TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu
PHẦN I: Những chuyện đương thời Đức Phật
10. Bà lão bộc
Trưởng giả Tu-đạt tại thành Xá Vệ nước Ấn Độ là một vị “đại thí giả”, hễ có người nghèo khổ bần cùng đến cầu xin ông cứu giúp, ông liền làm cho người ấy được toại ý. Nhất là đối với Tam bảo thì ông lại càng cung kính tôn thờ, thường cúng dườngđức Phật và chư tăng.
Trong nhà ông trưởng giả Tu-đạt có một bà lão bộc làm công, rất trung thành với chủ và làm việc rất siêng năng nên được trưởng giả một lòng tín nhiệm. Chìa khóa nhà kho, vựa lúa đều do một tay bà nắm giữ.
Bà lão bộc này tính nết rất keo kiết, mỗi khi thấy chủ nhân lấy từ kho ra bao nhiêu là tiền bạc của cải để bố thí cho người là trong lòng bà không khỏi cảm thấy tiếc rẻ.
Nhưng điều làm cho bà bất mãn hơn cả là lúc bà thấy đức Phật và chư vị đệ tử đến nhà trưởng lão thọ cúng dường. Bà thấy lúc đó trưởng giảvô cùng nhiệt thành, hoan hỉnghênh tiếp và cúng dườngđức Phật. Tâm ganh tị như thiêu như đốt khiến bà ghét đức Phật thậm tệ. Có một hôm bà còn lập ác nguyện rằng:
– Tôi vĩnh viễn không muốn thấy mặt Phật, không muốn nghe ông ta thuyết pháp, cũng không muốn thấy mặt mấy ông tỳ-kheo.
Thật là chuyện tốt không ai hay, mà chuyện xấu thì ai cũng biết, nên tin bà lão bộc phát ác nguyện chẳng mấy chốc lan truyền khắp mọi nơi.
Lúc ấy, hoàng hậu Mạt Lợi nghe kể lại, rất lấy làm phật ý. Hoàng hậu biết trưởng giả Tu-đạt là một vị Phật tửthuần thành, thì làm sao lại dung dưỡng trong nhà một bà nô bộc bất kính Tam bảo như thế? Do đó, hoàng hậu hạ lệnh bắt trưởng giả phải cho bà mượn bà lão bộc đến hoàng cung giúp việc nhân dịp bà lập đàn trai cúng dườngđức Phật.
Dĩ nhiên là trưởng giả Tu-đạt không dám trái lệnh hoàng hậu, hơn nữa mục đích lại là giúp cho việc cúng dườngđức Phật thì ông lại càng vui lòng hơn nữa. Trưởng giảlập tức dùng mâm vàng đựng đầy trân châu, sai bà lão bộc đem đến hoàng cung để cúng dườngđức Phật.
Hoàng hậu ra ý, chủ nhân truyền lệnh, bà lão bộc đâu dám không tuân! Khi phu nhânMạt Lợi thấy bà lão bộc này, bà nghĩ phải thỉnh đức Phật dạy dỗ con ngườità kiến như thế mới được!
Bà lão bộc đem trân châu đến dâng lên hoàng hậu rồi, vừa mới quay người tính lui đi thì đức Phật từ cửa chính bước vào, theo sau là các vị đệ tử của Ngài. Thấy đức Phật bước vào bà lão đâm ra bối rối, cất bước lên tính trốn bằng cửa sau, thì quái lạ thay, đức Phật cũng lại từ cửa sau bước vào. Lần này bà cuống cuồng lên, tính chạy bằng cửa bên hông nhà, nhưng cũng lại thấy đức Phật đứng ngay ở ngưỡng cửa bên hông. Bà lão bộc thấy bốn phương tám hướng đâu đâu cũng có đức Phật và chư vị đệ tử đứng, bà tiến hay lùi gì cũng không được nữa, đành phủ phục xuống đất. Nhưng ngay trên mặt đất bà cũng vẫn thấy tôn tượng của Thế Tôn.
Bà vội vàng dùng hai bay bịt kín lấy mắt, để mắt mình không gặp hình ảnh của đức Phật nữa. Nhưng trong khoảnh khắc, mười ngón tay của bà đều hiện lên hình Phật. Bà không cần biết hậu quả ra sao, ba chân bốn cẳng chạy về, trốn vào một căn nhà nhỏ, những tưởng là sẽ không còn thấy đức Phật nữa. Nhưng vẫn như trước, trong gian phòng đen tối ấy, đâu đâu cũng có đức Phật nên bà lão bộc rất lấy làm đau khổ.
Lại nói đến đức PhậtThích-ca Mâu-ni ở hoàng cung, Ngài không nói gì về thái độvô lễ của bà lão bộc, chờ thọ cúng xong mới nói với La-hầu-la:
– Bây giờ con có thể đi hóa độ cho bà lão ban nãy. Bà ấy với con có nhân duyên lớn, bà ấy sẽ tiếp đón con nồng hậu và sẽ chấp nhậnsự giáo hóa của con.
Tôn giả La-hầu-la vâng lờiđức Phật đi ngay, đến nhà bà lão bộc nọ rồi đứng trước nhà kêu cửa.
Bà lão đang trốn trong nhà, chợt nghe một giọng nói hòa nhãthân thiết bèn vội vàng chạy ra mở cửa nhìn xem là ai. Có lẽ trong lòng còn hoảng hốt, lại hoa mắt nên thấy ngài La-hầu-la bà ngỡ là người từ cõi trời xuống.
Bà lễ lạy và đối xử với La-hầu-la như thần thánh. Tôn giả bèn dùng thái độtrang nghiêm thuyết cho bà lão nghe phápThập thiện.
Bà lão nghe rồi, hối hận những lỗi lầm đã tạo trong quá khứ, và nói:
– Ngài là chúa tể cõi trời, ngài quả là cao cả, vì thế nhân chúng con mà thuyết Thiện phápvi diệu để lợi lạcchúng sinh, ngài thật là phi thường hơn mấy ông tỳ-kheo kia nhiều!
Lúc ấy, ngài La-hầu-la biết bà đã bớt tâm ngã mạn, mới trả lời:
– Pháp của Phật mới là thanh tịnh, mới là từ biquảng đại. Pháp mà tôi mới nói ban nãy là do thầy tôi dạy. Phận tôi nhỏ nhoi không đáng kể, làm sao so sánh với bậc đại thánhNhư Lai được?
Lão bà nghe những lời ấy, định thần nhìn kỹ lại ngài La-hầu-la, lúc đó mới tàm quýhổ thẹn không biết làm sao để chui xuống đất. Bà hối hận, bà tự trách, rồi bà khẩn cầu ngài La-hầu-la giúp bà sám hối với đức Phật và can thiệp cho bà được xuất gia.
Phật pháp vốn bình đẳng, giữa người cao sang như vua chúa hay người bần tiện như nô tỳ không hề có sự sai khác.
Bà lão bộc nọ, sau khi đến trước mặt Phật sám hối rồi, bèn xuống tóc xuất gia làm tỳ-kheo ni.
Bà chuyên tâmtu học nên chứng được quả vị rất mau lẹ. Có người thấy thế, bèn đến xin đức Phậtthuyết giảng về nhân duyênquá khứ của bà lão bộc này. Phật dạy:
– Vào thuở xa xưa, thời Phật Bảo Cái Đăng Vương có một vị thái tửxuất giahọc đạo với Như Lai. Thật ra, vị hoàng tử này tu hànhtrì giới rất tinh chuyên, nhưng lại lầm lạc theo đường tà. Về sau hoàng tử gặp một vị tỳ-kheo, vị tỳ-kheo này thuyết phápdẫn đạo rất hay, nhưng hoàng tử không những không tán thán còn đem lời phỉ báng, bởi vì tuy trì giới nhưng lại rất ngã mạntà kiến. Do đó chết rồi đọa ác đạo, chịu đủ hết mọi sự thống khổ trong địa ngục, nay tuy sinh thân người nhưng lại chịu phận nô bộc.
Vị hoàng tử thời nọ chính là bà lão bộc trong kiếp này và vị tỳ-kheo bị hủy báng kia chính là ta trong quá khứ.
Các vị đệ tử của đức Phật nghe xong, họ thấy rõ ràng là không thể tạo khẩu nghiệp, nhất là hủy báng người khác, vì quả báoxấu xa của tội này, dẫu có tu hànhtrì giới cũng không ngăn chận được.
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêm và tọa thiền tại Chánh điện.
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đíchtu hoặcxuất gia là cầu giải thoátsinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
Sống Trong Từng Sát Na là phương phápthực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tậpdựa trêntinh thần Kinh Bốn Lãnh VựcQuán Niệm.
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhụcthành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giảthành tựutừ tâmgiải thoát và bi tâmgiải thoát.
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tửthân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhận là giáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích NữTrí Hải dịch
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duysáng tạo mà là đọc những chứng tíchlịch sửthời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giảxuyên qua những chặng đường thời gian...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.