LỜI MỞ ĐẦU
1.
Pháp thân. Xem trang 30 của Giới Thiệu Mở Đầu.
2.
Rahu
là hành tinh thứ tám với vương miện của nó là “Ketu”,
được xem là hành tinh thứ chín, theo chiêm tinh học truyền
thống. Thần thoại học Ấn diễn tả Rahu là một sức mạnh
ma quỷ thuộc về cõi trời, hình dáng khủng khiếp, với chín
đầu. Đi qua không gian, Rahu nuốt mặt trời và mặt trăng
theo định kỳ, tạo ra nhật thực nguyệt thực. Rồi mặt
trăng mặt trời tiếp tục di chuyển qua một chỗ mở trong
cổ họng Rahu.
3.
Năm
Uẩn là năm hợp chất bị điều kiện hóa theo nhân quả
của tất cả hiện hữu, nhất là con người. Thực thể cái
ngã bề ngoài thực ra không gì hơn một tiến trình những
hiện tượng, một đống những biến cố tâm lý thường trực
lưu chuyển. Những tiến trình cấu thành này được sắp xếp
thành năm cái : (1) hình dạng (sắc), (2) cảm nhận (thọ),
(3) tri giác (tưởng), (4) những hiện tượng tâm thức (hành)
và (5) ý thức (thức).
4.
Tám
thuộc tính hoàn thiện. Trong Phật giáo Tám Thuộc Tính
Hoàn Thiện kể ra ở sau được cho là đặc biệt thuộc về
cõi Phật Báo thân :
1.
Thuộc
tính biểu lộ hình tướng sai khác vô biên.
2.
Thuộc
tính truyền thông theo chủ ý với những người khác.
3.
Thuộc
tính trí huệ toàn thể.
4.
Thuộc
tính năng lực chuyển hóa thành hình tướng nào bất
kỳ.
5.
Thuộc
tính tâm trùm khắp bao bọc tất cả các vũ trụ.
6.
Thuộc
tính tri giác và tham dự vào những cảm giác của thân
thể do bởi giác ngộ.
7.
Thuộc
tính đem lại sự thành tựu những mong muốn và nguyện
vọng của tất cả chúng sanh.
8.
Thuộc
tính năng lực duy trì bất cứ sắc tướng nào trong
thời gian dài.
5.
Mười
năng lực siêu việt (thập lực) :
1.
Năng
lực của tâm Phật, bao trùm toàn bộ lãnh vực hiểu
biết và trực tiếp tri giác bản tánh nội tại của những
quy luật vũ trụ, đặc biệt khi chúng áp dụng vào đời sống
của chúng sanh. Tâm Phật thấy với sự xác quyết tuyệt đối
rằng hạnh phúc chỉ sanh ra từ những tư tưởng và hành vi
thiện không bao giờ bởi những cái xấu ác, trong khi khổ
đau chỉ sanh ra từ những tư tưởng và hành vi xấu ác và
không bao giờ bởi những cái thiện.
2.
Năng
lực tri nhận một cách rạch ròi mọi kết quả tương
lai của những loại nghiệp khác nhau. Cũng thế, năng lực
thấy hậu quả của những lực tương tác ở mức độ vũ
trụ.
3.
Năng
lực tri nhận tiềm năng cho giải thoát trong mỗi chúng
sanh, chúng tạo thành bản chất nội tại của mười tám yếu
tố tâm lý (sáu căn, sáu trần, sáu thức). Xem Con Mắt Trí
Huệ của Dalai Lama XIV.
4.
Năng
lực tri nhận bản chất và cấp độ của nguyện vọng
bên trong mỗi cá nhân.
5.
Năng
lực tri nhận sự nhạy cảm về trí năng của mỗi cá
nhân.
6.
Năng
lực biết và tri giác mọi con đường khác nhau dẫn đến
những cõi cao của đời sống, sự giải thoát và giác ngộ
hoàn toàn.
7.
Năng
lực hiểu vô số hình thức của sự tham thiền trên
nhiều giai đoạn của giác ngộ.
8.
Năng
lực tri nhận tất cả nghiệp quá khứ của mỗi cá nhân.
9.
Năng
lực tri nhận giờ phút chính xác về cái chết của mỗi
chúng sanh và năng lực chuyển di dòng tâm thức của chúng
sanh đó đến những đời kế tiếp.
10.
Năng
lực tri giác thấy mọi phương pháp khác nhau để chấm
dứt dòng sanh tử hay chuyển hóa những nhiễm ô của tâm thức
và thấy nhiều loại kết quả mà những phương pháp ấy tạo
ra.
6.
Dakini.
Xem trang 36 của Giới Thiệu Mở Đầu.
7.
Yidam.
Xem trang 35 của Giới Thiệu Mở Đầu.
8.
“Những
người hỗ trợ đã thức tỉnh” là những dakini.
9.
Kim
Cương thừa. Xem trang 32 của Giới Thiệu Mở Đầu.
10.
Bốn
loại Tantra. Toàn bộ những bản văn bao gồm những giáo
lý của Kim Cương thừa, được chia làm bốn phạm trù theo
bản chất của thực hành thiền định và sự tiếp cận thuộc
tâm lý phù hợp với mức độ tiềm năng của cá nhân. Bốn
cái là :
1.
Jagyu,
dòng hoạt động (Kriya Tantra).
2.
Chogyu,
dòng hoạt động và thiền định (Charya Tantra).
3.
Naljorgyu,
dòng thanh tịnh bên trong (Yoga Tantra).
4.
Naljor
Lamagkigyu, dòng thanh tịnh bên trong tối thượng (Anuttrayoga
Tantra).
11.
Tám
Phản Ứng Thế Gian là những phản ứng phiền não khởi
từ tâm chấp ngã. Tám phản ứng được hợp thành hai nhóm,
tích cực và tiêu cực. Bốn phản ứng tích cực là : thích
thú với hài lòng, khen, được, và lời ngon ngọt ; bốn phản
ứng tiêu cực : bị quấy nhiễu bởi không hài lòng, chê,
mất và lời khó chịu.
12.
Bồ
tát. Ám chỉ Bồ đề tâm. Từ Bồ tát được dùng trong
hai cách chính, theo hai cấp độ : con đường của Bồ tát
và bản thân sự Chứng Ngộ Tối Hậu. Một Bồ tát là người
nỗ lực làm phát sanh trong chính mình lòng đại bi cho chúng
sanh và nỗ lực đạt đến trí huệ siêu việt để cho người
ấy có thể vừa làm việc cho sự giải thoát của tất cả
chúng sanh vừa hoàn thành giác ngộ trọn vẹn cho chính mình.
Như thế một Bồ tát là một người đã hoàn thành giác ngộ
thực sự nhưng đã chọn làm việc cho chúng sanh qua chuỗi
tái sanh không dứt, hoặc là một cá nhân bình thường đã
nhận Bồ tát giới và nhờ đó đã quyết định tìm kiếm
sự giác ngộ cho chính mình vì lợi lạc cho chúng sanh.
13.
Những
daka và dakini và hai mươi bốn trung tâm năng lực của
thân như kim cương của ngài. Có ba hạng dakini trong truyền
thống Kim Cương thừa. Những dakini hạng thứ nhất, cũng được
diễn tả là “dakini giác ngộ tự phát”, như là những yidam
như Vajrayogini, Tara... sanh khởi từ năng lực của sự khai
mở của Báo thân. Hạng thứ hai là những dakini vô hình được
diễn tả là “những người sanh trong những cõi Trời”.
Một số trong họ là những lưu xuất của những dakini hạng
thứ nhất và những vị khác là người đã đạt đến mức
độ này qua sự chứng đắc của họ. Theo nghĩa biểu hiện
của truyền thống, họ tác động từ những cõi trời vô
hình bao gồm hai mươi bốn nơi chốn thiêng liêng ở Ấn Độ
và Tây Tạng. Tuy nhiên theo nghĩa hiện thực, những dakini tượng
trưng bản tánh tối hậu của mọi lực lượng tâm sinh lý
trong mỗi người và trong bản thân người đó có “hai mươi
bốn cõi” tương đương.
Hạng
thứ
ba gồm những người sanh từ “sự chứng ngộ thần
chú”. Họ ở giữa loài người, hoặc là những dakini tiềm
thể hoặc là những người đã đạt đến những cấp độ
của chứng ngộ bên trong qua sự hiểu biết bẩm sanh hay qua
những giai đoạn của con đường Kim Cương thừa.
Nhân
đây,
những hình tướng khác nhau của những yidam trong cả
hai phái giống được diễn tả trong hệ thống tranh tượng
bí truyền chỉ là những biểu thị năng lực chuyển hóa của
Báo thân. Sự khác biệt của những hình tướng và sự phân
biệt giống phái (dễ làm bối rối) không thể và không phải
được nhìn như những thực tại khách quan vì chúng chỉ là
một phương cách tâm lý để truyền thông chân lý vĩ đại
của tính tương đối duyên sanh cùng với tính bất nhị nội
tại và tánh không của nó.
Thân
như
kim cương ám chỉ giáo lý Kim Cương thừa rằng tiềm ẩn
trong thân tâm con người là những tiềm năng vĩ đại của
sự thanh tịnh và thực tại vốn sẵn đủ. Kim Cương thừa
xem năm uẩn của con người là năm bộ Phật và xem năm đại
– đất, nước, gió lửa, không khí-năng lực, và không gian
– là năm Phật nữ tính. Năm nhiễm ô được chuyển hóa
thành Năm Trí Huệ Siêu Việt qua tiến trình thiền định.
Một thiền giả như Milarepa có thể và hoàn thành giác ngộ
bằng cách khai thác những tiềm năng ẩn kín trong thân tâm
con người.
14.
Heruka.
Theo ngữ nguyên học, he nghĩa là tánh không nội tại
của mọi nguyên nhân, ru là tánh không nội tại của mọi
kết quả, và ka nghĩa là tánh không nằm trong bản tánh sâu
nhất của mọi sự. Như thế, Heruka đồng nhất với bản
tánh tối hậu của thực tại. Heruka cũng được dùng như
danh hiệu cho những yidam trong hình dạng khủng khiếp.
Tuy
nhiên
có định danh khác về yidam hung nộ – “người uống
máu” – phát sanh từ danh từ Sanskrit “Rudhika”. Bởi thế,
Heruka là người giết bốn loại ma bằng cách uống máu chúng.
Trong
phương
pháp mật truyền, vị lama của cá nhân mình được
xem là hiện thân của Heruka.
15.
Tám
bộ thiên long quỷ thần. Ám chỉ tám bộ những lực lượng
siêu nhiên. Nhất là nó ám chỉ tám thủ lĩnh thống lĩnh tám
đạo quân thiên, thiên nữ, yama (dạ ma), yaksa (dạ xoa), raksa
(la sát), tsan, rồng và gyalpo.
16.
Phương
diện Ba Thân của tâm. Ám chỉ đặc tính tâm thức
con người là một hệ thống toàn bộ. Tánh không nội tại
của tâm hay dòng thức là Pháp thân ; sự sáng tỏ nội tại
của tánh giác là Báo thân ; và những tri giác và những tư
tưởng mở bày không chướng ngại là Hóa thân.
17.
Phật
Vajradhara. Vajradhara là sự biểu lộ cao nhất của giác
ngộ, sự đại diện thấy được của Pháp thân. Nghĩa đen
của “Vajra” là kim cương, nhất là trong phương diện cứng
chắc không thể bể nát của nó. Trong nghĩa cao hơn, Vajra để
chỉ bản tánh nội tại của giác ngộ – sự hợp nhất bất
khả hoại và bất khả phân của trí huệ siêu việt và lòng
bi vô hạn, cũng như lạc tối thượng và tánh không tối hậu.
Là
sức
mạnh vũ trụ tối cao khởi từ cõi giới Pháp thân, Vajradhara
tượng trưng sức mạnh hợp nhất tối thượng và nguồn bi
mở khắp. Trong Vajradhara mọi hình tướng Báo thân, mọi phẩm
tính và công năng của chúng được thống nhất. Từ đó Vajradhara
được diễn tả là sự thống nhiếp toàn khắp của mọi
thuộc tính của giác ngộ.
18.
Bốn
Phương Diện của Giác Ngộ. Từ này để chỉ Ba Phương
diện của Giác ngộ (Ba Thân Trikaya) cộng với Phương diện
Tinh Túy (Svabhavekakaya). Phương diện Tinh Túy này là tính cách
vốn có hay nền tảng của Pháp thân. Nó được định nghĩa
đơn giản là cõi thanh tịnh của giác ngộ. Vốn không chất
thể, nó cũng không dơ nhiễm và khiến cho sự loại trừ mọi
nhiễm ô trí thức và tình cảm có thể được. Không gian
thanh tịnh bên trong của giác ngộ và tánh giác tối hậu thường
được gộp vào từ Pháp thân. Hai phương diện khác là sự
biểu lộ cao nhất (Báo thân) và sự biểu lộ trần thế (Hóa
thân).
19.
Năm
Trí Huệ Siêu Việt. Xem Chú thích 13 ở trên và Chú thích
2, Phần Một, Chương 3.
PHẦN
MỘT, CHƯƠNG 1
1.
Yogin
trong tiếng Sanskrit và yogi trong tiếng Hindi (thiền giả).
2.
Tilopa,
Naropa và Marpa. Hai dòng chính của phái Kagyuš là Ringyu,
“dòng dài” những vị thầy và Nyegyu, “dòng ngắn” những
vị thầy (còn được gọi là dòng trực tiếp). Dòng sau truyền
xuống từ đại sư Tilopa, ngài đã nhận lãnh sự trao truyền
bí mật bằng miệng về những giáo lý mật truyền, đặc
biệt là những cái về sau được biết với tên là Sáu Giáo
Pháp của Naropa. (Xem Chú thích 6, Phần Hai, Chương 4.)
3.
Ngonga
và Ogmin : những tên Tịnh độ của Phật. Ngonga : Hoan
Hỷ Toàn Hảo, cõi Phật của Akshobhaya (A Súc Bệ, Bậc Bất
Động). Khi một thiền giả nhập môn quán tưởng Năm Cõi
Phật trong thiền định, Ngonga được định vị ở phương
Đông. Từ Ogmin nghĩa đen là “không trên”, tức là cõi Phật
cao nhất của Báo thân. Đôi khi Ogmin như là một tĩnh từ
trợ nghĩa cho danh từ Ngonga thành Ogmin Ngonga, Cõi Hoan Hỷ Tối
Cao.
4.
Nyingma.
“Cổ Phái”, cũng gọi là “Cựu Dịch”, phát sinh
từ thế kỷ thứ tám bởi Guru Padmasambhava và Vimalamitra, cả
hai vị đều đến từ Ấn Độ. Đây là một trong bốn phái
chính của Phật giáo Tây Tạng còn hiện diện cho đến ngày
nay ở trong và ngoài Tây Tạng.
5.
Mantra.
Một thần chú là một chữ đơn hay một số chữ thiêng
liêng. Trong thiền định mật thừa Phật giáo, những thần
chú được quán tưởng trong hình thức phát sáng hay được
hát theo nhiều cấp độ giọng. Tuy nhiên đôi khi, sự thực
hành mang hình thức một sự chuyển hóa im lặng âm thanh thần
chú thành sự hợp nhất với năng lực năng động của hơi
thở.
Những
bản
văn mật thừa cùng với những nguyên lý và những thực
hành của sự tự chuyển hóa vốn được các đại đạo sư
giác ngộ ban truyền. Những thần chú có nhiều cấp độ ý
nghĩa, chúng chỉ có thể được học từ một vị thầy có
kinh nghiệm, và chỉ bằng cách theo thủ tục đã định sẵn
của ngài.
6.
“Papa
Mila !” “Cha ơi, quả là một người ! Cha ơi, quả
là một người !” Trong tiếng Tây Tạng, “mi” nghĩa là
người và “la” là một từ tán thán cần thiết nhấn mạnh.
Như thế là sự biểu lộ, Cha ơi, quả là một người ! (JB)
7.
Hình
thờ. Sự sử dụng những hình thờ phát xuất từ phong
tục xưa của tôn giáo bản địa Tây Tạng gọi là Bošn, một
hình thức thờ thiên nhiên. Những hình tạc đàn ông, đàn
bà và thậm chí thú vật nuôi trong nhà được làm từ gỗ
hay bột tráng bằng bơ màu để cúng trời, thần và những
hồn linh để giải thoát những nạn nhân khỏi ảnh hưởng
xấu của họ. Những nghi lễ được cử hành ở nhà hoặc
bởi thầy cúng hay đôi khi bởi những vị tăng Phật giáo
mật thừa. Xem Chú thích 4, Phần Hai, Chương 8.
8.
Tsa
: viết tắt của Kya Ngatsa.
9.
Năm
con Rồng Thủy. Năm 1052.
PHẦN
MỘT, CHƯƠNG 2
1.
Dzo
: con vật lai giống giữa trâu yak và bò thường. (JB)
2.
Chuba
: Ống tay áo của áo chuba Tây Tạng, khi xếp vào lên
quá khuỷu tay và có thể dùng như một cái roi quất.
3.
Chúng
tôi sẽ chạy đến khi nghe tiếng trống và khi khói bốc
lên. Ám chỉ hoàn cảnh của những nghười nghèo khổ và ăn
xin, nhất là khi những nhà có lễ tôn giáo với âm thanh của
nhạc, như tiếng trống và khi khói bốc lên từ những ống
khói lò bếp. Những dịp ấy chủ nhà sẽ phân phát thức
ăn.
4.
Thờ
cúng tám con rồng : Tám Con Rồng là tám Thiên Long.
PHẦN
MỘT, CHƯƠNG 3
1.
Dza
mặt màu hạt dẻ, một trong ba thần bảo vệ chánh của
Phái Nyingma. Là Dza, ngài cũng được xem là một lực lượng
cõi trời đồng hóa với hành tinh thứ tám, Rahu, và hành tinh
thứ chín, Ketu. Dza là vua của những lực lượng ma quỷ trong
tám đạo quân của các vị trời và quỷ thần. (Xem Chú thích
15, Lời Mở Đầu.)
2.
Hum.
Đây là một phần của loại thần chú đặc biệt gọi
là drak-ngak, một thần chú làm kinh sợ. Chữ “Hum” thiêng
liêng về tổng quát tượng trưng bản tánh, những thuộc tính
và thần lực của Phật tâm. Chia thành năm phần, chữ này
trong tiếng Sanskrit hay Tây Tạng tượng trưng Năm Trí Huệ
Siêu việt của Phật tâm : (1) trí huệ về tánh không toàn
khắp, (2) trí huệ như tấm gương (Đại viên cảnh trí), (3)
trí huệ của lòng bi tự khởi, (4) trí huệ của sự phân
biệt (Diệu quan sát trí) và (5) trí huệ của sự bình đẳng
(Bình đẳng tánh trí).
3.
Paht
là chữ cuối của thần chú gây kinh hãi này. Một phù
thủy thốt lên chữ này với những chữ khác khi ném một
lời chú thuật lên kẻ thù. Ngược lại, một thiền giả,
thốt lên thần chú này như một phần của tiến trình thiền
định để giải tan những lực lượng đối nghịch bên trong
ngăn chặn trên con đường giác ngộ. Trong thiền định mật
truyền, chữ này được thốt lên hết cả sức mạnh để
đem tâm trở lại sự chú ý.
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 1
1.
Giáo
lý Đại Toàn Thiện. Câu này ám chỉ giáo pháp Atiyoga,
là hình thức cao nhất của giáo lý bí truyền trong truyền
thống Tây Tạng.
Câu
đầu
toàn thiện ở gốc rễ nói đến tính cách thâm sâu
nhất của con người, tánh giác bổn nguyên của nó. Tánh giác
này không bị ô nhiễm bởi năng lực của cái ngã và ngay
cả chư Phật cũng không thể làm biến chất nó. Tinh túy tối
hậu là một hợp nhất không thể phân ly của sự tri nhận
siêu việt và tánh không vốn sẵn của nó đến mức sự hợp
nhất đó vượt khỏi nhị nguyên của sanh tử và niết bàn,
nhị nguyên này còn hiện hữu chừng nào con người còn bị
sự mê lầm về cái ngã và về những hiện tượng cai trị.
Điều
này
dẫn đến câu toàn thiện ở chót đỉnh, nó bao hàm một
quán chiếu cao hơn trong con đường nhờ một sự thức tỉnh
tự nhiên. Trạng thái này được đem lại trước tiên nhờ
sự quán đảnh truyền pháp nhập môn và rồi được nhen nhúm
lại nhờ thiền định trong mọi cách thức tự chuyển hóa.
Câu toàn thiện nơi quả của giác ngộ ám chỉ giác ngộ không
phải là một đối tượng lìa khỏi tánh tỉnh giác nguyên
sơ của con người. Thiền định về nó ban ngày thì thành
Phật trong một ngày... Chỉ rằng cái giác ngộ này là vốn
sẵn, bẩm sinh trong sự tỉnh giác vào mỗi khoảnh khắc của
dòng hiện sinh của người ta và rằng người sơ học chỉ
việc tự mở mình ra với chân lý này.
2.
Ngọn
cờ chiến thắng, là một trong tám biểu trưng tốt lành.
Hình tượng truyền thống này được dương lên trên đỉnh
các chùa Phật giáo, những tu viện và nhà riêng có trọn bộ
Đại tạng.
3.
Rinpoche
là một từ tôn kính, nghĩa đen là “Bậc Quý Báu”
dùng để chỉ những vị lama. Từ này cũng nối kết với
biểu tượng truyền thống Viên Ngọc Như Ý. Khi cầu nguyện
vị lama bổn sư của mình, một đệ tử có thể nói đến
ngài như “vị lama của con, ngài là Viên Ngọc Như Ý.”
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 2
1.
Yidam
Chakrasamvara. Chakrasamvasra là một bổn tôn yidam đặc biệt
thuộc về tantra Mẹ. Lý thuyết và thực hành của sự tự
chuyển hóa nối kết với yidam này chủ yếu về sự phát
triển của trí huệ siêu việt và về sự chứng ngộ tánh
giác nguyên sơ, được diễn tả như tánh không của sự sáng
tỏ quang minh. Tuy nhiên, nó không loại trừ phương pháp đạt
đến hình tướng Báo thân, cái này là thực hành chính của
Guhyasamaja. (Xem Chú thích 2, ở dưới.)
2.
Guhyasamaja.
Một yidam, của Anuttara Tantra. Guhyasamaja là sự biểu
lộ của Pháp thân thống nhất trong nó những thuộc tính của
tất cả chư Phật. Lý thuyết và thực hành của sự tự chuyển
hóa nối kết với yidam này chủ yếu về sự phát triển lòng
bi vô biên như là một sức mạnh động lực và về những
chuyển hóa thiện xảo khéo léo những hợp uẩn tâm sinh lý,
và đặc biệt những năng lực dấu kín của chúng, thành hình
tướng Báo thân. Yidam này thuộc về tantra Cha. Có những hình
thức khác nhau của Guhyasamaja.
3.
Dorje
Pahgmo. Vajravarahi trong tiếng Sanskrit. Tên của một dakini
và một hình thức thực hành thiền định.
4.
Hevajra.
Một yidam theo Anuttara Tantra. Giáo lý của dòng thực
hành này thuộc về truyền thống Bất Nhị (nghĩa là không
thuộc riêng tantra Cha hay tantra Mẹ). Nó phối hợp những yếu
tố của cả hai tantra Cha và tantra Mẹ. Trong một nghĩa thực
hành điều đó có nghĩa là phối hợp hai thực hành chính
yếu, tức là sự chuyển hóa thân thể phàm trần thành cấp
độ Báo thân và sự chứng ngộ tánh không bẩm sinh của tánh
giác.
5.
Tám
Ngàn Bài Kệ. Astasahasrika Prajnaparamita.
6.
Taktugnu.
Một Bồ tát trải qua nhiều thử thách không thể
nghĩ bàn để tìm cầu Pháp. Có một tiểu sử Taktugnu trong
tiếng Tây Tạng.
7.
Hai
Phần. Ám chỉ những bộ phận chính của Hevajra Tantra.
8.
Mudra.
Ấn là những cử chỉ tượng trưng của bàn tay hay tư
thế thân thể là một phần của thực hành mật truyền.
9.
Maitrepa,
là một vị thầy Phật giáo Ấn Độ. Marpa đã nhận
giáo lý mật truyền về Đại Ấn từ ngài khi du hành qua Ấn
Độ. Marpa trao truyền giáo lý này cho Milarepa, Mila lại trao
truyền cho Gampopa, Retchungpa... cho đến những vị thầy của
ngày nay.
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 3
1.
Chén
rượu bằng sọ người. Kapala trong tiếng Sanskrit. Chén
rượu làm bằng chỏm của một cái sọ người.
2.
Mạn
đà la Chakrasamvara. Mạn đà la tượng trưng “cung điện-chùa”
là chỗ nhóm hội của sáu mươi hai thần do Chakra-samvara và
dakini phối ngẫu Vajravarahi làm chủ. Cung điện-chùa và những
vị trú ngụ cũng tượng trưng cho thực tại tối cao, trong
đó Pháp thân của Phật có thể phóng chiếu ra ngoài và Lama
Marpa cũng phô bày thực tại đó qua hành động của Tâm Giác
Ngộ khi quán đảnh cho Milarepa.
3.
Ba
mươi hai nơi chốn linh thánh và tám nơi hỏa thiêu vĩ đại.
Tám chỗ hỏa táng hay nghĩa địa lớn, được đề cập trong
nhiều bản văn mật thừa quan trọng được tin là nằm trong
nhiều miền của bán lục địa Ấn Độ. Chúng đã được
nhiều hành giả và thiền giả chọn và sùng bái như những
nơi để thực hành những chuyển hóa nhận thức về những
hoàn cảnh ghê gớm. Trong truyền thống Tây Tạng “hai mươi
bốn nơi linh thánh” và “tám nơi hỏa thiêu vĩ đại” đôi
khi để ám chỉ “ba mươi hai nơi linh thánh”. Có nói rằng
đó là những nơi được ban phước bởi đức Phật với những
hóa hiện của Ngài trong hình tướng Chakrasamvara và hội những
hóa thần bổn tôn. Ngày nay những nơi ấy được xem là những
cõi vô hình của các daka và dakini, những vị nâng đỡ cho
sự thực hành của những người đã nhập môn. Mật thừa
Phật giáo xem những phần đặc biệt của thân thể con người
là phần tiểu vũ trụ tương đương với ba mươi hai nơi linh
thánh.
4.
Ta
đã đi gặp con trong giả trang làm một người cày ruộng.
Marpa đã thực hiện một hành động kính trọng mà không biểu
lộ ra như thế. Mọi hành động kỳ lạ của Marpa như vậy
có một ý nghĩa dấu kín nhưng rất giản dị. Người ta càng
đi xa bao nhiêu để gặp một người khách, thì sự tôn trọng
càng lớn lao.
5.
Lửa
Tummo. Danh từ “Tummo” nghĩa là “người (nữ) làm những
lực lượng chấp ngã phải kinh hãi”. “Tum” là hành động
anh hùng như là một phương tiện thiện xảo, trong khi “mo”
để chỉ trí huệ tối thượng. Lửa ẩn kín Tummo khởi lên
trong Tsa-u-ma (trung tâm thần kinh ở chính giữa) và trong những
mạng lưới trong xương sống và làm cho những năng lực hoạt
động của hai kinh mạch của hệ thống thần kinh trung ương
được chuyển đúng trong kinh. Bấy giờ “lửa” này được
dùng cho sự chế ngự và khai thác năng lực sáng tạo. Tiến
trình này bảo đảm cho sự tịnh hóa những yếu tố vật
lý và tâm lý được thành tựu đồng thời với cảm giác
về lạc tối thượng được sản sanh. Dù tự thân lửa không
phải là đối tượng thật sự cho nguồn cầu đạo, tuy nhiên
nó được dùng như là một phương tiện để hoàn thành một
sự tự chuyển hóa toàn triệt một cách hiệu quả nhất.
Hành giả đem tri giác về thực tại trong khi thiền định
đến việc trải qua kinh nghiệm phi thường này. Một tri giác
sanh từ trí huệ như thế thấy trong cái lạc tối thượng
này tánh không của bản ngã và của mọi hiện tượng và
nhờ đó hiểu được sự hợp nhất của lạc và không.
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 4
1.
Sáu
mươi giọng Phạm Thiên. Sáu mươi phẩm tính, phương diện
và âm điệu của giọng nói đức Phật. Trong đó có năng
lực độc nhất của giọng nói hay ngôn ngữ của Phật có
khả năng truyền thông đến mỗi cá thể theo cách mà cá thể
đó hiểu rõ nhất.
2.
Tám
mươi bốn ngàn phương diện. Kinh điển Phật giáo nói
đến tám muơi bốn ngàn phương diện mê lầm và ô nhiễm
của tâm thức và bởi thế có tám mươi bốn ngàn phương
thuốc chữa của Pháp. Con số này nói lên tầm lớn rộng
và sai khác của tâm thức con người. Tám vạn bốn ngàn phương
diện chia ra làm bốn phạm trù. Mọi nhiễm ô của tâm thức
gồm bốn nhóm : (1) mê lầm, (2) tham, (3) sân và (4) sự hỗn
hợp của ba phiền não này. Tương tự, có bốn loại phương
thuốc của Pháp là những giáo lý. Loại thứ nhất nói về
cách tri giác thực tại được chỉ ra trong abi dharma (a tỳ
đàm) và bát nhã ba la mật ; loại thứ hai, giới luật trong
Luật tạng ; thứ ba, sự làm bình lặng tính nhị nguyên của
tâm thức và đánh thức phần cao hơn của tâm thức trong Kinh.
Và thứ tư là sự nhanh chóng đạt được sự tự chuyển
hóa trong Tantra.
3.
Bồ
đề tâm. Nguyên lý trung tâm của Đại thừa. Đó là Tâm
Giác Ngộ, một quan tâm toàn diện và vô điều kiện đối
với sự giải thoát của chúng sanh khỏi sự trói buộc của
vòng sanh tử. Mỗi người theo Pháp cần phát triển không chỉ
lòng đại bi cho tất cả chúng sanh, mà cũng phải thành tựu
một thức tỉnh trọn vẹn với cấp độ tối hậu của Bồ
đề tâm. chỉ lúc bấy giờ người ta mới hoàn thành giác
ngộ qua hành động vô ngã của lòng bi và trí huệ tối thượng.
4.
Bốn
phương diện của quán đảnh. Bốn giai đoạn quán đảnh
truyền pháp theo Kim Cương thừa là như sau :
1.
Quán
đảnh “cái bình” là sự truyền pháp qua sự biểu
lộ của một hóa thần bổn tôn, việc này chuẩn bị cho người
nhập môn sự chuyển hóa bên trong của những hình tướng
tri giác.
2.
Quán
đảnh “sự hợp nhất được che giấu” là sự truyền
pháp qua ngữ của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn bị cho người
nhập môn sự chuyển hóa những năng lực của thân, ngữ và
âm thanh.
3.
Quán
đảnh “trí huệ tối thượng” là sự truyền pháp
qua tâm giác ngộ của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn bị cho
người nhập môn sự chuyển hóa thức.
4.
Quán
đảnh “đồng hóa không thể nghĩ bàn” là sự truyền
pháp qua bản tánh tối hậu của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn
bị cho người nhập môn sự Giác Ngộ Viên Mãn.
Để
rõ
thêm về nghĩa che giấu, xem Chú thích 11 dưới đây.
5.
Đại
Ấn (Mahamudra). Ám chỉ một trạng thái thức tỉnh (được
diễn tả như là “tánh giác nguyên sơ”) bao gồm cái nhất
thể mở bày toàn khắp của lạc tối thượng và tánh không
vô sanh của nó, nghĩa là kinh nghiệm giác ngộ và thành tựu.
Thiền định Đại Ấn là một phương tiện để thực hiện
cái ấy một cách trực tiếp. Đại Ấn được định danh
như vậy bởi vì mỗi người nhập môn đã thoáng thấy một
trạng thái “tánh giác” trong khi quán đảnh, và họ tiếp
tục “dán cái đại ấn” ấy của sự quán thấy thấu suốt
của họ vào mọi tri giác của họ về thực tại. Phái Kagyuš
nói đến hai truyền thống Đại Ấn, một theo Kinh và một
theo Tantra.
Những
trường
phái khác nhau của Phật giáo Tây Tạng đem lại những
quan điểm khác nhau về giáo lý và đường lối thiền định
liên hệ với Đại Ấn.
6.
Sáu
Giáo Pháp Mật Truyền : Ám chỉ đến những phương diện
trọng yếu của Yoga mật thừa Phật giáo. Đôi khi được
biết như là sáu giáo pháp của Naropa :
1.
Yoga
xử lý với Lửa tối thượng Tummo
2.
Yoga
của thân vi tế
3.
Yoga
của giấc mộng
4.
Yoga
của tánh giác quang minh
5.
Yoga
của sự chuyển di dòng tâm thức
6.
Yoga
của trạng thái trung ấm Bardo
7.
Chuyển
di Tâm thức vào Xác chết. Sự thực hành này của
sự chuyển di dòng tâm thức vào một người vừa mới chết
hay con vật mới chết thì khác biệt với sự chuyển di vào
một cõi đã chọn vào lúc chết. Marpa đã đem giáo lý trước
vào Tây Tạng và truyền cho Milarepa và người con trai của
mình, Darma Doday. Darma Doday đã chuyển di dòng tâm thức của
mình vào thân một con chim vào lúc ông chết trong một tai nạn.
Theo những dạy bảo của Marpa, con chim bay đến Ấn Độ, ở
đó Doday chuyển vào xác chết của một người Bà la môn trẻ,
người về sau trở thành một vị thầy được biết với
tên là Bồ Câu Của Cây Huyền Bí.
8.
Garuda
(Kim Xí Điểu) Theo thần thoại cổ, Garuda là một chúng
sanh cõi trời cư ngụ nơi cây như ý trong cõi trời thứ ba
mươi ba. Nó là một lực lượng chống lại những rồng trời
(long) ở dưới đáy biển. Trong truyền thống mật thừa Phật
giáo có những yidam Garuda thuộc về năm bộ Phật.
9.
Quán
đảnh Anatmata. Ám chỉ Anatmata, dakini phối ngẫu của
Chakrasamvara.
10.
Sự
Thanh Tịnh của Tánh Giác : Một trong sáu giáo pháp mật
truyền, đồng nghĩa với Sự Sáng Tỏ Quang Minh của Tánh Giác.
Xem Chú thích 6 ở trên.
11.
Sáu
cách và bốn phương pháp. Bốn phương pháp giải thoát
và sáu cách soi sáng giáo pháp mật thừa Phật giáo. Bốn phương
pháp là : (1) nghĩa đen, gồm nghĩa tượng trưng và mật chú
; (2) nghĩa tổng quát ; (3) nghĩa che giấu (những sự nói bóng
gió đến một vài giải thích trọng yếu bị bỏ đi) ; (4)
nghĩa tối hậu. Sáu cách là : (1) và (2) những giáo lý được
ban với ý định che giấu hay không ; (3) và (4) những giáo
lý có những nghĩa bề ngoài hay tối hậu ; (5) và (6) những
giáo lý có những nghĩa đen theo ngữ nguyên và những giáo
lý có một nghĩa khác với nghĩa đen.
12.
Những
viên thuốc “tiên”. Nguồn gốc của những viên thuốc
này là những đạo sư giác ngộ Ấn và Tạng cổ thời có
thần lực và cách luyện đan bí truyền khiến các ngài có
thể chuyển hóa năm loại thịt và năm loại chất lỏng thành
thuốc cho những người nhập môn. Thời nay, những viên thuốc
được làm từ những loại cây cỏ khác nhau và những chiết
xuất từ những viên thuốc cổ xưa còn lại. Rồi chúng được
gia bị bằng sự thiền định của những lama. Một sọ người,
thật hay làm giả, được dùng để chứa. Sọ người là biểu
trưng của tánh giác cao nhất bao gồm lạc và tánh không của
tánh giác. Một thiền giả thực hành sự chuyển hóa trọn
vẹn những giác quan thành năm phương diện của tánh giác
sáng tỏ, tức là giác ngộ, điều này là sự dung nhập trọn
vẹn của quán thấy thấu suốt của trí huệ và cảm giác
về lạc tối thượng.
13.
Năm
Bộ Phật : Năm biểu lộ của Báo thân : Vajrasattva (Kim
Cương Tát Đỏa), Ratnasambara (Bảo Sanh), Amitabha (A Di Đà),
Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu) và Vairochana (Tỳ Lô Giá
Na). Mỗi vị Phật này hiện thân những phương diện đặc
biệt của tánh giác đã giác ngộ (hay trí huệ giác ngộ)
: trí huệ như tấm gương, trí huệ của sự bình đẳng, trí
huệ phân biệt, trí huệ của sự thành tựu hành động một
cách tự nhiên, và trí huệ tánh không toàn khắp.
14.
Damaru
và kapala : Damaru là một cái trống đôi làm bằng hai
đỉnh sọ đâu vào nhau. Kapala là một cái sọ đựng rượu,
đôi khi thiên nhiên, đôi khi làm bằng chất liệu quý.
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 5
1.
Lâu
Đài Châu Ngọc. Ám chỉ kinh Maharatnakuta, một kinh Đại
thừa. Maharatnakuta gồm sáu trong 104 bộ kinh được sưu tập
thành đại Tạng Kangyur.
2.
Ma.
Có bốn loại khác nhau : (1) như là mê lầm bên trong, (2)
như là năm uẩn nhốt tù con người trong vòng quay của sanh
tử, (3) như năng lực không thể đánh bại của cái chết,
(4) như ma quỷ cả ở trong lẫn ở ngoài – như Vua Garab Ouangduk
của cõi Trời Làm Mê Lầm, và như năng lực của chấp ngã,
cả hai loại ma này tìm cách quyến rũ người ta vào những
hành động tai hại và lôi kéo nó ra khỏi những theo đuổi
thực sự lợi lạc.
3.
Om,
Ah, Hum. Om tượng trưng sự biểu lộ của giác ngộ. Ah
tượng trưng ngữ của giác ngộ. Hum tượng trưng hiểu biết
tối thượng.
4.
Núi
Tisi. Núi Kailas. Đối với người Tây Tạng đây là chỗ
ở thiêng liêng của Yidam Chakrasmvara và nhiều vị A La Hán
bất tử, trong khi đối với người Ấn Độ đó là cõi của
Shiva và phối ngẫu là Uma.
5.
Cõi
của những Dakini. Ngoài nghĩa bề ngoài, nghĩa thật là
trạng thái tối thượng của Pháp thân.
6.
Những
dakini của ba giai đoạn của con đường. Những vị
này ở trong ba cõi, tức là không gian, mặt đất và dưới
mặt đất. Những daka và dakini, hoặc vô hình hay là người,
đã hoàn thành sự chuyển hóa ban đầu, cao hơn hay đã giác
ngộ.
7.
Mười
hai thiên nữ. Mười hai dakini vô hình đã được Guru
Padmasambhava hàng phục ở Palmo Palthang xứ Porong, miền tây
Tây Tạng, và được ngài chỉ định bảo vệ những người
nhập môn tu học và những thiền giả của dòng Kim Cương
thừa.
8.
Dusolma.
Một thiên nữ có hình dạng hung nộ mà Marpa xem là
vị bảo hộ của truyền thống Kagyuš.
9.
Thầy
đến trong chỉ ba ngày. Trong ba ngày, Milarepa đã làm
một cuộc hành trình mà nếu bằng phương tiện tự nhiên
người ta phải mất hàng tháng.
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 6
1.
Xương
của mẹ thầy. Xương được tán và trộn với đất
sét để làm thành những tượng nhỏ hay tháp nhỏ.
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 7
1.
Tsayi
Koron. Một tên khác của nơi sanh Milarepa, Kya Ngatsa.
2.
Dây
thiền định. Là một sợi dây để ngồi thiền được
làm từ vải hay len. Thiền giả mang nó từ vai bên trái vòng
qua ngực và xuống một hay hai đầu gối.
3.
Nguồn
thức. Ám chỉ cái được xem là nguồn của tất cả
thức (Alaya-vijnana tiếng Sanskrit). Phái Duy tâm thức của Phật
giáo Ấn Độ đề nghị lý thuyết rằng mọi tiến trình tư
tưởng phát sinh từ và tự tan vào trong nguồn thức. Toàn
thể thế giới hiện tượng chỉ là một sản phẩm của tâm
thức, “thực tại khách quan” là một ảo tưởng của tâm
thức. Cũng chính tâm thức này tạo ra một cái ta “có thực”
từ tưởng tượng thuần túy. Khi từ chối một sự nhị nguyên
như vậy, phái này xác nhận thực tại chủ thể của nguồn
thức – được định nghĩa như thuần chỉ trong suốt và
tỉnh giác. Nó được xem là hoàn toàn trung tính, trong nghĩa
là một nền tảng hay căn cứ. Trong truyền thống mật truyền,
nguồn thức là trí huệ như tấm gương, nó được chứng
ngộ khi những mê lầm của tâm thức đã được trừ sạch.
Tâm thức bình thường bị những tư tưởng nhiễm ô khống
chế, chúng có thể được so sánh với sự dơ bẩn làm dơ
nhiễm nguồn thức. Qua tiến trình chuyển hóa, sự nhiễm ô
của những tư tưởng bị xóa tan và bản tánh của tánh giác
thanh tịnh bấy giờ được thấu hiểu như là giác ngộ.
4.
Cái
nồi màu lục : Vật thiêng liêng này hiện còn và được
giữ gìn ở Tsahilhunpo.
5.
Con
sẽ trộn cái gì với nước ? Thêm bột lúa mì vào nước
là một tục lệ của người Tây Tạng.
6.
Kali
Yuga (Thời đen tối). Ám chỉ chu kỳ thứ tư và cuối
cùng của thời gian của vũ trụ của chúng ta. Ba chu kỳ đầu
là Satya Yuga (hoàn thành hạnh phúc), Treta Yuga (hạnh phúc ba
phần) và Dwapara Yuga (hạnh phúc hai phần). Thời đại Kali
Yuga được đánh dấu bởi (1) ngụy biện trí thức nơi lãnh
vực của sự chứng đắc tâm linh, (2) sự suy đồi về phẩm
chất của đời sống, (3) sự đe dọa tăng lên đối với
một cuộc đời ngắn ngủi, (4) những quan niệm sai lầm và
sự bất tịnh của tâm trí, và (5) sự lan tràn của bạo lực
và xung đột.
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 8
1.
Thiên
nữ Tseringma. Một trong năm thiên nữ chị em, họ đã
trở thành những đệ tử của Milarepa và sau này là những
hộ pháp cho dòng phái của ngài.
2.
Sáu
Cách Thức Giác về Lama của Mình. Bài ca của Milarepa trong
đó ngài kê ra sự tưởng nhớ sáu phần về lama của ngài.
(Bài ca này có ghi lại trong “Một Trăm Ngàn Bài Ca” Xem bản
dịch tiếng Anh của Garma Chang.)
3.
Thiên
nữ Tara là một trong những yidam. Có nhiều hình tướng,
ngài được xem là hiện thân của lòng bi mở khắp của tất
cả chư Phật.
4.
Bošn
là tôn giáo cổ của Tây Tạng trước Phật giáo. Tôn
giáo Bošn nguyên thủy là một hình thức thờ phụng thiên
nhiên. Nó dạy niềm tin vào những lực lượng siêu nhiên,
gồm đấng sáng tạo tối thượng, bạn đạo giữa cộng đồng
con người và sống hòa điệu với thiên nhiên xung quanh. Tôn
giáo Bošn ngày nay là một hệ thống phát triển cao những
lý thuyết siêu hình học và những kỹ thuật thiền định.
5.
Chidroš
Thigtsakma. Bài ca của Milarepa với tiêu đề này nói
về sự thực hành Pháp để cho người ta có thể đối mặt
với cái chết không thể tránh của mình với hoan hỷ lớn
lao. Từ Chidroš nghĩa là niềm vui khi chết ; Thigtsakma, giống
như sự sửa lại đúng thời một tấm trần hư dột.
PHẦN
HAI, CHƯƠNG 9
1.
Geshe.
Một danh hiệu dành cho những lama hay nhà sư đã thành
công trải qua những kỳ thi trong hình thức tranh luận công
khai về những chủ đề trong kinh điển Phật giáo về siêu
hình học và luận lý.
2.
Năm
đối tượng của niềm vui giác quan : Sắc, thanh, hương,
vị, xúc.
3.
Năm
cấp độ của cái nhìn thấy. Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ
nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn.
4.
Năng
lực Bốn phần của Hành động. Một “thần bảo vệ
quyền năng”, một bồ tát đã thành tựu năng lực phi thường,
tự nhận công việc làm cho hoàn thành những mục tiêu khác
nhau của chính ngài và của những người khác qua Bốn Hành
Động :
1.
Hành
Động Làm Bình Lặng : tịnh hóa tâm thức, loại trừ
khổ đau và chữa lành những bệnh tật.
2.
Hành
Động Hoàn Thành Dần Dần : những thực hành để mở
rộng những khả năng của trí năng, tăng trưởng hạnh phúc,
kéo dài tuổi thọ và v.v...
3.
Hành
Động Cảm Ứng những người Cầu Đạo : ám chỉ sự
thu hút tất cả những vũ trụ và chúng sanh đến với mình
và đặt họ vào ảnh hưởng tâm linh của mình, hay để làm
tăng sự phụng sự tâm linh của mình cho lợi lạc của họ.
4.
Hành
Động Hung Nộ : ám chỉ sự nắm lấy năng lực tiêu
cực để loại trừ mọi ảnh hưởng đối nghịch và để
bảo vệ nhân loại khỏi sự hoành hành, cai trị của những
thế lực nghịch với đạo pháp.
5.
Shonnu
(Kumara) Điều này ám chỉ một sự ví von của Milarepa
về giờ phút chết là không thể tránh và không thể đảo
ngược. Dù đức Phật cũng đã bị bệnh nặng và cho phép
y sĩ Shonnu bắt mạch xem bệnh ngài.
6.
Đại
Ấn của tánh Không. Tánh Không được xem là Đại Ấn,
như là bản tánh tối hậu của thực tại, khiến một tâm
thức đã thức tỉnh tri giác dấu in không thể tẩy xóa của
tánh Không trên tất cả mọi sự vật, có điều kiện hay
không bị điều kiện hóa, (hữu vi hay vô vi). (Cũng xem Chú
thích 5, Phần Hai, Chương 4.)
7.
Chòm
sao thứ chín âm lịch. Một chùm sao mà tính chất là
vững chắc và viên mãn. Như thế ngày đó đánh dấu sự đại
viên mãn của Milarepa, sự đi vào tánh Không của Pháp thân.
8.
Năm
bộ dakini. Chúng hội những dakini đại diện năm tính
chất tâm linh hay những thuộc tính tâm lý vừa cả trong bản
tánh siêu việt vừa trong sự biểu lộ thân xác của họ.
Năm hình thức dakini giống như năm bộ Phật và năm phương
diện của trí huệ siêu việt.
9.
Ram.
Chữ, âm thiêng liêng này tượng trưng Nguồn của Yếu
tố Lửa trong bản tánh tối hậu của tánh Không bẩm sinh
nội tại trong lửa.
10.
Sunyata.
Một từ có nghĩa tánh Không, phân biệt với không
có gì. Những trường phái Phật giáo nhận thức Sunyata là
tánh không nội tại của ngã hoặc của pháp, hay tánh không
của cả ngã và pháp. Cái sau là quan niệm của Trung Đạo
về thực tại như là tánh không toàn diện, không có bất
kỳ thực thể nào dù xuống đến tận nguyên tử cực vi.
Tuy nhiên một tánh không như thế cũng được hiểu là nguồn
của mọi nhân và quả có thể được trong thế giới vật
chất hay thế giới tâm thức. Sự tương thuộc duyên sanh của
những nguyên nhân và kết quả thuộc hiệân tượng là đồng
nghĩa với tánh không nội tại của mọi sự.
11.
Bardo.
Trạng thái của chu kỳ đời sống giữa đời hiện
tại và đời tương lai. Những biến cố của Bardo bắt đầu
từ giai đoạn chót của cái chết khi sự tan rã của những
nguyên tố và năng lượng trong các uẩn tâm sinh lý xảy ra.
Truyền thống Tây Tạng xem sự thấu hiểu về cái chết và
Bardo là một yếu tố cần thiết trong sự chuyển hóa những
kinh nghiệm sống của con người.
12.
Tám
biểu hiện tốt lành. (1) Một cái lọng, (2) một cặp
cá bằng vàng, (3) một vỏ tù và xoáy về bên phải, (4) một
cái nút không có chỗ chấm dứt, (5) lá phướn của sự tuyệt
hảo tối thượng, (6) Bánh Xe Pháp, (7) bình kho tàng vĩ đại,
(8)
hoa
sen.
13.
Bảy
biểu hiện vương giả. Hoàng hậu quý báu, thừa tướng,
chiến sĩ, ngọc như ý, bánh xe, voi và ngựa. Chúng tượng
trưng Bảy Ngọc Báu của những Bậc Giác Ngộ. (Xem Chú thích
1, Kết Từ, ở dưới.)
14.
Chữ
Vạn. Là một biểu tượng Phật giáo của chân lý và
vĩnh cửu. Danh từ này nghĩa đen là “cái vĩnh cửu”.
15.
Những
chủng tử tự của thần chú. Ám chỉ “thần chú gốc”
(Tsa-ngak). Đó là thần chú căn bản nối kết với mỗi yidam.
Thần chú gốc được gọi như vậy bởi vì một vài chữ
đơn giản có thể phơi bày một giáo lý bao la và đa dạng
về sự chuyển hóa trọn vẹn những điều kiện bẩm sinh
của con người.
16.
Một
Ngàn Lẻ Hai Vị Phật. Ám chỉ đến một ngàn vị Phật
của kiếp này.
17.
Một
mạn đà la của những dakini. Ở đây nghĩa là một chúng
hội dakini.
18.
Avaloketsvara
(Quán Thế Âm), yidam hiện thân lòng bi vô cùng
của chư Phật. Những hóa thân chính của Avaloketsvara ngày
nay là đức Dalai Lama và đức Gyalwa Karmapa.
PHỤ
CHÚ
1.
Năm
dakini chị em. Năm thiên nữ chị em : Dorje Tseringma, Dorje
Yudonma, Miyolosangma, Chopen Drinzangma, và Tekar Drozangma.
2.
Acharya
Maitrepa. Thầy của Marpa, đã truyền cho ngài Đại Ấn.
(Xem Chú thích 9, Phần Hai, Chương 2.)
3.
Bốn
Biểu Lộ Tối Thượng là chi tiết của ba phương diện
của Phật, tức là Tự tánh thân (Svabhavekakaya), Pháp thân
(Dharmakaya), Báo thân (Shambayakaya) và Hóa thân (Nirmanakaya).
4.
Năm
Phương Diện của Trí Huệ : Xem Chú thích 13, Lời Mở
Đầu và Chú thích 2, Phần Một, Chương 3.
KẾT
TỪ
1.
Bảy
Ngọc Báu của các Bậc Giác Ngộ. Bảy Ngọc Báu của
các A La Hán được gọi như vậy vì chúng cần thiết cho sự
hoàn thành giải thoát : (1) niềm tin đầy đủ vào Tam Bảo,
(2) trong sạch về đạo đức, (3) rộng lượng, (4) sở đắc
hiểu biết chơn chánh, (5) cần mẫn tích cực, (6) tự chế
trong những cân nhắc về xã hội và môi trường, và (7) hạnh
kiểm tận tâm, chu đáo.
1998
NHỮNG
KHAI
THỊ TỪ ĐỨC LIÊN HOA SANH VỀ CON ĐƯỜNG ĐẠI TOÀN THIỆN
– Padmasambhava
TRÍ
HUỆ VÀ ĐẠI BI – Dalai Lama Thứ 14
MỘT
TIA SẤM CHỚP SÁNG TRONG ĐÊM TỐI – Dalai Lama Thứ 14
1999
KHO
TÀNG
TÂM CỦA CÁC BẬC GIÁC NGỘ – Dilgo Khyentse
ĐẠI
TOÀN THIỆN TỰ NHIÊN – Khenpo Nyoshul
CON
ĐƯỜNG ĐẾN TỰ DO VÔ THƯỢNG – Dalai Lama Thứ 14
CON
ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA – Lama Yeshe
CUỘC
ĐỜI
SIÊU VIỆT CỦA 16 VỊ TỔ KARMAPA TÂY TẠNG – Karma Thinley
MẬT
THỪA
TÂY TẠNG – Tsong Khapa và Dalai Lama Thứ 14
2000
NHỮNG
YOGA
TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ – Tenzin Wangyal
Rinpoche
NHỮNG
GIÁO HUẤN CỦA GAMPOPA – Lama Yeshe Gyamtso và Evans Wentz
TU
HÀNH TÂM LINH – Tulku Pema Wangyal
NĂNG
LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM – Tulku Thondup
PHẬT
TÂM – Longchen Rabjam
MILAREPA Lobsang P. Lhalungpa