Ðại
Tạng KinhViệt Nam KINH TRƯỜNG BỘ Dìgha Nikàya Hòa
thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
32. Kinh A-sá-nang-chi (Atànàtiya sutta)
Như vậy tôi nghe.
1. Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), núi Gijjhakùta (Linh Thứu). Bốn Thiên vương sau khi sắp đặt trấn giữ bốn phương với đại quân Yakkha (Dạ-xoa), đại quân Gandhabba (Càn-thát-bà), đại quân Kumbhanda (Cưu-bàn-trà) và đại quân Nàga (Na-già), án ngữ bốn phương, bảo trì bốn phương, trong đêm tối thâm sâu,
với hào quangtuyệt diệuchói sángtoàn thể núi Linh Thứu, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Các vị Dạ-xoa,
có vị đảnh lễThế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm, rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên tên họ rồi ngồi xuống một bên; có vị im lặng, rồi ngồi xuống một bên.
2.
Sau khi ngồi xuống một bên, đại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởngThế Tôn; bạch Thế Tôn có những thượng phẩm Dạ-xoa tin tưởngThế Tôn, Bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa không tin tưởngThế Tôn; bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa tin tưởngThế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa không tin tưởngThế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa tin tưởngThế Tôn. Bạch Thế Tôn, nhưng phần lớn các Dạ-xoa không tin tưởngThế Tôn. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn. Thế Tônthuyết pháp để từ bỏsát sanh, thuyết pháp để từ bỏtrộm cắp, thuyết pháp để từ bỏtà dâm,
thuyết pháp để từ bỏ nói láo, thuyết pháp để từ bỏ không uống các loại rượu. Bạch Thế Tôn, tuy vậy phần lớn các Dạ-xoa đều không từ bỏsát sanh, không từ bỏtrộm cắp, không từ bỏtà dâm, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ uống các loại rượu. Ðối với họ, Pháp ấy không được ưa thích,
không được đón mừng. Bạch Thế Tôn, có những đệ tử của Thế Tôn, sống trong chốn thâm sâu cùng cốc, ít tiếng, ít động, có gió mát từ ngoài đồng thổi, che dấu không cho người thấy, thích hợp tịnh tu. Tại chỗ ấy, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng lời dạy Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, hãy học chú Atànàtiyarakkha (A-sá-nang-chi Hộ Kinh) để học được lòng tin, để các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ có thể sống
an lạc, được che chở, được hộ trì không bị tại họa.
Thế Tônim lặngchấp thuận.
3. Rồi đại vương Vessavana, biết được Thế
Tôn đã chấp thuận, trong giờ phút ấy, đọc lên bài Atànàtiya Hộ Kinh:
Ðảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi), Sáng suốt và huy hoàng! Ðảnh lễ đấng Sikhi (Thi-khí) Có lòng thương muôn loài! Ðảnh lễ Vessabha (Tỳ-xá-bà), Thanh tịnh, tu khổ hạnh! Ðảnh lễ Kakusandha (Câu-lâu-tôn), Vị nhiếp phục ma quân! Ðảnh lễ Konàgamana, (Câu-na-hàm) Bà-la-môn viên mãn! Ðảnh lễ kassapa (Ca-diếp), Vị giải thoát muôn mặt! Ðảnh lễ Angirasa, Vị Thích tử huy hoàng, Ðã thuyết chơn diệu pháp, Diệt trừ mọi khổ đau! Ai yểm ly thế giới, Nhìn đời đúng như chơn, Vị ấy không hai lưỡi, Bậc vĩ đại thanh thoát. Cùng đảnh lễ Gotama, Lo an lạc Nhơn Thiên Trì giới đức viên mãn! Bậc vĩ đại thanh thoát!
4.
Mặt trời sáng mọc lên, Vầng thái dương tròn lớn, Khi mặt trời mọc lên, Ðêm tối liền biến mất. Khi mặt trời mọc lên Liền được gọi là ngày. Biển cả hải triều động, Như hồ nước thâm sâu. Ở đấy mọi người biết, Chính biển cả hải triều, Dân chúng gọi
phương ấy Là phương Purimà, (phương đông). Vị trí
vì phương ấy, Bậc đại vương danh xưng, Chư loài Càn-thát-bà, Danh gọi Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương). Càn-thát-bà hầu quanh, Hưởng múa hát của họ. Vua này có nhiều con, Ta nghe chỉ một tên, Tám mươi và
mười một, Ðại lực, danh Inda. Họ chiêm ngưỡngThế
Tôn, Thuộc giòng họ mặt trời. Từ xa, họ lễ Phật, Bậc vĩ đại thanh thoát. "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân! Ðảnh lễ bậc Thượng nhân! Thiện tâm nhìn chúng con, Phi nhơn cũng lễ Ngài". Ðã nhiều lần, nghe hỏi, Nên đảnh lễ như vậy, "Quý vị xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Chúng con xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Ðảnh lễ Gotama, Bậc trí đức viên mãn".
5.
Họ được gọi Peta, Nói hai lưỡi, sau lưng, Sát sanh và tham đắm, Ðạo tặc và man trá, Dân chúng gọi phương ấy, Là phương Dakkhinà (phương Nam). Vị trị vì phương ấy, Bậc đại vương, danh xưng, Chủ loài Kumbhanda (Cưu-bàn-trà) Danh gọi Virùlhaka (Tỳ-lâu-lặc). Kumbhanda hầu quanh, Hưởng múa hát của họ. Vua này có nhiều con, Ta nghe chỉ một tên, Tám mươi và mười một, Ðại lực, danh Inda. Họ chiêm ngưỡngThế Tôn, Thuộc giòng họ mặt trời. Từ xa, họ lễ Phật, Bậc vĩ đại thanh thoát. "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân! Ðảnh lễ bậc Thượng nhân! Thiện tâm nhìn chúng con, Phi nhơn cũng lễ Ngài". Ðã nhiều lần, nghe hỏi, Nên đảnh lễ như vậy, "Quý vị xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Chúng con xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Ðảnh lễ Gotama, Bậc trí đức viên mãn".
6.
Mặt trời sáng lặng
xuống, Vầng thái dương trong lớn. Khi mặt trời lặn xuống. Ban ngày liền biến mất. Khi mặt trời lặn xuống, Liền được gọi là đêm. Biển cả hải triều
động, Như hồ nước thâm sâu, Ở đây mọi người hết, Chính biển cả hải triều, Dân chúng gọi phương ấy, Là phương Pacchimà (phương Tây). Vị trị vì phương ấy, Bậc đại vương, danh xưng. Chủ các loài Nàgà, Danh
Virùpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa). Loài Nàgà hầu quanh, Hưởng múa hát của họ. Vua này có nhiều con, Ta nghe chỉ một tên, Tám mươi và mười một, Ðại lực, danh Inda. Họ chiêm ngưỡngThế Tôn, Thuộc giòng họ
mặt trời. Từ xa, họ lễ Phật, Bậc vĩ đại thanh thoát. "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân! Ðảnh lễ bậc Thượng nhân! Thiện tâm nhìn chúng con, Phi nhơn cũng lễ Ngài". Ðã nhiều lần, nghe hỏi, Nên đảnh lễ như vậy, "Quý vị xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Chúng con xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Ðảnh lễ Gotama, Bậc trí đức viên mãn".
7.
Bắc Lô Châu (Uttarakurù) an lạc Ðại Neru (Tu-di) đẹp đẽ. Tại đấy, mọi người sống Không sở hữu, chấp trước. Họ không gieo hột giống, Không cần phải kéo cày. Loài người được thọ hưởng Lúa chín khỏi nhọc công. Loại gạo không cám trấu, Thanh tịnh có hương thơm, Ðược nấu chín trên đá, Và họ ăn gạo ấy. Chỉ cỡi loài bò cái, Ði phương này phương khác. Chỉ dùng các loài thú Ði phương này phương khác. Dùng xe đàn bà kéo, Ði phương này phương khác. Dùng xe đàn
ông kéo, Ði phương này phương khác. Dùng xe con gái kéo, Ði phương này phương khác. Dùng xe con trai kéo, Ði phương này phương khác. Họ lên trên các xe, Ði khắp mọi phương hướng, Ðể phục vụ vua mình. Họ cỡi xe voi kéo, Xe ngựa, xe chư Thiên, Ðối với vua danh xưng, Có lâu đài, có kiệu, Nhiều
thành phố của vua, Ðược xây giữa hư không. Các thành Atànàtà, Kusinàtà, Parakusinàtà, Nàttapuriyà, Parakusitannàtà Kapìvanta thuộc phía Bắc, Và các thành phố khác, Như Janogha, Navanavatiya, Ambara,
Ambaravatiya, Alakamandà, Là kinh đô của vua, Chỗ Kuvera ở. Vị vua đáng kính này, Kinh đô tên Visànà. Do vậy Kuvera, Ðược danh Vessavana. Các sứ quán được tên: Tatolà, Tattalà, Tatotalà, Ojasi, Tejasi, Tatojasi, Vua Sùra, Arittha, Nemi. Ðây có vùng nước lớn, Từ đây mưa đổ xuống, Ðược tên Dharanì. Tại đây mưa đổ xuống, Ðược tên Dharanì. Tại đây có giảng đường, Tên Bhagalavati, Chỗ Dạ-xoa tập hội. Tại đây nhiều cây trái, Trên cây chim tụ họp, Các loại công, loại cò, Diệu âm chim Kokilà, Ở đây, chim Jiva, Kêu tiếng "Hãy sống
đi", Và tiếng chim kêu lên, "Hãy khởi tâm thích thú". Nhiều loại chim sai khác, Ở rừng và ở hồ, Với con vẹt ồn ào, Và con chim Mynah, Các loại chim thần thoại, Gọi là Dandamànavakà. Hồ sen Kuvera, Chiếu sáng tất cả trời, Dân chúng gọi phương ấy, Là phương Uttarà (phương Bắc). Vị trị vì phương ấy, Bậc đại vương danh xưng, Chủ các loài Dạ-xoa, Ðược gọi Kuvera. Các Dạ-xoa hầu quanh, Hưởng múa hát của chúng. Vua này có nhiều con, Ta nghe chỉ một tên, Tám mươi và mười một, Ðại lực, danh Inda. Họ chiêm ngưỡngThế Tôn, Thuộc giòng họ mặt trời. Từ xa, họ lễ Phật, Bậc vĩ
đại thanh thoát. "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân! Ðảnh lễ bậc Thượng nhân! Thiện tâm nhìn chúng con, Phi nhơn cũng lễ Ngài". Ðã nhiều lần, nghe hỏi, Nên đảnh lễ như vậy, "Quý vị xin đảnh lễ, Gotama chiến
thắng! Chúng con xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Ðảnh lễ Gotama, Bậc trí đức viên mãn".
8. Tôn giả, Hộ Kinh Atànàtiya này che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống
an lạc.
Khi một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ nào sẽ học Hộ Kinh Atanatiya này một cách chín chắn, rõ ràng, nếu có loài phi nhân nào, Dạ-xoa, Dạ-xoa-ni, con trai Dạ-xoa, con gái Dạ-xoa, đại thần Dạ-xoa-ni, tùy tùng của Dạ-xoa, hay lao công của Dạ-xoa; hoặc Càn-thát-bà... hoặc Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)... hoặc Nàga... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ khi vị này đi; đứng gần, khi vị
này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệmđộc ác,
thời này Tôn giả, vị phi nhân ấy trong làng hay trong đô thị sẽ không được ai đón mừng hay kính trọng. Này Tôn giả, phi nhân ấy, trong kinh đô
Alakamada của Ta sẽ không tìm được đất đai hay chỗ ở. Vị phi nhân ấy sẽ
không được đi dự hội giữa các Dạ-xoa. Này Tôn giả, vị phi nhân ấy sẽ không được cưới hỏi. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dùng những lời nói hốn láo xấc xược đối với vị ấy. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dìm đầu vị ấy xuống. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ chẻ đầu vị ấy ra làm bảy mảnh.
9. Này Tôn giả, có hàng phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Chúng không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương. Này Tôn giả, các phi nhân này được xem là thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, như các đại tướng cướp
vua xứ Magadha bị chinh phục. Cũng vậy, các vị này không nghe lời các vị đại vương, không nghe lời đình của thần các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương. Này Tôn giả, các vị đại tướng cướp này được xem là kẻ thù nghịch của vua xứ Magadha - cũng vậy, này Tôn giả, có những vị phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Các vị này không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần các vị đại vương. Này Tôn giả, các vị phi nhân này được xem là
kẻ thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, nếu có vị phi nhân nào, Dạ-xoa hay Dạ-xoa-ni nào... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ hay Nữ cư sĩ khi vị này đi, đứng gần khi vị này đứng; ngồi khi vị này
ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệmđộc ác, vị này hãy nói lên, kêu lên, van lên với các những vị Dạ-xoa ấy, đại Dạ-xoa ấy, quân sư, đại quân sư ấy: "Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không
thả tôi ra".
10. Những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sự, đại quân
sư nào được kêu gọi ở đây:
Inda, Soma, và Varuna, Bhàradvaja, Pajàpati, Candana, Kàmasettha, Kinnughandu, Nighandu, Panàda và Opamanna, Devanita và Màtali, Cittasena và Gandhabba. Vua Nala, Janesabha, Sàtàgira Hemavata, Punnuaka, Karatiya, Gula, Sivakat và Mucalinda Vessàmitta, Yugandhara, Gopàla và Suppagedha, Hirì, Settì và Mandiya, Pancàla Canda, Alavaka, Pajjunna, Sumana,
Sumukha, Dadhimukha Mani Mànicara, Dìgha, Atha và
Serissaka.
Những vị này là những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sư, đại quân sư cần phải được nói lên, kêu lên, van lên: "Dạ-xoa này bắt
tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra".
11. Này Tôn giả, đây là Hộ Kinh Atànàtiyà che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các
vị này sống an lạc.
Thưa Tôn giả, nay chúng tôicần phải đi,
chúng tôi có nhiều việc, có nhiều bổn phận.
- Ðại vương, Ðại
vương hãy làm điều gì Ðại vương nghĩ là phải thời.
Rồi bốn vị đại vương, từ chỗ ngồi đứng dậyđảnh lễThế Tôn, thân bên hữu hướng về phía Ngài rồi biến mất tại đấy.
Các vị Dạ-xoa ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, có vị đảnh lễThế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên những lời hỏi thămxã giao với Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị chấp tay hướng đến Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên tên họ của mình rồi biến mất tại chỗ; có vị im lặng biến mất tại chỗ.
12. Rồi Thế Tôn sau khi đêm đã mãn, liền gọi các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, khi hôm, bốn vị đại vương cùng với đại quân sư Dạ-xoa:
"Ðảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi) sáng suốt và huy hoàng; Ðảnh lễ đấng Sikhi, (Thi-khí) có lòng thương muôn loài...
Này Tôn giả, đó là hộ kinh Atànàtiyà che chở, hộ trì, ... (như trên) ...
rồi biến mất tại chỗ".
13. Này các Tỷ-kheo, hãy học Hộ Kinh Atànàtiyà này, hãy thuộc lòng Kinh Atànàtiyà này. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ được che chở, được hộ trì, được ngăn khỏi ai làm hại, được sống thoải máihạnh phúc.
Thế Tônthuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷthọ trì lời dạy Thế Tôn.
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn họcPhật giáoĐại thừa với tư tưởnguyên thâm về triết học và tâm lý học.
Đã phát khởichí nguyệnĐại thừa, lại kiên quyếtthực hiệnchí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lượcca ngợicông đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng tacần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
Đức PhậtA Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phậtthành đạo Bodhigaya
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biếnrộng rãi trong quần chúngViệt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Nithành đạo), và đã tồn tạiliên tục, phát triển không ngừng trên ...
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quảchi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúc ở thế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
Xin dâng hết lên Tam Bảochứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọnggiới thiệutoàn bộPhật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.