyết định hủy bỏ ngay chương trình đi nầy, và thay thế bằng chuyến la cà tại khu chợ Psah Thmey (tức Central Market). Ba chị em tung tăng mua sắm, Liên mua cho thân hữu vài món lưu niệm, chọn cho mình cái sampot sặc sở bằng lụa dệt tay (5) theo truyền thống Khmer, riêng hai cô em không thích loại y phục nầy thì nàng tặng mỗi cô chiếc váy đầm lụa theo thời trang Âu Mỹ đắt giá. Rời chợ, các cô yêu cầu cho xe đưa đi loanh quanh khắp đường phố, xe chỉ dừng lại Viện Đại học Hoàng Gia cho Liên ngắm nghía đôi phút, rồi dành phần lớn thời giờ còn lại thơ thẩn dạo dài dài trên bờ sông dọc đại lộ Sisowath, và đón gió mát tại Quảng trường Sông bốn mặt(6) trước Thành Vua. Sau một ngày tung tăng du ngoạn, khi về đến phòng đã mệt lả nên hai cô em vô tư ngả mình xuống ngủ mê man, riêng Mai Liên vẫn trằn trọc không yên: nàng mơ hồ như có một cảm giác lạ lùng nửa hân hoan nửa buồn thương chờn vờn bao phủ. Thế rồi, bỗng nhiên nàng bàng hoàng chồm dậy, chụp lấy bộ y phục mới mua vận thử, soi gương mỉm cười hài lòng với chính mình... rồi thoải mái ngồi trên ghế dựa ngủ an lành...
Hàng trăm lần cũng trên khoản đại lộ Sisowath nầy, Chenda quấn quít nói cười tíu tít với người yêu Sovann như con họa mi, nhưng lần nầy nàng lại buồn hiu nước mắt rưng rưng, trong khi chàng trai cũng thần thờ u uất. Cả hai đều là sinh Viện Đại Học Hoàng Gia, nàng theo học ngành Kinh Tế với mục đích sẽ hỗ trợ quản lý cơ sở kinh doanh gia đình, còn chàng chọn khoa Lịch sử Nhân Văn với hoài vọng khảo cứu công trình sự nghiệp của tiền nhân. Sovann có nếp sống khắc khổ, chẳng thích giao du tán nhảm với bạn gái, nên bị các nữ sinh viên xúm nhau chê là “thứ nghèo mà làm phách”, họ thách thức Chenda “câu” anh ta rồi “đá đít” cho bỏ ghét. Chenda thả câu thì bắt sống anh tức khắc, thế nhưng, nàng lại tìm thấy anh ta là người trung hậu và lý tưởng hiếm có... nên đeo cứng, mới là chuyện dị kỳ. Mối tình đẹp như mộng mơ nầy không dấu nối ai, gia đình nàng biết chuyện, sau khi điều tra biết rõ gia thế kém cỏi của Sovann, đã khuyên con gái chấm dứt liên lạc với Sovann. Nàng van xin cha mẹ cho tự do luyến ái tưởng đâu cha mẹ lần lần sẽ chiều ý, nên vẫn yên tâm lặn ngụp trong hạnh phúc đầu đời. Bất ngờ, vào cuối tuần qua, nhà nàng tưng bừng tổ chức tiệc khoản đãi quan khách, sau bữa tiệc cha nàng thông báo đã hứa gả nàng cho thiếu tá Nuon Sutho, một sĩ quan thân cận với tướng Lon Nol, nên tương lai đương nhiên sẽ huy hoàng. Nghe hung tin, Sovann khần khoản hẹn gặp người yêu lần chót, để cùng khoác tay nhau trên đại lộ tình yêu lần cuối cùng: nàng khóc như mưa, chàng lặng lẽ buồn tênh, mãi cho đến phút chia tay mới nhỏ nhẹ bên tai nàng: “Trong bất cứ tình huống nào, anh vẫn mãi mãi yêu em!”
Sau đó, Chenda nghỉ học còn Sovann cũng biến dạng, chẳng ai biết anh ta lưu lạc chốn nào. Chenda yên phận lên xe hoa, khi tình hình chánh trị an ninh bắt đầu sôi động, Noun Sutho nhanh chóng thăng chức đại tá, và được đề cử giữ chức vụ Tỉnh Trưởng Seam Reap. Với tư cách phu nhân vị đầu tỉnh, Chenda thường tham dự các nghi lễ chánh thức, nàng cũng cùng với cô bác Phật tử tham dự nghi thức sớt cơm dâng sư tại các chùa quanh vùng. Một hôm, sớt cơm tại Wat Kesararam nàng bỗng giựt mình chết sửng khám phá vị sư đang cúi gằm, mắt nhìn xuống, chậm chậm bước tới, lại chính là chàng, là Meng Sovann. Nàng run rẩy sớt cơm, và biết sư cũng rung động cả cõi lòng. Thế rồi, hàng tuần nàng tự tay nấu nướng, lặng lẽ sớt cơm, rồi bùi ngùi thả hồn theo bóng nhà sư rảo bước theo tăng đoàn.
Tình hình an ninh trong nước suy thoái rõ rệt, lực lượng Khmer đỏ phát triển nhanh chóng đã xua quân bao vây thành thị, đại tá Noun Sutho trong khi ngồi trực thăng thị sát mặt trận bỗng bị hỏng máy lâm nạn từ trần. Chenda hấp tấp làm lễ hỏa táng cho chồng, rồi chuẩn bị thu dọn đồ đạc đi ngay về Phnom Penh với cha mẹ bằng đường sông Tonle Sap cho an toàn. Trước khi lên đường, nàng sực nhớ đến quyển sách của nhà khảo cổ Pháp viết về công trình xây dựng đền Ta Prohm của nhà vua Jayavarman VII mà nàng sưu tầm được, vội biên mấy chữ thật nhỏ ở trang cuối “Xin đừng quên! Sẽ trở lại!”, rồi nhờ người mang đến chùa tặng sư Meng Sovann.
Nàng vê đến Phnom Penh đúng tuần lễ, thì thủ đô náo loạn vì viễn ảnh sớm thất thủ. Gia đình nàng bắt được đường giây di tản của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, nhưng vào giờ chót địa điểm bị thay đổi nên bất thành. Thế rồi, đến ngày 17/4/1975, lính Pol Pot tràn tới nhà nàng, cha mẹ nàng lần lượt bị tra tấn nhằm khai thác chỗ chôn giấu tài sản cho đến kiệt sức mà chết. Phần nàng, chúng bắt giải lên trại tù Toul Sleng, hành hạ tàn nhẫn dài dài, rồi lên án tử hình về tội vợ sỉ quan chế độ cũ. Nàng chẳng còn muốn sống thêm giây phút nào nữa, nên khi tên sát nhân hươi mã tấu chặt đầu, nàng lại cảm thấy mừng vì sắp thoát nạn.Trong giây phút tối hậu đó, bỗng nàng thấy bóng Đức Phật mà cũng có thể là vị sư cả chùa Samrong Ek hiện ra với nụ cười nhẹ.
Nàng choàng tỉnh dậy, thoát khỏi cơn ác mộng để trở lại với hình hài Mai Liên hiện tại, đang mặc bộ sampot sặc sỡ ngủ trên ghế dựa của khách sạn. Nhớ phơn phớt lại giấc mộng dài, nàng bỗng cảm nghĩ rằng có lẽ kiếp trước nàng chính là Chenda đã bị đám Pol Pot hành hạ dã man, do hình ảnh rùng rợn vẫn còn đậm nét trong tiềm thức, nên kiếp nầy nàng mới bị dị ứng và bị nó theo đuổi hành hạ. Vị sư cả chùa Samrong Ek đã linh cảm được điều nầy nên mới khuyên nàng “Kiếp người một giấc mộng thôi! Biết buông huyễn mộng thảnh thơi an nhàn!”. Thì ra, khi đã khám phá ra khối u tiềm ẩn của tiền kiếp, dứt khoát buông bỏ nó thì cơn bệnh không cần trị cũng chấm dứt. (Có lẽ, vì vậy mà nhà tâm linh nổi tiếng Edgar Cayce(7), đã xử dụng phương pháp thôi miên hầu đi sâu vào tiền kiếp người bệnh truy nguyên căn bệnh mà hóa giải). Để trắc nghiệm lý giải của mình, Liên yêu cầu hướng dẫn viên đưa viếng Toul Sleng trước khi lên đường đi Seam Reap. Nàng bình tỉnh bước vào chốn rùn rợn, trầm ngâm quan sát từng phòng, từng hình cụ tra tấn... và với cả chân thành, nàng thương yêu cầu nguyện cho các nạn nhân dù hiện đang ở cõi nào cũng được an lạc. Và nhờ vậy khi rời bước, nàng cảm thấy mình cũng đón nhận được niềm thanh thản vô biên trong lòng.
Đoàn du lịch tiếp tục hành trình hướng Tây Bắc, xe dừng lại chợ quê cho ba cô gái tò mò có dịp tròn xoe mắt trước loại thức ăn côn trùng lạ lẫm chưa từng nghe thấy: nhện, bò cạp, dế, châu chấu... chiên dòn. Dĩ nhiên, ba cô chẳng dám nếm thử, nhưng may mắn làm sao, họ thưởng thức được hương vị thiên nhiên của món xôi lồ ồ thơm phức và cũng dự trữ được vài bó gương sen tinh khiết ngon ngọt để dành nhấm nháp trên xe. Ngày đầu đến Seam Reap, đoàn du lịch viếng Angkor Wat, ngôi đền thờ thần Visnu, kiến trúc vĩ đại độc đáo: cổ kính trang nghiêm, mà nghệ thuật chạm khắc lại tinh vi tuyệt vời, quả xứng đáng được tôn xưng là kỳ quan thế giới. Tuy vậy, quần thể Angkor Thom mà đoàn thăm viếng vào ngày thứ nhì phù hợp với nhãn quan họ hơn, nhờ mang nhiều sắc thái Phật Giáo Đại thừa, đặc biệt nhất là ngôi đền Bayon có rất nhiều pho tượng Đức Bồ Tát Quán Thế Âm(8), với nụ cười vô cùng khả ái. Vẻ mặt và nụ cười phảng phất hình ảnh của vị sư cả chùa Samrong Ek, Trà Vinh khiến Liên càng chiêm ngưỡng càng xúc động tâm can. Đền Ta Prohm(9) cũng là tu viện Phật giáo đồng thời với Bayon, nhưng toàn thể kiến trúc nầy đã suy cấp trầm trọng bởi nạn cây rừng xâm lăng: rễ cuồn cuộn bới xóc nền đá, trườn lên mái, vặn vẹo tường vách lung lay. Tuy nhiên, cũng chính đám cây rừng tai hại đã tạo nên nét thiên nhiên kỳ bí cực kỳ quyến rũ cho phế tích, khiến du khách đổ xô tìm đến trầm trồ chiêm ngưỡng vừa đượm chút tiếc thương. Mai Liên trầm ngâm ngắm cây bông gòn (10) kỳ cựu đứng chồm trên mái đền mà mớ rễ khổng lồ như những cánh tay đang ôm ấp, nâng niu, chia sẻ thương đau với ngôi đền suy sụp. Hai cô em rời bước mà Mai Liên vẫn tiếc nuối mãi, nàng nhích lại gần hơn, dưới tàn cây râm mát để quan sát từng chi tiết nhỏ, thế rồi nàng chợt thấy trong làn ánh sáng vàng vọt yếu ớt, ảnh hiện lờ mờ bóng dáng một nhà sư gầy gò, mà tự thâm tâm nàng liên tưởng ngay bóng đó chính là sư Meng Sovann. Sư mìm cười cất tiếng:
- Chenda! Cuối cùng rồi nàng cũng đến!
Sau một thoáng bối rối, Liên chợt hiểu, nàng ngập ngừng lên tiếng:
- Chào sư Sovann, bấy lâu nay sư ra sao?
- Sau khi ta nhận được sách nàng, đọc được hàng chữ “Xin đừng quên! Sẽ trở lại!”, Ta chôn sách dưới cội cây bông gòn rừng nầy, và nguyện mãi mãi chờ nàng trở lại, nên chẳng bao giờ rời chốn nầy!
- Thế bọn lính Pol Pot chịu để sư yên thân sao?
- Ngày đó, bị đe dọa tánh mạng nên hầu hết tu sĩ đều cởi bỏ y vàng chạy thoát thân, riêng ta lẫn trốn về đây và vẫn giữ y. Ban ngày ta lánh vào rừng, đói ăn rau củ hoang dại, tối lẻn về ngủ dưới cội cây, với quyển sách cho ấm lòng. Ta sống như vậy được 12 tháng thì chúng khám phá, truy lùng bắt được ta và hạ sát ta ngay tại địa điểm nầy!
- Con quả thật vô cùng xúc động trước khối tình cảm thâm trọng mà sư dành cho con! Nhưng bây giờ âm dương mỗi người mỗi ngả, con nào biết phải làm điều gì để đền đáp khối ân tình nầy? Xin sư dạy cho con một lời đi!
- Ta... Ta... không suy nghĩ ra điều gì cả! Ta đã phát nguyện chờ đợi và chỉ biết chờ đợi mãi mãi mà thôi!
- Thưa sư! Mấy tuần trước nhân viếng chùa Samrong Ek, vị sư cả có dạy con: “Kiếp người một giấc mộng thôi! Biết buông huyễn mộng thảnh thơi an nhàn!”. Con bỗng thức tỉnh và hiểu rằng, nếu mình tin rằng kiếp người là thật rồi khư khư ôm ấp nó, kẹt cứng với nó, thì cứ bị nó hành hạ dày xéo khôn nguôi, nhược bằng biết nó là huyễn mộng, thì ngay lúc đó mình liền thảnh thơi liền siêu thoát! Sư ạ!
Sau một thoáng suy tư, sư mỉm cười cất tiếng:
- Cảm tạ! Cảm tạ ơn chỉ giáo! Chenda ta đi đây!
Bóng sư mờ nhạt dần rồi biến mất trong không gian.
Mai Liên trở về Hoa Kỳ với tinh thần sảng khoái, vui vẻ yêu đời. Nhìn vẻ mặt rạng rỡ của con, không cần hỏi, dì Tư cũng dư biết tâm bệnh con ra sao rồi. Tuy vậy, dì cũng âu yếm:
- Độ rày tình trạng sức khỏe con như thế nào? Bệnh trầm cảm còn xảy ra không con?
- Con đã hoàn toàn chấm dứt nổi buồn vẩn vơ và lo lắng bao đồng rồi! Xin má yên tâm.
- Phước đức quá!
Bà chắp lại, kính cẩn nhìn vào khoảng không, cất tiếng: “Con xin tạ ơn Trời Phật đã gia bị cho gia đình con!”. Rồi bà, nhìn con, nghiêm nghị lên tiếng:
- Con à chùa X có chương trình khắc tên trên tượng Phật để cầu phước, giá mỗi tượng chỉ có một ngàn, má mua cho con nghen?
- Uả! Hôm trước nghe Hòa Thượng ra giá ba ngàn đồng mỗi tượng, mà còn dọa ai chậm chạp sẽ mất cơ hội kia mà? Bộ nay Ngài ra giá khuyến mãi sao má?
- Ơ, chỉ vì lô tượng ba ngàn người ta mua hết rồi, nên hòa thượng thương tình cho ra thêm đợt thứ hai nên có giá khác.
- Coi bộ chậm tay, mà lại lời hơn người nhanh tay tới hai ngàn đồng, sướng nhỉ!
- Không phải đâu con, tượng Phật ba ngàn được ở vị trí tốt hơn tượng một ngàn con à! Má mua cho con nghen! Mua mau đi kẻo trễ con ạ! Ông đại hòa thượng phán dạy như vậy đó, trễ người ta mua hết thì dẫu mình bỏ ra cả chục ngàn cũng không mua được đâu!
Đang ăn nói với giọng tưng tửng, bỗng Mai Liên ra vẻ nghiêm trọng cất tiếng:
- Má à! Má thấy chuyện phước thiện nào cần làm cứ đóng góp, chùa nào cần phát triển, cần cúng dường xin cứ cúng dường, bao nhiêu cũng tốt, con không bao giờ cản má. Riêng cái vụ mua Phật khắc tên để đời nầy thì xin bỏ qua dùm cho con nhờ. Con sợ vụ nầy lắm! Con nghĩ nếu mình tham luyến cái hư danh khắc trên tượng để khoe khoang với đời, thì phước đâu không thấy mà cái tội tham danh, tội khoác lác thì hiện ra rõ ràng. Vã lại, nếu con lỡ dại mê đắm tượng khắc tên mình, rồi kẹt cứng vào đó không xa rời được, đến nổi khi chết đi cứ quanh quẩn bên đó làm hồn ma, làm con bướm, con dán ngắm nhìn dài dài thì nguy quá chừng hà!
Thấy mẹ có vẻ bị cụt hứng, mặt mày xụi lơ, Mai Liên nhỏ nhẹ an ủi:
- Má ơi! Mua tượng Phật khắc tên là mua danh, chớ đâu phải cúng dường. Mà đã thật tâm cúng dường thì phải biết buông bỏ, chớ ai bám cái danh trên đó để làm chi?
Tháng 03.2011
Ghi chú:
1. Chương trình Lễ Ok-Om-Bok được diễn ra trong hai ngày. Ngày thứ nhất bắt đầu với nghi lễ cúng trăng tại chùa, cùng với tục lệ thả đèn nước trên sông và đèn gió lên trời để xua tan tối tăm và mong cầu tươi sáng, và kết thúc với Hội đua ghe ngo tưng bừng vào ngày thứ nhì.
2. Ghe ngo có chiều dài khoảng 22 đến 24m, ngang 1,2m có từ 50 đến 60 tay bơi.
3. Chùa Bạc có đặc trưng là nền Chùa được lót bởi 5329 viên gạch bằng bạc, mỗi viên nặng 1,1kg. Trong chùa có rất nhiều tượng quí, đặc biệt là có một tượng Phật bằng vàng ròng nặng 90kg có đính 2086 viên kim cương, cùng một tượng Phật khác bằng Ngọc bích cao gần một thước.
4. Hai địa điểm ghi lại tội ác của Khmer đỏ tại Phnom Penh là: Toul Sleng Genocide Museum(Viện bảo tàng tội diệt chủng Toul Sleng) và The Killing Fields Choeung Ek (Cánh đồng thảm sát Choeung Ek)
5. Sampot : váy theo truyền thống Khmer
6. Quảng trường Sông bốn mặt: tức công viên Sisowath Quay: Công viên dọc theo đại lộ Sisowath, ngay trước thành Vua. Từ công viên nhìn ra là vùng nước bao la, nơi hợp lưu của ba con sông lớn: Mekong, Tonle Sap và Bassac.
7. Edgar Cayce (1877-1945): Ông là người có khả năng đặc biệt, thấy được tiền kiếp của người bệnh, để tìm hiểu nguyên nhân căn bệnh, từ đó mới đưa ra phương pháp trị bệnh. Có trường hợp hiểu rõ nguyên nhân thì không còn bị “ám thị về một chuyện gì đó”, nên căn bệnh kiếp nầy sẽ hết, có trường hợp trị bằng cách thay đổi nếp sống, suy tư...
8. Bồ Tát Quán Thế Âm tức Avalokitesvara hoặc Lokesvara: Đền Bayon đã xây dựng vào triều đại vua Javavarman VII theo thuyền thống Phật giáo Đại thừa, nên tạc tượng Đức Quan Thế Âm.
9. Ta Prohm: là một tu viện đại học Phật giáo Đại Thừa vào thời đại với đền Bayon, tức khoảng TK 12. Trong thời hưng thinh, Ta Prohm từng qui tụ cả ngàn tăng sĩ, và lãnh đạo tinh thần cho cả ba ngàn làng quanh vùng.
10. Cây lớn có
nhiều rễ ngoằn ngoèo như con rắn bám trùm ngôi đền theo nhiều nhà
nghiên cứu thuộc loại cây bông gòn (silk-cotton
tree - Ceiba
pentandra), cũng có thuyết cho rằng đó là loại thitpok –
etrameles
nudiflora, một chủng loại với sồi (oak).
Source: thuvienhoasen