Ðại
Tạng KinhViệt Nam KINH TRƯỜNG BỘ Dìgha Nikàya Hòa
thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
20. Kinh Ðại hội (Mahàsamaya sutta)
1. Như vậy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú tại bộ lạc
Sakka (Thích-ca), thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở Ðại Lâm (Mahàvana), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là
bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phươngthế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡngThế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
2. Lúc bấy giờ, bốn vị Tịnh Cư thiên (Suddhàvàsa) suy nghĩ như sau: "Thế Tôn nay trú tại bộ lạc Sakka, thành Kapilavatthu, ở Ðại Lâm, cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phươngthế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡngThế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Vậy chúng ta hãy đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong mỗi chúng ta sẽ đọc một bài kệ dâng lên Thế Tôn".
3. Rồi
chư Thiên ấy, nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co cánh tay duỗi ra, biến mất từ Tịnh Cư thiên và hiện ratrước mặtThế Tôn. Chư
Thiên ấy đảnh lễThế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một vị Thiên đọc bài kệ trước Thế Tôn:
Ðại hội tại Ðại Lâm Chư Thiên đồng tụ tập. Chúng con đến Pháp hội Ðảnh lễ chúng Bất Thắng.
Rồi một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Tại đây chúng Tỷ-kheo Thiền định, tâm chánh trực. Như chủ xe nắm cương, Bậc trí hộ các căn.
Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Như khóa gãy, chốt tháo, Cửa trụ bị đào lên. Sống thanh tịnh, có mắt Như voi khéo điều phục.
Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Những ai quy y Phật, Sẽ không đọa ác thú, Sau khi bỏ thân người, Sẽ sanh làm chư Thiên.
4. Rồi Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, phần lớn chư Thiênmười phươngthế giớitụ họp để chiêm ngưỡngThế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời quá khứ đã là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này được một Thiên chúngtối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời vị lai sẽ là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này cũng sẽ được một Thiên chúngtối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ tuyên bố danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ cáo tri danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng danh tánh của chư Thiên. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
Bài kệ Ta sẽ giảng Chư Thiên trú Thiên giới, Những vị trú hang núi, Tâm tịnh, an thiền định. Như sư tử, tuy nằm Làm hoảng sợ quần sanh, Tâm tư thuần tịnh bạch, Trong sáng, không cấu uế.
Biết hơn năm trăm vị, Họp tại Ca-tỳ-la Bậc Ðạo Sư thuyết giảng Chúng đệ tử thích nghe: "Các Tỷ-kheo,
hãy xem Chư Thiên chúng đến gần". Nghe lời dạy đức Phật Ðại chúng nhiệt tình xem.
6.
Và hiện ra trước chúng Thấy rõ hàng phi nhân Kẻ thấy trăm thiên thần, Ngàn thần, và hơn nữa. Kẻ thấy bảy mươi ngàn Toàn các bậc phi nhân. Kẻ thấy vô lượng vị, Cùng khắp mọi phương hướng. Với pháp nhãn thấy rõ Và phân biệt tất cả Bậc Ðạo Sư thuyết
giảng, Chúng đệ tử thích nghe: "Các Tỷ-kheo hãy xem, Chư Thiên chúng đến gần". Ta sẽ theo thứ lớp Thuyết kệ cho người nghe.
7.
Bảy ngàn loại Dạ-xoa Trú tại Ca-tỳ-la, Có thần lựchào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo. Sau ngàn từ Tuyết Sơn Dạ-xoa đủ sắc mặt Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo
Ba ngàn từ Sàtà, Dạ-xoa đủ sắc mặt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Như vậy mười sáu ngàn Dạ-xoa đủ
sắc mặt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
8.
Năm trăm từ Vessà Dạ-xoa đủ sắc mặt, Có thần lực, hào quang, Có sắc
tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo. Kumbhira, Vương Xá, Trú tại
Vepulla, Hơn trăm ngàn Dạ-xoa, Hầu hạ vây xung quanh. Kumbhira, Vương Xá Cũng đến họp rừng này.
9.
Vua Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương) Trị vì tại phương Ðông, Chúa tể Càn-thát-bà Bậc đại vươngdanh tiếng. Vị này có nhiều con, Ðại lực, tên Indra Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Quốc vương Virùlha (Tăng Trưởng Thiên vương). Trị vì tại phương Nam, Chúa tể Cưu-bàn-trà (Kumbhanda) Bậc đại vươngdanh tiếng, Vị này có nhiều con, Ðại lực, tên Indra Có thần lực, hào quang. Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Vua Virùpakkha, (Quảng Mục Thiên vương) Trị vì tại phương Tây, Chúa tể loài Nàgà Bậc đại vươngdanh tiếng. Vị này có nhiều con Ðại lực, tên Indra, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Quốc vương Kuvera, (Ða Văn Thiên vương) Trị vì tại phương Bắc, Chúa tể, loài Dạ-xoa, Bậc đại vương, danh tiếng. Vị này có nhiều con, Ðại lực, tên Indra, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Trì Quốc vương, phương Ðông Tăng Trưởng vương, phương Nam Quảng Mục vương, phương Tây, Ða Văn vương, phương Bắc, Bốn bậc đại vương này, Khắp cả bốn phương trời, Cùng đứng, chói hào quang, Khắp rừng Ca-tỳ-la.
10.
Cũng đến các bộ hạ, Giả dối và xảo quyệt, Màyà, Kutendu, Vetandu, Vitu, Vituca, Candana, Kàmasettha, Kinnughandu, Nighandu chín vị đến. Panàda, Opamanna, Màtdi, (người đánh xe chư Thiên). Càn-thát-bà Cittasena; Vua Nala, Janesabha Pancasikha, Timbarù, Suriyavaccasà cũng đến. Như vậy cả vua chúa, Cùng với Càn-thát-bà, Hoan hỷ đến
rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo!
11.
Từ Nàbhasa, Vesàli, Tacchakà, Các Nàgà cũng đến. Kambala, Assatara, Pàyàgà, Cũng đến với quyến thuộc. Các Nàgà có danh tiếng, Dhatarattha và Yàmunà cũng đến. Eravana, Long vương, Cũng đến tại ngôi rừng. Những thiên điểu nhị sanh, Với cặp mắt thanh tịnh, Mãnh liệt chống Long vương, Nay bay đến ngôi rừng. Tên chúng là Citrà, Và tên Supannà. Long vương không sợ hãi, Nhờ ơn Phật an toàn Với những lời nhẹ nhàng, Chúng tự khuyên bảo nhau, Nàgà, Supannà
(Kim Sí điểu) Ðều đến quy y Phật.
12.
Asura ở biển, Bị sét Kim Cang thủ, Anh của Vàsava, Có thần lực danh xưng. Kàlakanjà, dị hình,
(Tu-la) Dànaveghasà, Vepacitti Cùng với Sucitti, Với Pahàràda, ác quỷ Namucì. Cùng con của Bali, Ðặt tên Veroca. Huy động toàn quân lực, Dâng cho vị thủ lãnh. Ràhu nói: "Mong thay Pháp hội được an
toàn. Phó hội chúng Tỷ-kheo Ðều đến tại rừng này".
13.
Thần nước, đất, lửa, gió, Cũng đến Varunà, Với thủy tộc, Soma, Cả Yasa cũng
đến. Chư ThiênTừ Bi sanh Có danh xưng cũng đến Mười vị thiên tộc này Dung mạo thật dị biệt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan
hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
14.
Venhù, Sahali, Asamà, Yamà, Chư Thiên thuộc Nguyệt tộc, Vị thủ lãnh cũng đến. Chư Thiên thuộc Nhật tộc Vân thần tên Manda, Quần tinh vị thủ lãnh Vàsava, Vasù Thần Sakka cũng đến. Mười vị Thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng. Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
15.
Sahavhù cũng đến, Với đầu lửa đỏ rực, Aritthakà, Rojà, Như bông hoa Ummà Varunà, Sahadhammà, Accutà, Anejakà Sùleyya-rucirà, Vàsavanesi cũng đến. Mười vị Thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
16.
Samànà, Mahàsamànà, Mànusà, Mànusuttamà, Khiddà-padùsikà, Mano-padùsikà Harayo, Lohita-vàsino, Pàragà, Mahà-Pàragà Có danh xưng cũng đến. Mười vị Thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
17.
Sukkà, Karumhà, Arunà, Veghanasà Odàta-gayhà, Vicakkhanà cũng đến, Sadàmattà, Hàragaja, Missakà
có danh xưng cũng đến. Pajjunna thần sét, Làm mưa
khắp mọi phương. Mười vị Thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt, Có thần lựchào quang, Có sắc tướng,
danh xưng Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
18.
Khemiyà, Tusità, Yamà, Danh xưng Katthakà, Lambitakà, Thủ lãnh các Làmà, Jotinàmà, Asava, Tha Hóa Tự tại thiên, Hóa Lạc thiên cũng đến. Mười vị thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
19.
Sáu mươi Thiên chúng này, Với diện mạo dị biệt, Theo danh tộc chúng đến, Cũng nhiều vị khác nữa. Nói rằng: "Sanh
đã tận, Then cài không còn nữa. Bộc lưu đã vượt qua, Ðã thành bậc Vô Lậu. Chúng con thấy vị ấy, Như voi vượt bộc lưu, Như trăng thoát mây tối".
20.
Subrahmà, Paramatta, Con các vị thần lực, Sanamkumàra Tissa, Ðến hội tại ngôi rừng. Ðại Phạm thiên, chúa tể, Ngự trị ngàn Phạm giới, Thác sanh có hào quang, Dị hình có danh xưng, Mười đấng
Tự Tại đến, Ngự trị mỗi mỗi cõi, Giữa vị này Hàrita, Cũng đến với đồ chúng.
21.
Tất cả đều cùng đến, Với Indra, Phạm thiên, Ma quân cũng tiến đến, Xem Hắc quỷ ngu si. "Hãy đến và bắt trói, Những ai bị tham triền, Hãy bao vây bốn phía, Chớ để ai thoát ly!" Như vậy Ðại Tướng quân, Truyền lệnh đoàn Hắc quỷ, Với bàn tay vỗ đất, Tiếng dội vang khiếp đảm. Như trong cơn giông
tố, Sấm chớp và mưa rào, Nó liền thối quân lui, Phẫn nộ nhưng bất lực.
22.
Với pháp nhãn thấy rõ, Và phân biệt tất cả, Bậc Ðạo Sư thuyết giảng, Chúng đệ tử thích nghe: "Ma quân đã tiến đến; Tỷ-kheo hãy biết chúng". Nghe lời dạy đức Phật, Ðại chúng tâm nhiệt tình. Kẻ thù đã bỏ đi, Xa vô tham, vô úy. Tất cả đều chiến thắng, Vô úy và vô xưng! Ðệ tử những vị này, Danh xưng, tâm hoan hỷ.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
[Xem Bản dịch Anh ngữ]
20. Maha-Samaya Sutta The Great Meeting Translated by Bhikkhu Thanissaro
Translator's Introduction This discourse is an interesting example of the folklore of the Pali Canon. It shows that the
tendency of Asian popular Buddhism to regard the Buddha as a protective
figure, and not just as a teacher, has its roots in the earliest part of the tradition. Metrical analysis indicates that the long "tribute" section of this discourse is very old, while the verses in the introductory section -- which is also found in the Samyutta Nikaya -- are later in form. This fits with a more subjective judgment: that the tribute was an earlier composition -- in the honorific style of the ancient court bards -- to which the introduction was added later. This judgment is based on the fact that the two sections do not quite fit each other. The introduction to the tribute indicates that the reciter of the tribute is the Buddha himself, whereas the narration in the tribute indicates otherwise.
At any rate, this discourse is the closest thing in the Pali Canon to a "who's who" of the deva worlds,
and should provide useful material for anyone interested in the cosmology of early Buddhism.
The Commentary reports the belief that the devas enjoy hearing this discourse chanted in Pali. Until recently it was part of many monks' standard memorized repertoire,
to be chanted at weddings and the dedication of new buildings. Even today, as many of the traditions of memorization in Asia seem to be falling by the wayside, there are a few monks and laypeople who chant this discourse regularly.
I have heard that on one occasion the Blessed One was dwelling among the Sakyans at Kapilavatthu in the Great Wood, together with a large Sangha of approximately five hundred bhikkhus, all of them arahants. And most of the devatas from ten
world-systems had gathered in order to see the Blessed One and the Bhikkhu Sangha. Then the thought occurred to four devatas of the ranks from the Pure Abodes: "The Blessed One is dwelling among the Sakyans at Kapilavatthu in the Great Wood, together with a large Sangha of about five hundred bhikkhus, all of them arahants. And most of the devatas from ten world-systems have gathered in order to see the Blessed One and
the Bhikkhu Sangha. Let us also approach the Blessed One and, on arrival, let us each speak a verse in his presence."
Then, just as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm, those devatas disappeared from among the devas of the Pure Abodes and reappeared before the Blessed One. Having paid homage to the Blessed
One, they stood to one side. As they were standing there, one devata recited this verse in the Blessed One's presence:
A great meeting in the woods: The deva hosts have assembled. We have come to this Dhamma meeting To see the invincible Sangha.
Then another devata recited this verse in the Blessed One's presence:
The bhikkhus there are concentrated, Have straightened their own minds. Like a charioteer holding the reins, The wise ones guard their faculties.
Then another devata recited this verse in the Blessed One's presence:
Having cut through barrenness, cut the cross-bar, Having uprooted Indra's pillar, unstirred, They wander about pure, unstained, Young nagas well tamed by the One with Vision.
Then another
devata recited this verse in the Blessed One's presence:
Those who have gone to the Buddha for refuge Will not go to the plane of woe. On discarding the human body, They will fill the hosts of the devas.
Then the Blessed One addressed the monks: "Monks, most of the devatas from ten world-systems have gathered in order to see the Tathagata and the Bhikkhu Sangha. Those who, in the past, were Pure Ones, Rightly Self-awakened, at most had their devata-gathering like mine at the present. Those who, in the future, will be Pure Ones, Rightly Self-awakened, will at most have their devata-gathering like mine at the present. I will detail for you the names of the deva hosts. I will describe to you the names of the deva hosts. I will teach you the names of the deva hosts. Listen and pay
close attention. I will speak."
"As you say, lord," the monks replied. The Blessed One said:
I recite a verse of
tribute. Those who live where spirits dwell, who live in mountain caves, resolute, concentrated, many, like hidden lions, who have overcome horripilation, white-hearted, pure, serene, and undisturbed: Knowing that more than 500 of them had come to the forest of Kapilavatthu, the Teacher then said to them, disciples delighting in his instruction, "The deva hosts have
approached. Detect them, monks!" Listening to the
Awakened One's instruction, they made a diligent effort. Knowledge appeared to them, vision of non-human beings. Some saw 100, some 1,000, some 70,000, some had vision of 100,000 non-human beings. Some gained vision of innumerable devas filling every direction. Realizing all this, the One-with-Vision felt moved to speak. The Teacher then said to them, disciples delighting in his instruction, "The deva hosts have approached. Detect them, monks, as I describe their glories, one by one.
7,000 yakkhas inhabiting the land of Kapilavatthu, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have approached the monks' forest meeting.
6,000 yakhas from the Himalayas, of varied hue, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have approached the monks' forest meeting.
From Mount Sata 3,000 yakkhas of varied hue, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have approached the monks' forest meeting.
These 16,000 yakkhas of varied hue powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have approached the monks'
forest meeting.
500 yakkhas from Vessamitta, of varied hue, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have approached the monks' forest meeting.
Kumbhira from Rajagaha, who dwells on Mount Vepulla, accompanied by more than 100,000 yakkhas -- Kumbhira from Rajagaha: He, too, has come to the forest meeting.
And Dhatarattha, who rules as king of the Eastern Direction, as lord of the gandhabbas: A glorious, great king is he, and many are his sons named Indra, of great strength. Powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, they have approached the monks' forest meeting.
And Virulha, who rules as king of the Southern Direction, as lord of the kumbandas: A glorious, great king is he, and many are his sons named Indra, of great strength. Powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, they have approached the monks' forest meeting.
And Virupakkha, who rules as king of the Western Direction, as lord of the nagas: A glorious, great king is he, and many are his sons named Indra, of great strength. Powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, they have approached the monks' forest meeting.
And Kuvera, who rules as king of the Northern Direction, as lord of the yakkhas: A glorious, great king is he, and many are his sons named Indra, of great strength. Powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, they have approached the monks' forest meeting.
Dhatarattha from the Eastern Direction, Virulhaka from the South, Virupakkha from the West, Kuvera from the Northern Direction: These four Great Kings encompassing the four directions, resplendent, stand in the Kapilavatthu forest.
Their deceitful vassals have also come -- deceptive, treacherous -- Maya, Kutendu, vetendu, Vitu with Vituta, Candana, the Chief of Sensual Pleasure, Kinnughandu, Nighandu, Panada, the Mimic, Matali, the deva's charioteer, Cittasena the gandhabba, King Nala, the Bull of the People, Pañcasikha has come with Timbaru and his daughter, Suriyavacchasa. These and other kings, gandhabbas with their kings, rejoicing, have approached the monks' forest meeting.
Then there have also come nagas from Lake Nabhasa, Vesali, and Tacchaka. Kambalas, Assataras, Payagas, and their kin. And from the River Yamuna comes the prestigious naga, Dhatarattha. The great naga Eravanna: He, too, has
come to the forest meeting."
They who swoop down swiftly on naga kings, divine, twice-born, winged, their
eyesight pure: (Garudas) came from the sky to the midst of the forest. Citra and Supanna are their names. But
the Buddha made the naga kings safe, made them secure from Supanna. Addressing one another with affectionate words, the nagas and Supannas made the Buddha their refuge.
"Defeated by Indra of the thunderbolt hand, Asuras dwelling in the ocean, Vasava's brothers -- powerful, prestigious -- Greatly terrifying Kalakañjas, the Danaveghasa asuras Vepacitti and Sucitti, Paharada, with Namuci, and
Bali's hundred sons, all named Veroca, arrayed with powerful
armies have approached their honored Rahu [and said]: 'Now is the occasion, sir, of the monk's forest meeting.'
Devas of water, earth, fire, and wind have come here. Varunas, Varunas, Soma together with Yasa, the prestigious devas of the hosts of goodwill and compassion have come. These ten ten-fold hosts, all of varied hue, powerful, effulgent, glamorous,
prestigious, rejoicing, have approached the monks' forest meeting.
Vendu (Visnu) and Sahali, Asama and the Yama twins, the devas dependent on the moon surrounding the moon have come. The devas dependent on the sun surrounding the sun have come. Devas surrounding the zodiac stars and the sprites of the clouds have come. Sakka, chief of the Vasus, the ancient donor, has come. These ten ten-fold hosts, all of varied hue, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have approached the monks' forest meeting.
Then come the Sahabhu devas, blazing like crests of fire-flame. The Arittakas, Rojas, cornflower blue. Varunas and Sahadhammas, Accutas and Anejakas, Suleyyas and Ruciras, and Vasavanesis have come. These ten ten-fold hosts, all of varied hue, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have
approached the monks' forest meeting.
Samanas and Great Samanas, Manusas and Super Manusas, the devas corrupted by fun have come, as well as devas corrupted by mind. Then come green-gold devas and those wearing red. Paragas and Great Paragas, prestigious devas have come. These ten ten-fold hosts, all of
varied hue, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have approached the monks'
forest meeting.
White devas, ruddy-green devas, dawn-devas have come with the Veghanas headed by devas totally in white. The Vicakkhanas have come. Sadamatta, Haragajas, and the prestigious multi-coloreds, Pajunna, the thunderer, who brings rain to all lands: These ten ten-fold hosts, all of varied hue, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have
approached the monks' forest meeting.
The Khemiyas, Tusitas, and Yamas, the prestigious Katthakas, Lambitakas, and Lama chiefs, the Jotinamas and Asavas, the Nimmanaratis have come, as have the Paranimmitas. These ten ten-fold hosts, all of varied hue, powerful, effulgent, glamorous, prestigious, rejoicing, have
approached the monks' forest meeting.
These 60 deva groups, all of varied hue, have come arranged in order, together with others in like manner [thinking:] 'We'll see him who has transcended birth, who has no bounds, who has crossed over the flood, the Mighty One, beyond evil, like the moon released from a cloud.'
Subrahma and Paramatta Brahma, together with sons of the Powerful One, Sanankumara and Tissa: They too have come to the forest meeting. Great Brahma, who stands over 1,000 Brahma worlds, who arose there spontaneously, effulgent: Prestigious is he,
with a terrifying body. And ten brahma sovereigns, each the lord of his own realm -- and in their midst has come Harita Brahma surrounded by his retinue."
When all these devas with Indras and Brahmas had come, Mara came as well. Now look at the Dark One's foolishness! [He said:] "Come seize them! Bind them! Tie them down with passion! Surround them on every side! Don't let anyone at all escape!" Thus the great war-lord urged on his dark army, slapping the ground with his hand, making a horrendous din, as when a storm cloud bursts with thunder, lightening, and torrents of rain. But then he withdrew-enraged, with none under his sway. Realizing all this, the One-with-Vision felt moved to speak. The Teacher then said to them, disciples delighting in his instruction, "Mara's army has approached. Detect them, monks!" Listening to the Awakened One's instruction, they made a diligent effort. The army retreated from those without passion, without raising even a hair on their bodies. Having all won the battle -- prestigious, past fear -- they rejoice with all beings: Disciples outstanding among the human race.
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn họcPhật giáoĐại thừa với tư tưởnguyên thâm về triết học và tâm lý học.
Đã phát khởichí nguyệnĐại thừa, lại kiên quyếtthực hiệnchí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lượcca ngợicông đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng tacần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
Đức PhậtA Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phậtthành đạo Bodhigaya
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biếnrộng rãi trong quần chúngViệt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Nithành đạo), và đã tồn tạiliên tục, phát triển không ngừng trên ...
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quảchi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúc ở thế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
Xin dâng hết lên Tam Bảochứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọnggiới thiệutoàn bộPhật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.