Có người hỏi: "Phật pháp có thể chia nhiều tông, tại sao không thể chia nhiều phái?" Nên biết Phật pháp là để hiển bày bản thể tự tánh bất nhị của Diệu giác nên chẳng thể chia. Có thể chia là giáo pháp (chẳng phải Phật pháp). Chư Phật chư Tổ, vì muốn thích ứng căn cơ trình độ của mọi chúng sanh, nên vì khế hợp đương cơ mà chia nhiều tông, tức là trên phù hợp ý Phật (Phật pháp chẳng thể chia), dưới khế hợp đương cơ (giáo pháp có thể chia) là vậy.
Giáo pháp thích hợp với người phương Ðông được chia làm năm hệ: Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, và Mật. Thiền, Luật, Tịnh, Mật, mỗi hệ có một tông. Giáo môn lại chia thành bốn tông: Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận và Duy Thức, cộng chung là tám tông đại thừa.
Luận này, vì muốn phá chấp nhị biên tương đối, nên phương tiện thiết lập Trung Quán. Nguồn gốc của nhị biên là "hữu" và "vô". "Hữu" bao gồm hữu vi pháp, "vô" bao gồm vô vi pháp. Nhị biên đã phá thì "Trung" không có chỗ để an lập. Như thế, đâu có học thuyết cao siêu để cho nghiên cứu mà dựng lập học phái Trung Quán!
Lục Tổ nói thuyết pháp chẳng lìa tự tánh, tự tánh là bất nhị. Kinh Ðại Thừa liễu nghĩa do Phật thuyết đều là bất nhị. Chư Tổ căn cứ theo kinh liễu nghĩa lập luận sớ giải cũng là bất nhị. Bất nhị thì chẳng có tương đối, chẳng có tương đối thì chẳng thể dùng bộ não suy nghĩ, chẳng thể dùng lời nói văn tự diễn đạt, cho nên Ðại Thừa Khởi Tín Luận nói: lìa "tướng tâm duyên", lìa "tướng danh tự" v.v...
Nên biết, những phương tiện do chư Phật chư Tổ thiết lập chỉ muốn khiến chúng sanh ngay đó khai ngộ, chứ chẳng phải muốn chúng sanh nghiên cứu tìm hiểu lý đạo. Do đó chẳng thể xem như một học thuyết để nghiên cứu mà chia ra nhiều học phái.
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá. Như các phẩm Quán Như Lai, Quán Niết Bàn là thuộc về phá pháp vô vi, những phẩm Quán Nhân Duyên, Quán Khứ Lai thuộc về phá pháp hữu vi. Hữu vô tất cả pháp đều phá. Phàm có nhị biên tương đối đều phá hết.
Chư Phật chư Tổ dùng pháp phá làm phương tiện để phá sự chấp trước của chúng sanh. Chúng sanh có cái sở chấp nào, thì phá cái sở chấp nấy. Nếu chúng sanh chẳng có chấp trước, thì pháp phá cũng thành dư thừa. Nay chúng tôi biên tập yếu chỉ Trung Quán Luận này, chỉ ở trong mỗi phẩm rút ra vài bài kệ chủ yếu, để sáng tỏ yếu chỉ về pháp phá của tác giả mà thôi.
Phẩm
Thứ Nhất
Phá
Nhân Duyên
Phẩm thứ nhất là phá tất cả pháp, bởi vì tất cả pháp đều từ nhân duyên mà sanh.
Bất
sanh cũng bất diệt
Bất
thường cũng bất đoạn
Bất
nhất cũng bất dị
Bất
lai cũng bất xuất
Thường
nói là nhân duyên
Khéo
diệt các hý luận
Tôi
kính đảnh lễ Phật
Trong
các thuyết đệ nhất
Các
pháp chẳng tự sanh
Cũng
chẳng từ tha sanh
Chẳng
cộng, chẳng vô nhân
(không
nguyên nhân mà có)
Cho
nên biết vô sanh
Giải thích. Các pháp từ nhân duyên mà sanh, duyên sanh thì chẳng có tự tánh (duyên hợp mới có, duyên lìa thì không) tức là nghĩa vô sanh vậy. Các pháp 27 phẩm trong luận này đều là nhân duyên tương đối, nên đều có thể dùng bài kệ thứ hai để phá trừ. Các pháp từ nhân duyên sanh thì chẳng phải tự sanh (các pháp chẳng tự sanh). Tha cũng có tự thể của nó, nên Tha cũng đồng như Tự (cũng chẳng từ tha sanh). Vậy Tự với Tha đều chẳng thể thành lập, thì lấy gì để cộng. Lại pháp đã từ nhân duyên sanh thì chẳng phải vô nhân (chẳng cộng, chẳng vô nhân), cho nên biết tất cả pháp đều vô sanh. Người chứng ngộ tức là ngộ cái pháp "vô sanh" này vậy.
Phẩm
Thứ Nhì
Phá
Khứ Lai
Ðã
đi chẳng có đi
Chưa
đi cũng chẳng đi
Lìa
đã đi, chưa đi
Ðang
đi cũng chẳng đi
Giải thích. "Ðang đi cũng chẳng đi": Lối giải thích trong nguyên văn của luận dùng "kẻ đi" với "pháp đi" rất khó hiểu. Nay dùng máy quay video để thí dụ thì dễ hiểu hơn. Ví như kẻ đi bước 10 bước, máy quay phim quay 100 tấm hình, khi phóng ảnh ra, coi cũng như lúc đang đi, nhưng xét kỹ trong 100 tấm hình, thì chẳng một tấm hình nào có đi. Như thế thì chứng minh "đang đi" cũng "chẳng đi". Cũng là nghĩa sát na (1 giây = 60 sát na) vô trụ vậy.
Phẩm
Thứ Ba
Phá
Lục Tình
Ghi chú. Lục tình: Lục thức đối với lục căn, lục trần, sanh khởi tình chấp, nên gọi là lục tình (có cảm tình chấp đó là thực)
Nhãn
nhĩ và tỷ thiệt
Cùng
thân ý lục tình
Nhãn
nhĩ ... lục tình này
Hành
sắc thanh ... lục trần
Kiến
chẳng thể có kiến
Phi
kiến cũng chẳng kiến
Nếu
đã phá nơi kiến
Tức
là phá người kiến
Lìa
"kiến", chẳng lìa "kiến"
Người
kiến chẳng thể đắc
Vì
chẳng có người kiến
Ðâu
có kiến để kiến
Giải thích. Kinh Lăng Nghiêm nói: Lúc thấy sáng, kiến tinh (tánh thấy) chẳng phải là sáng; lúc thấy tối, kiến tinh chẳng phải là tối; lúc thấy thông, kiến tinh chẳng phải là thông; lúc thấy nghẽn, kiến tinh chẳng phải là nghẽn. Bốn nghĩa trên chứng tỏ kiến tinh chẳng theo cảnh trần sanh diệt. Ngươi còn nên biết "kiến kiến chi thời" (lúc cái bản kiến tự hiện), "kiến phi thị kiến" (kiến chẳng phải là kiến), "kiến do ly kiến" (kiến còn phải lìa kiến), "kiến bất năng cập" (vì kiến chẳng thể thấy được kiến).
Theo cái nhìn của Thiền Tông
Ấy là Thế Tôn hiển bày đệ nhứt nghĩa đế, cũng là diệu bồ đề đạo vậy. Kiến và kiến duyên gồm có năm nghĩa: Sáng, tối, thông, nghẽn (trần) là bốn thứ kiến duyên (sở kiến), còn kiến tinh là một thứ kiến vọng (năng kiến). Thế Tôn ở đây phân biệt năng kiến (kiến tinh) và kiến duyên (tướng sáng, tối, thông, nghẽn). Bản thể của diệu giác gọi là chơn kiến, dụ như đệ nhất nguyệt, thường chiếu rõ kiến tinh, mà kiến tinh (đệ nhị nguyệt) thì chẳng thể thấy được chơn kiến. Nên cho kiến tinh là vọng (do dụi mắt sở hiện tức là vọng). Cái kiến tinh của năng kiến đã là vọng, thì sắc tướng do kiến tinh thấy được dĩ nhiên cũng là vọng. Năng sở đều vọng, thì chẳng có "kẻ năng kiến" và sắc tướng của "sở kiến". Theo đó suy luận thì biết những cảnh trần do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cảm nhận được cũng như thế. Nên Kinh Bảo Tích nói: "Pháp thân" chẳng thể dùng kiến văn giác tri để cầu; chẳng phải sở kiến của nhục nhãn, vì vô sắc; chẳng phải sở kiến của thiên nhãn, vì vô vọng; chẳng phải sở kiến của huệ nhãn, vì lìa tướng; chẳng phải sở kiến của pháp nhãn, vì lìa "chư hành" (vô thường); chẳng phải sở kiến của Phật nhãn, vì lìa "chư thức". Nếu chẳng cho là có những cái thấy kể trên thì gọi là tri kiến Phật (tức là diệu giác).
Công án Thiền Tông (chứng minh những điều trên)
Tăng Văn Thùy ở chùa Báo Từ có nghiên cứu Kinh Thủ Lăng Nghiêm, gặp thiền sư Pháp Nhãn, trình sở học của mình, cho là phù hợp ý chỉ trong kinh.
Nhãn hỏi: Lăng Nghiêm há chẳng phải có nghĩa bát hoàn ư? (tám thứ trả về nguồn gốc)
Thùy đáp: Phải.
Hỏi: Sáng hoàn cái gì?
Ðáp: Sáng hoàn nhật luân (mặt trời)
Hỏi: Nhật hoàn cái gì?
Văn Thùy ngơ ngác, chẳng thể trả lời. Từ đó khâm phục thỉnh pháp. Như thế có thể biết "chủ trong chủ" thực chẳng phải ghi chú, giải thích có thể đến được.
Phẩm
Thứ Tư
Phá
Ngũ Ấm (Ngũ Uẩn)
Nếu
lìa nơi "sắc nhân" (nhân của sắc tướng)
"Sắc"
thì bất khả đắc
Nếu
phải lìa nơi sắc
Sắc
nhân chẳng thể lìa
Nếu
lìa sắc có nhân
Thì
có nhân không quả
Nếu
có nhân không quả
Thì
chẳng có chỗ đúng
Giải thích. Vũ trụ vạn vật đều chẳng thể truy cứu nhân đầu tiên, nên Phật nói là vô thỉ (chẳng có bắt đầu) cũng là nghĩa "vô sanh" (trong phẩm Nhân Duyên đã phá). Sắc ấm phá như thế, thì thọ, tưởng, hành, thức, bốn ấm kia cũng phá như sắc ấm.
Phẩm
Thứ Năm
Phá
Lục Chủng (Sáu Thứ)
Ghi chú. Ðịa Thủy Hỏa Phong tứ đại, thêm Không đại và Kiến đại, cộng chung là lục chủng.
Lúc
"tướng không" chưa có
Thì
chẳng pháp "hư không"
Nếu
hư không có trước
Thì
hư không "vô tướng"
Vì
tướng đã chẳng có
Sở
tướng cũng chẳng có
Nếu
sở tướng chẳng có
Thì
tướng cũng chẳng có
Cho
nên biết hư không
Phi
hữu cũng phi vô
Phi
tướng phi sở tướng
Năm
thứ kia cũng thế
Giải thích. Nếu trước đã "vô tướng" thì sau cũng phải vô tướng. Nếu có tướng, thì tại sao chẳng có sở tướng (chẳng có tướng sở hữu của hư không). "Sở tướng" chẳng có, thì "tướng" đương nhiên cũng chẳng có (chẳng có tướng mạo của hư không). Ðịa, thủy, hỏa, phong, kiến, năm thứ "đại" cũng đồng như hư không, chẳng thể thành lập.
Phẩm
Thứ Sáu
Phá
Nhiễm Và Kẻ Nhiễm
Nếu
lìa nơi pháp nhiễm
Trước
tự có kẻ nhiễm
Thì
kẻ bị nhiễm này
Phải
sanh ra pháp nhiễm
Nếu
chẳng có pháp nhiễm
Tại
sao phải có nhiễm
Có
nhiễm hoặc chẳng nhiễm
Kẻ
nhiễm cũng như thế
Giải thích. Lục trần thuộc về pháp nhiễm. Chúng sanh ham thích lục trần thuộc về kẻ nhiễm. Nếu cho rằng lìa pháp nhiễm mà kẻ nhiễm có trước, thì quả thuyết này chẳng thể lập. Nếu chúng sanh chẳng ham thích lục trần, thì chẳng thành kẻ nhiễm. Nếu chẳng có kẻ nhiễm, thì làm sao có pháp nhiễm? Nếu pháp nhiễm với kẻ nhiễm cùng một lúc, thì chẳng có nhân duyên tương đối, tức là chẳng vì kẻ nhiễm mà có pháp nhiễm, cũng chẳng vì pháp nhiễm mà có kẻ nhiễm. Thế thì hai thứ "kẻ nhiễm" và "pháp nhiễm" phải là "thường" (không đoạn). Nếu thế thì chúng sanh vĩnh viễn chẳng có ngày giải thoát. Nhưng sự thực thì đời đời đều có chúng sanh giải thoát.
Phẩm
Thứ Bảy
Quán
Tam Tướng (Sanh, Trụ, Diệt)
Nếu
sanh là hữu vi
Thì
phải có tam tướng
Nếu
sanh là vô vi
Ðâu
có tướng hữu vi
Tam
tướng nếu hợp lìa
Chẳng
thể có sở tướng
Tại
sao ở một chỗ
Ðồng
thời có tam tướng
Giải thích. Sanh, trụ, diệt, ba tướng thuộc về pháp hữu vi. Nếu hợp thì tam pháp trái ngược nhau, chẳng thể cùng ở một lúc, nghĩa là lúc sanh thì chẳng có tướng trụ diệt, lúc trụ thì chẳng có tướng sanh diệt, lúc diệt thì chẳng có tướng sanh trụ. Nếu lìa thì chẳng có "sở tướng", tức là sanh chẳng có tướng "sở sanh", trụ chẳng có tướng "sở trụ", diệt chẳng có tướng "sở diệt". Nếu thuộc về pháp vô vi, thì chẳng có tam tướng.
Phẩm
Thứ Tám
Quán
Phá "Pháp Tác" Và "Kẻ Tác"
(pháp
làm và kẻ làm)
Quyết
định có kẻ tác
Chẳng
tác, nghiệp "quyết định"
Quyết
định chẳng kẻ tác
Chẳng
tác, chẳng "định nghiệp"
Quyết
định "nghiệp" vô tác
Nghiệp
ấy chẳng kẻ tác
Nếu
kẻ tác chẳng tác
Kẻ
tác cũng chẳng "nghiệp"
Quyết
định có kẻ tác
Thì
phải có nghiệp tác
Kẻ
tác và nghiệp tác
Tức
đọa nơi vô nhân (không có nhân)
Nếu
đọa nơi vô nhân
Thì
vô nhân vô quả
Vô
"tác" vô "kẻ tác"
Pháp
tác thành vô dụng
Chẳng
có những pháp tác (pháp, kẻ, nghiệp)
Thì
chẳng có tội phước
Vì
tội phước đã không
Tội
phước báo cũng không
Nếu
chẳng tội phước báo
Cũng
chẳng đại Niết Bàn
Những
việc có sở tác
Ðều
"không", chẳng có quả
Giải thích. "Pháp tác" với "kẻ tác" và "nghiệp sở tác". Ba thứ hòa hợp nên có quả báo, ba thứ trên nếu thuộc hữu vi, thì trong hữu vi đã phá. Nếu thuộc vô vi, thì trong vô vi đã phá. Kỳ thực pháp phá của mỗi phẩm đều giống nhau, tức là dùng nghĩa trung đạo để phá nhị biên của tương đối vậy.
Phẩm
Thứ Chín
Phá
Bản Trụ (bản lai vốn đã có)
Có người nói:
Các
căn nhãn nhĩ tỷ ...
Các
pháp khổ với vui
Thực
ai có việc này
Gọi
là pháp bản trụ
Nếu
chẳng có bản trụ
Ai
có nhãn nhĩ tỷ ...
Do
đó nên được biết
Trước
đã có bản trụ
Phá:
Nếu
lìa nhãn nhĩ tỷ ...
Và
khổ vui các pháp
Bản
trụ đã có trước
Thì
làm sao chứng tỏ
Nếu
lìa nhãn nhĩ tỷ ...
Mà
có pháp bản trụ
Thì
phải lìa bản trụ
Mà
có nhãn nhĩ tỷ ...
Do
pháp biết có người
Do
người biết có pháp
Lìa
pháp đâu có người
Lìa
người đâu có pháp
Tất
cả nhãn nhĩ tỷ ...
Thực
chẳng có bản trụ
Nhãn
nhĩ tỷ ... các căn
Tùy
theo tướng phân biệt
Nhãn
nhĩ ... chẳng bản trụ
Sau
này cũng chẳng có
Vì
tam thế chẳng có
Chẳng
"hữu" "vô" phân biệt
Giải thích. Theo sự suy xét kỹ càng về bản trụ nơi nhãn nhĩ các căn, trước đã không có, thì sau cũng phải không có. Nếu tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều không, tức là pháp "vô sanh", thì ở nơi nào mà sanh ra pháp bản trụ?
Phẩm
Thứ Mười
Phá
"Ðốt" Và "Sở Ðốt"
Nếu
"đốt" là "sở đốt"
Tác,
kẻ tác thành một
Nếu
đốt khác sở đốt
Lìa
sở đốt có đốt
Giải thích. Ðốt là lửa, sở đốt là củi, kẻ tác là người, sở tác là nghiệp. Nếu đốt với sở đốt là một, thì kẻ tác với sở tác cũng phải là một. Như thợ gốm tác bình, thợ gốm chẳng phải bình, bình chẳng phải thợ gốm, tác và sở tác chẳng thể thành một. Nếu nói chẳng thể thành một thì phải khác. Nếu khác thì lìa sở đốt mà có đốt (lìa củi mà có lửa). Nhưng thực tế thì chẳng thể được, nên nói khác cũng không được. Thế thì được biết: "đốt" với "sở đốt" đều chẳng thể thành lập.
Phẩm
Thứ Mười Một
Phá
Bản Tế (thực tế bản lai vốn sẵn)
Sở
thuyết của đại thánh
Bản
tế bất khả đắc
Sanh
tử chẳng bắt đầu
Cũng
chẳng có cuối cùng
Nếu
chẳng có thỉ chung
Chính
giữa làm sao có
Cho
nên ở trong đó
Trước
sau chung cũng không
(cộng
chung cũng chẳng có)
Giả
sử sanh có trước
Sau
mới có già chết
Không
già chết có sanh
Sanh
không có già chết
Nếu
già chết có trước
Sau
mới có kẻ sanh
Ấy
tức là vô nhân
Không
sanh có già chết
Giải thích. Phật nói bản tế đầu tiên của sanh tử bất khả đắc, bởi vì sanh với tử đều chẳng thể có bắt đầu. Chẳng bắt đầu thì chẳng cuối cùng. Nếu sanh có trước rồi mới có già chết, thì chẳng do già chết mà có sanh. Vậy thì già chết với sanh mỗi mỗi tự độc lập. Nếu sanh độc lập, thì chẳng có già chết. Nhưng sự thực thì có sanh phải có chết, sanh với chết chẳng thể lìa nhau. Nếu già chết có trước, sau mới có sự sanh, thì già chết chẳng có nhân, tức là chẳng có sanh mà lại có già chết. Cho nên Bát Nhã Tâm Kinh nói: "Vô lão tử, diệc vô lão tử tận", là đáng tin vậy.
Phẩm
Thứ Mười Hai
Phá
Khổ
Tự
tác với tha tác
Cộng
tác vô nhân tác
Thuyết
những khổ như thế
Ðều
chẳng thể thành khổ
Trước
hữu chẳng thành khổ
Trước
vô chẳng thành khổ
Ðịnh
hữu đã chẳng thành
Ðịnh
vô cũng chẳng thành
Cho
nên biết các pháp
Thực
tế chẳng có khổ
Giải thích. Lúc đói chẳng được ăn, thì phải chịu cái khổ nhịn đói. Lúc lạnh chẳng được áo mặc, thì phải chịu cái khổ bị lạnh. Người giàu ăn mặc đầy đủ, thì không có cái khổ chịu lạnh đói. Kẻ nghèo, nếu được người bố thí cũng được đủ ăn mặc, cũng khỏi chịu cái khổ đói lạnh. Cái khổ nếu trước đã tự có, thì chẳng vì bị lạnh đói mà lại có khổ lạnh đói (vô lý). Cái khổ nếu trước đã không có, thì đâu thể có khổ. Khổ nếu nhất định có, thì người nào cũng phải chịu cái khổ lạnh đói (vô lý). Khổ nếu nhất định không có, thì đâu thể có khổ. Những khổ về lão, bịnh, tử, cũng có thể y theo pháp phá kể trên mà suy luận. Nghĩa là tất cả đều chẳng thể thành lập khổ.
Tự tác, tha tác, cộng tác, vô nhân tác đã phá trong phẩm thứ nhất.
Phẩm
Thứ Mười Ba
Phá
"Hành"
Hỏi: Như kinh Phật sở thuyết
Phẩm
Thứ Mười Bốn
Phá
"Hợp"
"Kiến"
"sở kiến" "kẻ kiến"
Ba
thứ này khác chỗ
Ba
pháp khác như thế
Chẳng
lúc nào hợp được
Khác
biệt nên có hợp
Ba
thứ "kiến" chẳng khác
Vì
tướng khác chẳng thành
Ba
kiến làm sao hợp?
Khác,
vì khác có khác
Khác,
lìa khác chẳng khác
Nếu
từ sở nhân ra
Pháp
chẳng khác với nhân
Trong
khác, chẳng tướng khác
Trong
chẳng khác, cũng không
Vì
chẳng có tướng khác
Cái
này chẳng khác kia
Pháp
đồng chẳng tự hợp
Pháp
khác cũng chẳng hợp
Kẻ
hợp với lúc hợp
Pháp
hợp đều chẳng có
Giải thích. "Kiến" là nhãn căn, "sở kiến" là sắc trần, "kẻ kiến" là ta, chỗ của ba thứ khác nhau. Nói khác chỗ là: Nhãn căn ở trong thân, sắc trần ở ngoài thân, còn "tôi" hoặc nói ở trong thân hoặc nói ở khắp nơi, cho nên chẳng thể hợp (hợp chẳng được). Tự thể của các pháp chẳng thể hợp, như ngón tay chẳng thể hợp với ngón tay, mỗi pháp cách biệt ở mỗi nơi, cũng chẳng thể hợp, nên "pháp hợp" bất khả đắc. "Pháp hợp" đã bất khả đắc, thì "kẻ hợp" "lúc hợp" đều bất khả đắc.
Phẩm
Thứ Mười Lăm
Phá
Hữu Vô
Hữu
nếu chẳng thể thành
Thì
vô làm sao thành
Vì
đã có "pháp hữu"
Hữu
hoại gọi là vô
Nếu
người thấy hữu, vô
Thấy
tự tánh, tha tánh
Như
thế thì chẳng thấy
Phật
pháp chân thật nghĩa
Ðịnh
hữu là chấp thường
Ðịnh
vô là chấp đoạn
Cho
nên người có trí
Chẳng
nên chấp hữu, vô
Giải thích. Nếu pháp là thực "hữu", thực hữu thì chẳng thể hoại diệt mà thành vô. Nếu thực "vô", thực vô thì chẳng thể sanh "hữu". Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều là pháp sanh diệt. Sanh diệt thì chẳng thuộc về hữu vô. Nếu chẳng sanh diệt là pháp vô vi, lại chẳng dính líu đến sự hữu vô. Cho nên chấp hữu, chấp vô đều chẳng phải nghĩa chân thật của Phật pháp vậy.
Phẩm
Thứ Mười Sáu
Quán
Trói Mở
Chư
hành có vãng lai
"Thường"
chẳng có vãng lai
"Vô
thường" chẳng vãng lai
Chúng
sanh cũng như thế
Nếu
chúng sanh vãng lai
Tìm
cùng hết năm thứ
Trong
các ấm giới nghiệp
Ðâu
có ai vãng lai
(Năm
thứ: sanh, tử, ấm, giới, nhập cộng năm thứ)
Nếu
từ thân đến thân
Vãng
lai, tức vô thân
Nếu
mà chẳng có thân
Thì
chẳng có vãng lai
"Chư
hành" tướng sanh diệt
Chẳng
trói cũng chẳng mở
Chúng
sanh như lời trên
Chẳng
trói cũng chẳng mở
Nếu
thân gọi là trói
Có
thân thì chẳng trói
Vô
thân cũng chẳng trói
Vậy
nơi nào có trói
Giải thích: Từ thân hài nhi đến thân tiểu đồng, cho đến thân thanh niên, thân lão niên, đều cùng một thân. Từ một thân đến một thân, tức là kẻ vãng lai vô thân (từ nhỏ tới già chỉ có một thân thì không có thân khác vãng lai). Nếu trước đã có thân thì chẳng nên còn có từ thân đến thân. Nếu trước chẳng có thân, làm sao có sanh tử vãng lai? Nếu thân ngũ ấm gọi là trói, chúng sanh đã có ngũ ấm trước thì chẳng thể trói, vì một người chẳng có hai thân (trước có thân ngũ ấm, sau lại có thân nữa). Nếu chẳng có thân thì chẳng có ngũ ấm. Tại sao mà có trói? Chẳng trói thì chẳng mở, nên trói mở đều chẳng thành lập.
Phẩm
Thứ Mười Bảy
Quán
Nghiệp
Người
khéo hàng phục tâm (ác tâm)
Lợi
ích cho chúng sanh
Ấy
gọi là thiện nghiệp
Là
chủng tử quả báo
Ðại
thánh thuyết hai nghiệp (thiện và ác)
"Tư"
với "từ tư" sanh
Nghiệp
trong tướng khác biệt
Mỗi
mỗi phân biệt thuyết
(Ghi
chú: "tư" là suy nghĩ là ý nghiệp,
"từ
tư" tức là sanh ra thân, khẩu nghiệp)
Nghiệp
trụ đến thọ báo
Nghiệp
ấy tức là thường
Nếu
diệt tức vô thường
Ðâu
thể sanh quả báo
Giải
thích. Nghiệp nếu từ trụ cho đến thọ báo, nghiệp ấy
tức là thường (thường là pháp vô vi). Sự thực thì chẳng
phải vậy, vì nghiệp là tướng sanh diệt. Nhất niệm còn
chẳng trụ, huống là từ trụ đến quả báo, nếu diệt thì
chẳng có nghiệp. Chẳng nghiệp làm sao sanh ra quả báo.
Phẩm
Thứ Mười Tám
Quán
"Pháp"
Phật thuyết các pháp từ nhân duyên sanh, thì mỗi mỗi chẳng có tự tánh, tức là vô ngã.
Nếu
ngã là ngũ ấm
Ngã
tức là sanh diệt
Nếu
ngã khác ngũ ấm
Chẳng
phải tướng ngũ ấm
Nếu
là chẳng có ngã
Làm
sao có ngã sở
Vì
diệt "ngã" "ngã sở"
Ðược
gọi "vô ngã trí"
Người
đắc vô ngã trí
Ấy
gọi là thực quán
Giải thích. Thực quán thì được sáng tỏ "tất cả các pháp vô sanh".
Phẩm
Thứ Mười Chín
Quán
"Thời"
Chẳng
do thời quá khứ
Thì
chẳng thời vị lai
Cũng
chẳng thời hiện tại
Cho
nên chẳng tam thời
Giải thích. Bởi vì có quá khứ mới biết có vị lai; do quá khứ, vị lai mới biết có hiện tại. Nếu thời gian đã quá khứ thì chẳng hiện tại, hiện tại chẳng có, vị lai cũng chẳng có. Cho nên tam thời đều không có. Cũng như sát na vô trụ, thì chẳng có hiện tại, quá khứ, vị lai vậy.
Phẩm
Thứ Hai Mươi
Quán
Nhân Quả
Nếu
chúng duyên hòa hợp
Mà
có cái "quả" sanh
Trong
hòa hợp đã có
Ðâu
cần hòa hợp sanh
Nếu
chúng duyên hòa hợp
Trong
đó chẳng có quả
Tại
sao từ chúng duyên
Hòa
hợp mà sanh quả
Nếu
chúng duyên hòa hợp
Mà
lại có quả sanh
Năng
sanh với sở sanh
Thì
phải cùng một thời
Nếu
trong nhân vô quả
Nhân
đâu thể sanh quả
Nếu
trong nhân có quả
Sao
lại còn sanh quả
Giải thích. Trong nhân vô quả, thì chẳng thể sanh quả. Trong nhân đã có quả, cũng chẳng thể có thêm quả nữa. Tại sao? Cũng như người chẳng có thai thì làm sao sanh con? Nếu đã có thai trước, thì đâu thể còn có thai thêm mà sanh con nữa.
Phẩm
Thứ Hai Mươi Mốt
Quán
Thành Hoại
Pháp
nếu lìa nơi thành
Làm
sao mà có hoại
Nếu
pháp lìa nơi hoại
Thì
làm sao có thành
Thành,
hoại cùng một thời
Làm
sao có thành, hoại
Giải thích. Sanh tức là "thành", chết tức là "hoại". Nếu chia ra thì mỗi mỗi độc lập. Nghĩa là sanh chẳng có chết và chẳng cần sanh mà có sự chết. Nếu sanh tử hợp một, thì sanh với tử đồng thời (vô lý). Do đó, thành với hoại đều chẳng thể thành lập.
Phẩm
Thứ Hai Mươi Hai
Quán
Như Lai
Phi
ấm phi lìa ấm
Thử
bỉ chẳng tướng tại
(này
kia chẳng có tướng tồn tại)
Như
Lai chẳng có ấm
Nơi
nào có Như Lai
Ấm
hợp có Như Lai
Thì
chẳng có tự tánh
Nếu
chẳng có tự tánh
Do
đâu lập sự có
Nếu
chẳng có tự tánh
Tại
sao có tha tánh
Lìa
tự tánh tha tánh
Gọi
gì là Như Lai
Người
tà kiến thâm sâu
Thì
nói chẳng Như Lai
Tướng
Như Lai tịch diệt
Sao
phân biệt hữu vô
Giải thích. Như Lai tức là giống như bổn lai, bổn lai thì vô thỉ vô sanh, vô sanh thì chẳng thể sanh "hữu", cũng chẳng thể sanh "vô", nên có Như Lai hay không có Như Lai đều sai. Chẳng thể kiến lập nghĩa Như Lai.
Phẩm
Thứ Hai Mươi Ba
Quán
"Ðiên Ðảo"
Hỏi:
Từ tưởng nhớ phân biệt
Sanh
khởi tham, sân, si
Tịnh,
bất tịnh, điên đảo
Ðều
từ chúng duyên sanh
Phá:
Nếu nhân tịnh, bất tịnh
Ðiên
đảo sanh tam độc
Tam
độc tức vô tánh
Nên
phiền não chẳng thật
Chẳng
do nơi tướng tịnh
Thì
chẳng có bất tịnh
Do
tịnh có bất tịnh
Cho
nên chẳng bất tịnh
Chẳng
do nơi bất tịnh
Thì
cũng chẳng có tịnh
Do
bất tịnh có tịnh
Cho
nên chẳng có tịnh
Giải thích. Nếu phiền não do tịnh, bất tịnh, điên đảo tưởng nhớ phân biệt mà sanh, tức chẳng có tự tánh (do nhân duyên của tưởng nhớ phân biệt mới sanh, chẳng phải tự sanh, chẳng tự sanh thì chẳng có tự tánh). Cho nên phiền não chẳng thật. Phiền não đã chẳng thật, thì cái nhân điên đảo cũng phải chẳng thật.
Phẩm
Thứ Hai Mươi Bốn
Quán
Tứ Ðế
Nếu
tất cả "bất không" (khổ, tập, diệt, đạo, nếu mỗi mỗi
có tự tánh, tức là bất không)
Thì
chẳng có sanh diệt
Như
thế thì chẳng có
Pháp
của Tứ Thánh Ðế
Nếu
"khổ" có định tánh (tánh nhất định)
Sao
lại từ "tập" sanh
Khổ
nếu có định tánh
Cũng
chẳng nên có "diệt"
Khổ
nếu có định tánh
Thì
chẳng có tu "đạo"
Nếu
"đạo" tu tập được
Thì
chẳng có định tánh
Giải thích. Ðịnh và bất định đều chẳng thể thành lập, nên pháp Tứ Thánh Ðế cũng chẳng thể thành lập.
Phẩm
Thứ Hai Mươi Lăm
Quán
Niết Bàn
Nếu
các pháp chẳng không
Thì
vô sanh vô diệt (vô Niết Bàn)
Nếu
Niết Bàn là có
Niết
Bàn thuộc hữu vi
"Hữu"
còn chẳng Niết Bàn
Huống
là nơi "vô" ư
Giải thích. Tất cả pháp, tất cả thời, tất cả chủng tử đều do nhân duyên sanh, nên cứu cánh không. Trong cứu cánh không, tự tánh tất cả pháp đều bất khả đắc. Do đó, các pháp có sở hữu đều ngưng, hý luận đều diệt. Hý luận diệt, nên thông đạt "thực tướng vô tướng" của các pháp.
Phẩm
Thứ Hai Mươi Sáu
Quán
Thập Nhị Nhân Duyên
Chúng
sanh, si che lấp (vô minh)
Rồi
mới khởi "tâm hành"
(quá
khứ, hiện tại, vị lai)
Vì
từ "hành" duyên khởi
Tùy
"hành" vào lục đạo
Do
nhân duyên chư "hành"
"Thức"
thọ "thân lục đạo"
Vì
có chấp lấy thức
Tăng
trưởng nơi "danh sắc"
Vì
"danh sắc" tăng trưởng
Do
đó sanh "lục nhập"
Giải thích. Vì có đại khổ ấm tụ tập, nên phàm phu vô trí, mà sanh khởi cái căn bản chư hành của sanh tử này, người trí thì chẳng có khởi. Do sự thấy như thực, thì vô minh diệt, vì vô minh diệt, thì chư hành cũng diệt, vì nhân diệt nên quả cũng diệt. Tu tập cái trí quán thập nhị nhân duyên sanh diệt như thế, nên cái sự ấy diệt. Vì sự ấy diệt, cho đến sanh, lão, tử, ưu bi (ưu sầu, bi thảm), đại khổ ấm đều như thực diệt hết. Nếu pháp có thể diệt, thì chẳng phải pháp thật, pháp thật thì chẳng có sanh diệt.
Phẩm
Thứ Hai Mươi Bảy
Quán
Tà Kiến
Như
trong đời quá khứ
"Hữu
ngã" "vô ngã" "kiến"
Hoặc
cộng hoặc bất cộng
Việc
ấy đều chẳng phải
Ngã
nơi đời vị lai
Hoặc
tác hoặc bất tác
Người
có kiến như thế
Ðều
đồng đời quá khứ
Nếu
trời tức là người
Thì
đọa vào bên "thường"
Nếu
trời khác với người
Thì
chẳng có tương tục
Nếu
nửa trời nửa người
Thì
đọa nơi nhị biên
Pháp
nếu định có "lai"
Và
nhất định có "khứ"
Thì
sanh tử "hữu thỉ"
Thực
thì chẳng việc này
Nếu
thế gian "hữu biên"
Làm
sao có "hậu thế"
Nếu
thế gian "vô biên"
Làm
sao có "hậu thế"
Ngũ
ấm thường tương tục
Cũng
như ngọn tim đèn
Do
đó nên thế gian
Chẳng
"hữu biên" "vô biên"
Vì
nhất thiết pháp không
Những
kiến chấp thế gian
Ở
nơi nào lúc nào
Ai
khởi những kiến chấp
(hữu,
vô, thường, biên v.v...)
Ðức
Phật Ðại thánh chủ
Thương
xót (chúng sanh) thuyết pháp này
Ðoạn
tất cả kiến chấp
Nay
tôi đảnh lễ Phật
Giải thích. Lục đạo luân hồi là hiện tượng trong chiêm bao, dù có mà chẳng thật, nên người nào có chấp thật đều thuộc về tà kiến (xin xem thêm trong Yếu Chỉ Phật Pháp bài "Hai thứ chiêm bao do duy thức biến hiện".)
Lời Kết
Pháp sư Diệu Nhân, ngày 22 tháng 12 năm 1983, khi đọc "Nhập Trung Luận", có bút ký rằng:
Các đại luận sư Ấn Ðộ như Phật Hộ, Thanh Biện, Nguyệt Xưng, Tịnh Mạng, đều kế thừa học thuyết Trung Quán của Long Thọ. Nhưng vì quan điểm chẳng đồng trong vấn đề cho với chẳng cho "có ngoại cảnh" mà sanh ra học phái chẳng đồng.
Thanh Biện luận sư phá Duy Thức Luận, trong danh ngôn kiến lập tông phái cho "có ngoại cảnh". Phái này gọi là "Kinh Bộ Hạnh Trung Quán Sư".
Tịnh Mạnh luận sư thì lập cái thuyết "vô ngoại cảnh". Phái này gọi là "Du Già Hạnh Trung Quán Sư".
Nguyệt Xưng luận sư thì cho là "Trung Quán Kiến của Phật Hộ luận sư" thù thắng nhất, mà theo phái Phật Hộ, lại nói đời sau phần nhiều Trung Quán sư đều tùy thuận học thuyết của Phật Hộ với Nguyệt Xưng. Còn các phái Tát Ca, phái Ca Cử và phái Cách Lỗ của Phật giáo Tây Tạng cũng theo "Trung Quán Kiến" của Nguyệt Xưng luận sư, đồng thời kiến lập Nhập Trung Luận Tụng và Giải Thích, cũng cho biết danh hiệu phái ứng Thành và phái Tự Tục của Trung Quán v.v...
Than ơi! Tác giả Trung Luận dùng Trung Quán để phá kiến chấp của nhị biên tương đối. Nếu nhị biên đã phá thì đâu có cái "trung" để an lập, tại sao các đại luận sư Ấn Ðộ, mỗi mỗi đều có "Trung Quán Kiến" của họ, mà sanh ra nhiều học phái chẳng đồng như danh hiệu bốn phái kể trên. Thậm chí ảnh hưởng Phật giáo Tây Tạng cũng sanh "Trung Quán Kiến". Nếu theo đó suy luận thì Phật giáo các nước khác, cũng có thể bị truyền nhiễm kiến chấp của họ mà chẳng tự biết, khiến chư Phật chư Tổ muốn phá mà hơi sức đâu phá hết!
Trung Luận là vị thuốc để phá trừ kiến chấp nhị biên. Nếu chấp thuốc thành bệnh thì chẳng thể trị, như trong phẩm Phá "Hành" đã ghi rõ vậy. Nếu bút ký của pháp sư Diệu Nhân là thật, thì các đại luận sư kể trên cũng là thuộc về kẻ chư Phật chẳng thể giáo hóa ư!Xem
Thêm:
Trung
Luận, Bồ Tát long Thọ, Việt dịch: Thích Viên Lý
Lịch Sử Tư Tưởng Và
Triết Học Tánh Không, TT. Thích Tâm Thiện
Source: thuvienhoasen