Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cuộc đời phi thường của Geshe Lama Konchog

10 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13148)
Cuộc đời phi thường của Geshe Lama Konchog

CUỘC ĐỜI PHI THƯỜNG 
CỦA GESHE LAMA KONCHOG, MILAREPA CỦA THỜI HIỆN ĐẠI
Thanh Liên biên dịch

Thủa thiếu thời

blankKhi Losang Phuntsog (Geshe Lama Konchog) lên sáu tuổi, cha mẹ ngài quyết định gởi ngài tới tu viện Drepung ở gần nhà (Drepung là một trong ba đại tu viện của phái Gelug ở Lhasa). Tuy nhiên cậu bé đã biểu lộ một phẩm tính chính yếu của đời mình: cậu biết đích xác mình muốn gì và sẽ theo đuổi mục tiêu đó với sự quyết tâm mãnh liệt. Cậu tuyên bố rằng cậu muốn tu họcTu viện Sera. Vì cậu có một người chú học ở Sera nên cha mẹ cậu cũng thông cảm với quyết định đó.

Tuy nhiên, người chú này đã gây cản trở cho việc tu họcthực hành của cậu. Ông ta thường đánh đập cậu.

Nhưng không điều gì có thể làm Losang Phuntsog nhụt chí. Konchog đã tu họcTu viện Sera ở Tây Tạng từ năm lên 7 tới 32 tuổi (1934-1959). Mặc dù các tu sĩ không được phép nhận các nhập môngiáo lý Mật thừa trước khi hoàn tất học trình Geshe (Tiến sĩ Phật Học), ngài thường lẻn đi dự những lễ nhập môngiáo lý của những Lạt ma như Pabongka Rinpoche, Trijang Rinpoche và Pari Rinpoche. Ngài cũng đã hoàn tất một khóa nhập thất ngắn của các Bổn Tôn mà ngài được nhập môn, ở trong những trụ xứ của các Lạt ma này. Suốt những năm tu học ở Sera, từ khi còn là một cậu bé, Lạt ma Konchog thường biến mất, mỗi lần trong nhiều tháng, du hành tới những địa điểm khác nhau quanh Tây Tạng để thâu nhận vào tâm trí dị thường của ngài toàn bộ những loại thiện xảo rất khó tìm thấy ở một con người

Thầy Tenzin Zopa, thị giả của ngài, nói: “Ngài lão luyện trong rất nhiều lãnh vực. Ngoài Kinh điển và các giáo lý Mật thừa của cả bốn truyền thống của Tây Tạng, ngài cũng thành tựu vũ điệu Cham, những nghi lễ, mạn đà la cát, thiên văn học, khoa tiên tri, kiến trúc phù hợp với Luật học – sự hiểu biết của ngài thật đáng kinh ngạc.” 

Đối với Geshe Jampa Tseten thì rõ ràng là người bạn học “điên” của ông không phải là một người bình thường. Geshe Jampa Tseten nói: “Từ khi là một đứa trẻ, ngài đã là một bậc linh thánh, một thiền giả vĩ đại…”

Đời sống trong núi non

Năm 1959, khi đã hoàn tất học trình Geshe và sắp dự kỳ thi tốt nghiệp thì ngài phải đào thoát khỏi Tây Tạng. Ngài rời bỏ Tây Tạng với độc nhất bộ y mặc trên người, một miếng da cừu và một vài bản văn của bốn trường phái. Trên đường đi ngài gặp người nào đó nói rằng Nepal có thời tiết ấm áp và ngài sẽ không cần tới da cừu, vì thế ngài bán nó đi để lấy một món tiền nhỏ. Nhưng ngài vẫn còn một miếng da cừu nhỏ.

Lama Zopa Rinpoche kể rằng khi Lama Konchog trốn khỏi Tây Tạng – từ Lhasa tới Nepal – có lúc ngài ở trong một thung lũng bị quân đội Trung quốc vây kín. Không có cách nào thoát ra ngoài. Ngài ngồi giữa thung lũng và cử hành một lễ puja để thuyết phục tâm linh thánh của vị Bảo Hộ. Thời tiết trong trẻo nhưng sau lễ puja thì những đám mây và sương mù bất ngờ xuất hiện và trời bắt đầu đổ tuyết. Khi đó ngài có thể trốn đi – thậm chí ngài đi thẳng vào giữa những chiếc xe của quân đội. Tuyết đã làm cho những người lính không nhìn thấy ngài.

Theo Lạt ma Lhundrup, tu viện trưởng Tu viện Kopan, con đường mà Geshe Lama Konchog theo đuổi để thoát khỏi Tây Tạng vào năm 1959 được khám phá trong một giấc mơ. Trước tiên ngài đi tới Tsum ở Nepal và để lại những bản văn của ngài cho một người nào ở đó, sau đó đi Kathmandu với ý định tới Buxa. Ngài gặp Guru (Đạo sư) Trijang Rinpoche của ngài ở Kathmandu. Vị Thầy này bảo ngài đừng đi Buxa mà trở lại vùng núi non để thiền định. Nhưng ngài thực sự muốn đi Buxa, vì thế ngài không nghe theo lời khuyên của Trijang Rinpoche mà đi Ấn Độ. Trong khi đi trên xe lửa cùng một người bạn muốn viếng thăm Varanasi (Ba La Nại), ngài gặp Trijang Rinpoche trên cùng chuyến xe lửa. Trijang Rinpoche hỏi ngài đang làm gì ở Ấn Độ, và bảo ngài trở về núi ở Nepal để thiền định. Lần này ngài nghe theo lời dạy của vị Thầy, ngài đi thẳng về Tsum, ở bên kia biên giới nằm trên phần đất Nepal, thâu thập các bản văn ngài đã để lại và đi lên núi mà không nói cho ai biết mình đi đâu.

Ngài tìm thấy một hang động ở phía trên ngôi làng, và tình cờ đó chính là Hang Bồ câu mà Milarepa, vị thánh và yogi được yêu quý của Tây Tạng, đã thiền định. Chính ở nơi đó em gái của Milarepa đã cúng dường anh mình vải để may áo. Người ta nói rằng các daka và dakini đã biến thành những con chim bồ câu ở đó để nghe giáo lý của Milarepa. 

Hang Bồ câu ở sâu trong vùng rừng núi, ở đó chỉ có hổ và những dã thú khác cũng như hươu nai sinh sống. Lama Konchog đã ở đó mười năm, không rời nơi đó và không gặp bất kỳ ai. Ngài chỉ có những bản văn, một bộ y, những mẩu nhỏ da cừu, và một chiếc bình lủng. 

Theo lời ngài kể lại cho Tenzin Zopa, thị giả của ngài, trong những tháng đầu, Geshe Lama Konchog đã tập “để có cái dạ dày trống rỗng, tôi đã sống nhờ rau tầm ma và dần dần có thể thực hành ‘chulen gió’” – một phương pháp nhờ đó thiền giả có thể “trích xuất các tinh chất” (chulen) từ thiên nhiên. Phương pháp thông thường mà các yogi thực hành là trích xuất các tinh chất từ đá và hoa, sau đó hòa trộn chúng thành những viên thuốc. Nhưng Lạt ma Konchog đã quyết định không tạo ra mọi chất bổ dưỡng. Thật vậy, ngài đã rút tinh chất từ không khí, và đã có thể tồn tại

Lama Zopa Rinpoche kể rằng có lần khi đang tu tập trong ẩn thất thì món tsampa (bột lúa mạch nướng – món ăn chính trong thực đơn hàng ngày của người Tây Tạng) của ngài sắp cạn kiệt. Ngài quyết định không ra ngoài để tìm thêm tsampa, mà cứ tiếp tục nhập thất, bất kể điều gì xảy ra. Ngài thực hiện quyết định này bằng cách nghĩ tới bổn sư Trijang Rinpoche. Và tới ngày không còn tsampa, một người đàn ông đã tới với một bao lớn tsampa. Từ lúc đó, ngài không bao giờ thiếu tsampa. Bất kỳ khi nào lương thực của ngài sắp hết thì có người xuất hiện mang thêm tới cho ngài. Ngài tin rằng đó là nhờ sự ban phước và dẫn dắt của Guru của ngài bởi ngài đã từ bỏ sự bám luyến vào cuộc đời này bằng cách nương tựa Guru.

Geshe Lama Konchog đã sống như thế với quyết tâm thành tựu những chứng ngộ, được thúc đẩy bởi lòng đại bivui thích sự cô tịch, với cọp và hươu nai làm bạn hữu. Sau này khi được hỏi cảm nghĩ ra sao về hoàn cảnh ở phương Tây, ngài nói: “Nó hoàn toàn bị ô nhiễm! Thực phẩm tốt lành nhất tôi từng được dùng thì có ở trong hang. Nơi chốn tuyệt hảo tôi từng sống là ở trong hang. Những bằng hữu tốt lòng nhất tôi từng có thì ở trong hang.” Phải leo lên mới vào được hang, và hươu nai “giúp đỡ nhau để len vào. Đôi khi chúng ngồi suốt ngày và đêm. Chúng tôi cùng sống với nhau thật an bình, không chút sợ hãi. Với tôi, đó là một cõi tịnh độ.” 

Năng lực của ngài hết sức mạnh mẽ, ngài không ngủ mà lễ lạy suốt đêm. Sau khi ngài ở đó 10 năm, một vài người làng đi lên núi cùng đàn cừu đã tình cờ nhìn thấy ngài. Họ nói với ngài rằng họ sẽ dâng tặng ngài thực phẩm của loài người nếu ngài xuống làng và tụng các bản văn cho họ, nhưng ngài từ chối, nói rằng ngài đã có thực phẩm tốt lành nhất. Nhưng dân làng tiếp tục quấy rầy nên ngài quyết định rời khỏi hang và tìm môt nơi khác. Ngài tìm thấy hang động khác, nhưng nó không tốt như hang đầu tiên – hang này chỉ có một nửa, vì thế ngài phải xây lên bằng đá.

Dân làng phía dưới hang động này (đây là làng của Tenzin Zopa) gặp rất nhiều vấn đề với các tinh linh và trời mưa không đúng thời và v.v.., và ngài đã cứu giúp họ. Các thần chú của ngài hết sức hữu hiệu trong việc giải trừ những vấn đề này, vì thế dân làng tới nhờ cậy ngài, và lúc nào ngài cũng thật từ bi, luôn luôn giúp đỡ mọi người. Khi sống ở Tsum tại Nepal, ngài đã chữa khỏi bệnh cho một ít người điên nhờ cúng dường lửa và bằng cách đánh họ.

Ngài tiếp tục nhập thất và giúp đỡ dân làng trong khoảng thời gian giữa các cuộc nhập thất. Dân làng gọi ngài là “Lạt ma Ông nội” và hết sức tôn kính ngài. Vào lúc này, các tu sĩni cô trong vùng (hầu hết thuộc truyền thống Kagyu) thỉnh cầu ngài làm tu viện trưởng của họ và xin ngài ban các giáo lý. Geshe Lama Konchog ban cho họ Kinh điểngiáo lý Mật thừa. Ngài có sự hiểu biết uyên bác về cả bốn truyền thống.

Tới Tu viện Kopan

Như vậy Lama Konchog đã nhập thất nghiêm nhặt trong núi cả thảy 26 năm. Ngài đã tới Kathmandu một vài lần và gặp Lama Yeshe (Thầy của Lama Zopa Rinpoche), bạn cũ của ngài ở Tu viện Sera, và mặc dù Lama Yeshe đã vài lần yêu cầu ngài ở lại Kopan, Lama Konchog đã không chấp thuận mà luôn luôn trở về Tsum. Có một lần ngài đi cùng Lama Yeshe tới phi trường ở Kathmandu, khi ấy Lama Yeshe đang thực hiện một chuyến du hành ở ngoại quốc. Trên đường đi, có người cúng dường Lama Yeshe một đôi giày. Lama Konchog cảm thấy buồn bã vì ngài nghĩ rằng sẽ không gặp lại Lama Yeshe nữa… Cuối cùng vào năm 1985, một năm sau khi Lama Yeshe thị tịch, Lama Konchog tới cư trú ở Kopan. Khi Thầy Tenzin Zopa hỏi ngài điều gì đã khiến ngài tới Kopan, Lama Konchog chỉ nói rằng Lama Zopa Rinpoche đã thực hiện một lễ puja Chokyong (Hộ Pháp) để “móc” ngài tới giúp Tu viện Kopan và FPMT (Tổ chức Bảo tồn Phật Giáo Đại thừa)! 

Thầy Tenzin Zopa cũng nói rằng để trả lời cho câu hỏi tại sao ngài tới Kopan, Geshe Lama Konchog nói đó là bởi tất cả những gì ngài đã làm trong quá khứ, tất cả những gì ngài đang làm trong hiện tại, và tất cả những gì ngài sẽ làm trong tương lai. Đó cũng do bởi thiện nghiệp của chúng ta!

Lama Zopa Rinpoche thuật lại rằng khoảng năm 1990-1991, Lama Konchog bị vấp ngã trên các bậc thang ở Tu viện Kopan và đập đầu vào bê tông. Lập tức ngài có một cảm thức mạnh mẽ về sự giải thoát và ngài vô cùng hoan hỉ vì đã nhận lãnh những chướng ngại của Lama Zopa Rinpoche và Tu viện Kopan. Ngài cảm thấy hết sức hài lòng. Thay vì Kopan phải kinh qua những chướng ngại thì ngài đã trải nghiệm chúng và vì thế ngài hài lòng.

Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.

Trong chuyến Lama Zopa và Lama Konchog hành hương Tây Tạng (năm 1987), các ngài tới thăm hồ Palden Lhamo. Hồ này trông giống một chiếc TV – nó có thể tiên đoán cuộc đời của con người. Nó đã tiên đoán và xác nhận Hóa Thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Lama Zopa Rinpoche thuê đủ ngựa cho cả đoàn hành hương nhưng Geshe Lama Konchog từ chối không đặt chân lên ngựa. Đó là dấu hiệu của một Bồ Tát. Ngài không muốn mang lại phiền não hay đau khổ cho con ngựa. Mặc dù ngài không khỏe, ngài đã luôn luôn đi bộ.

Thầy Tenzin Zopa kể: “Năm 1999, tôi ở trong phòng của ngài tại Kopan để phục vụ trà bơ cho ngài và người bạn học của ngài là tu viện trưởng Tu viện Samdeling. Các ngài chọc ghẹo nhau bằng nhiều cách, và bất ngờ tu viện trưởng nói với ngài: “Nhớ lại đi, từ khi còn thơ ấu chúng ta đã sống với nhauĐại học Sera ở Tây Tạng. Khi chúng ta còn trẻ ngài rất khác biệt với chúng tôi. Ngài đã thực hành nghiêm nhặt mọi con đường Kinh thừa và Mật thừa. Ngài luôn luôn là người nhiệt tình và được yêu mến nhất để nhận những nhập môn Mật thừa và thực hành các nhập thất nghiêm nhặt. Ngài không bao giờ để lỡ mọi cơ hội này… Chúng ta thường ở cạnh nhau và suốt đêm ngài không để cho chúng tôi ngủ yên. Ngài làm ồn cả đêm bằng những thực hành cúng dường Cho (1) và những bài tập Sáu Yoga của Naropa, đập ầm ầm khắp nơi. Ha ha… Và ngài cũng là một trong những triết gia/ người thảo luận lỗi lạc nhất; và ngài đặc biệt xuất sắc về môn Madhyamika (Trung Đạo) và những học thuyết về tánh Không. Ngài nhớ không, ngài luôn là một người lãnh đạo các cuộc thảo luận và ngay cả những học giả thâm niên cũng tìm đến ngài để học hỏi những kiến thức phi thường của ngài, nhưng ngài thường hết sức khiêm tốn. Vì thế những bậc trưởng thượng của chúng tôi tặng cho ngài biệt danh “Lama Konchog (Lama Quy y). Khi chúng ta nghĩ về quá khứ thì nó là những kỷ niệm hết sức vui vẻ và thật đáng ngạc nhiên, phải không? Và bây giờ chúng ta đã già. “Hô! Hô! Ha! Ha!” “Lama Konchog, nếu ngài mất chắc chắn là ngài sẽ trở thành một hóa thân, phải không Rinpoche?” Đại Thành tựu giả Geshe Lama Konchog cười ha hả và nói: “Dĩ nhiên, chắc chắn là tôi sẽ trở lại và được thăng chức rất lớn. Ha! ha!” 

Lama Konchog đã làm lễ thọ giới cho nhiều Tăng đoàn và nhờ ngài nhiều chúng sinh đã được giải thoát. Khi ở Kopan, ngài đã giảng dạy nhiều giáo lý triết học, giáo lý Kinh thừa và Mật thừa, các luận giảng, các lễ nhập môn cho các Tăng đoàn và những đệ tử người ngoại quốc. Ngài đã du hành tới nhiều quốc gia để ban tất cả những Pháp bảo này trong cả bốn truyền thống Phật Giáo Tây Tạng.

Các thực hành đã hoàn tất

Geshe Lama Konchog đã hoàn tất các thực hành:
600.000 chén nước cúng dường.
800.000 Lời nguyện Quy y.
1.500.000 lễ lạy toàn thân bằng thực hành Vajrasattva, tán thán 21 Đức Tara và sám hối 35 vị Phật.
100.000 Cúng dường lửa Vajra Daka.
1.200.000 Cúng dường Mạn đà la.
1.200.000 lần trì tụng thần chú Một Trăm Âm của Đức Phật Vajrasattva.
2.000 nhập thất Nyung Nay.
800.000 trì tụng 9 vòng Guru Yoga Lama Tsongkapa.
100.000 lần đọc Kinh Người Cắt Kim cương.
700.000 tsa-tsa.
100.000 thực hành Cầu nguyện 35 vị Phật như pháp chuẩn bị.
Thiền định Lam-rim và thực hành Jorcho.
Tự-nhập môn Vajrayogini.
700.000 thiền định Samaya Varja. 
1.200.000 cúng dường torma.

Thị tịch và Lễ Trà tỳ

Khoảng 8,15 giờ tối 15 tháng Mười năm 2001, Tenzin Zopa và những người khác có mặt bên Geshe Lama Konchog. Tenzin Zopa nhớ lại: “Lama Konchog bảo chúng tôi: ‘Bây giờ thị kiến về ảo ảnh đã xuất hiện’ – cái đầu tiên trong tám dấu hiệu bên trong của cái chết – ‘vì thế xin hãy đi và bắt đầu cầu nguyện.’ Chúng tôi rời khỏi nơi đó ngoại trừ anh Thuben Lhundrup của tôi, là người tụng lời cầu nguyện hàng ngày của Lama Konchog cho ngài. Vào lúc 8,50 giờ ngài ngừng thở.”

Những khóa cầu nguyện được cử hành tại nhà của Lama Konchog suốt ngày và đêm trong bảy ngày, khi ngài vẫn an trụ trong thiền định tịnh quang trong 7 ngày. Ngày 22 tháng Mười, thân linh thánh của ngài được cung thỉnh tới địa điểm làm lễ cúng dường lửa. Các Lạt ma và ba trăm tu sĩ của Tu viện Kopan cùng ba trăm sư cô của Tu viện Kachoe Ghakyil gần đó, cũng như nhiều đệ tử sùng mộ ở nước ngoài, đã tham dự lễ cúng dường lửa Yamataka được tổ chức tại một địa điểm do Lama Zopa Rinpoche chọn lựa. Buổi lễ kéo dài trong vài giờ giữa những dấu hiệu tốt lành là năm loại cầu vồng và một trận mưa hoa từ không trung. Cuối cùng, tháp được cấu trúc đặc biệt để đốt lửa được bít lại. 

Xá lợi

blankLúc 4,30 giờ sáng ngày thứ ba sau lễ cúng dường lửa, dưới sự giám sát của Lạt ma Cherok trẻ tuổi, Lạt ma Lhundrup, Thubten Lhundrup, Geshe Losang Jamyang, Amtsok, Drakpa và Tenzin Zopa, tháp được mở ra và cuộc tìm kiếm xá lợi bắt đầu. Một số lượng xá lợi đáng kinh ngạc đã được tìm thấy – những dấu hiệu về sự vĩ đại của vị thánh này. “Quá nhiều xá lợi được tìm thấy khiến một công việc được cho là mất hai giờ đã kéo dài đến tám giờ,” Tenzin Zopa nói. Hàng trăm xá lợi như những viên ngọc, tóc đen, trái tim, lưỡi và một con mắt – thường thì những bộ phận như thế của một hành giả Mật thừa cao cấp không bị đốt cháy – và nhiều xá lợi khác được tìm thấy. “Lạt ma Lhundrup nói như thể toàn thân của Geshe-la là một viên ngọc quý…”

blankSáu tuần sau khi xá lợi được mang ra khỏi ngọn lửa và được đặt trong những chiếc bình trên bàn thờ trong nhà của Lama Konchog tại Tu viện Kopan thì những biến đổi to lớn đã xảy ra. Tenzin Zopa nói: “Một bộ xá lợi gồm hai viên đã biến thành ba mươi bảy viên, và bộ khác biến thành hai mươi tám viên. Những miếng xương thường xuyên tạo thành các xá lợi giống như ngọc và thuộc loại vàng; và từ tro, xá lợi cũng đang hiển lộ. Trên chiếc lưỡi có một hình ảnh của Đức Tara tự xuất hiện càng lúc càng lộ rõ. Trái tim tiếp tục thu nhỏ lại và đồng thời tạo thành xá lợi đỏ. Một chiếc răng có hình dạng vỏ ốc xà cừ xoắn ngược chiều kim đồng hồ.”

Các xá lợi ngũ sắctrạng thái thanh tịnh của 5 uẩn, trạng thái của 5 vị Phật Thiền, trạng thái của sự toàn giác. Rõ ràngĐại thành tựu giả vĩ đại đã thành tựu sự toàn giác trong một đời. Đây là kết quả của việc ngài đã sống một cuộc đời với Ba Phương diện Chính yếu của Con Đường,(2) thực hành Bồ Đề tâmtừ bỏ mọi ô nhiễm bằng cách áp dụng pháp đối trịtánh Không.

Khensur Losang Tsering Rinpoche, cựu tu viện trưởng Đại Học Sera Je nói với Thầy Tenzin Zopa: “Tôi biết Geshe Lama Konchog rõ hơn các ông. Chúng tôi là bạn rất thân từ khi còn ở Đại Học Sera ở Tây Tạng. Tên Ngài là Lama Konchog và Ngài thực sự là Lama Konchog. Danh hiệu được ban cho Ngài quả là có căn cứ đúng đắn. Tôi thấy Ngài thực sự là một bậc toàn trí. Ngài không chỉ là một học giả về mặt triết học, mà thực sự là một học giả trong mọi lãnh vực thuộc Kinh thừa và Mật thừa. Ngài tinh thông mọi sự mà chúng ta tưởng là mình hiểu rõ, là những điều mà nhiều học giả khác không thấu suốt, và Ngài thực sự đưa mọi sự vào thực hành. Ngài rất khiêm tốn, rất dũng cảm và giúp đỡ tôi rất nhiều. Khi tôi thực hiện Khóa Nhập thất Yamantaka Vĩ đại 3 năm tại căn phòng cũ kỹ của tôi ở Sera, Ngài là người bảo trợ cho cuộc nhập thất này và mọi lễ cúng dường lửa. Tôi rất biết ơn Ngài. Tôi có cảm tưởnghoàn toàn tin rằng Ngài thực sự là một Lạt ma chứng ngộ cao cấp, chắc chắn là như vậy. Hãy nhìn những dấu hiệu sau khi Ngài thị tịch., như những xá lợi và các cầu vồng v.v.. Đây là những dấu hiệu mà một người bình thường không thể thành tựu, thật vô phương!!! Chỉ những bậc thánh chứng ngộ rất cao mới có thể thành tựu những dấu hiệu như thế. Từ 2500 năm trước Đức Phật đã giảng dạy điều đó chứ không chỉ mình tôi nói với ông. Thỉnh thoảng, khi tôi nghĩ tới Ngài và những yogi trong quá khứ như Milarepa, tôi tự hỏi làm thế nào các ngài có thể có đủ can đảm để làm các thực hành vĩ đại như thế. Đó thực sự là một điều đáng để tự hào. Ngày nay có nhiều người, mặc dù nghiên cứu rất giỏi và hiểu biết rất nhiều nhưng để đưa những kiến thức đó vào thực hành hàng ngày và làm cho thực hành đó hoàn toàn trở thành nguyên nhân của sự giải thoát thì quả là hết sức khó khăn. Hiện nay thật rất rất khó tìm được những bậc tôn quý như các yogi vĩ đại Milarepa và Lama Konchog. Nếu chúng ta muốn thành Phật trong đời này, ta nên thực hành như các ngài. Nhưng điều đó thực sự, thực sự là một công việc vĩ đại. Không thể tin nổi, phải không? Tôi hoan hỉ, tôi hoan hỉ. Chúng ta rất, rất may mắn được nối kết với những bậc chứng ngộ này, thậm chí chỉ được ở bên các ngài một chốc lát, có mối liên kết và những sự ban phướcđặc biệt được làm đệ tử của các ngài thì quả là hết sức may mắn."

Hóa Thân

blankThầy Tenzin Zopa thuật lại: “Khoảng mười phút trước khi Đại Thành tựu giả ngừng thở, Kopan Khen Rinpoche Lama Lhundrup và tôi mỗi người nắm một bàn tay của ngài và cuối cùng tha thiết khẩn cầu ngài trở lại như một hóa thân để làm lợi lạc cho Phật Pháp và tất cả chúng sinh. Đại Thành tựu giả đã trả lời chúng tôi với lòng bi mẫn lớn lao, đưa ra hai biểu thị rõ ràng. Trước hết ngài nói chữ đầu tiên của tên cha mẹ là chữ AH. Kế đó, bằng cách chỉ ngón tay về phía đông bắc Kopan, một biểu thị rõ ràng về phương hướng ngài sẽ đến. Vào lúc đó Khen Rinpoche Lama Lhundrup và tôi cảm thấy hết sức an ổn và có niềm tin cùng sự hoan hỉ trong việc xác quyết hóa thân của ngài. Nhưng cả hai chúng tôi giữ kín biểu thị rõ ràng này cho tới ngày 17 tháng Mười Hai năm 2005 khi Tenzin Nyudrup được Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 xác nhậnhóa thân đích thực không thể sai lầm của Đại Thành tựu giả quá cố Geshe Lama Konchog. Khi đó hóa thân được ba tuổi rưỡi. 

Yogi vĩ đại Geshe Lama Konchog thị tịch ngày 15 Tháng Mười năm 2001 và Tenzin Nyudrup ra đời lúc 3 giờ sáng ngày thứ Hai 28 tháng Mười năm 2002, theo lịch Tây Tạng là ngày 22 tháng Chín, là ngày tốt lành kỷ niệm Đức Phật từ Cung Trời Đâu Suất trở về thế gian. Khi cậu bé ra đời, thân cậu to lớn nhưng không làm thân mẫu đau đớn. Những người trong gia đình nói rằng đứa trẻ sinh ra mà không khóc. Ngay sau khi cậu ra đời, một trong những Đạo sư dòng Kagyu đã dùng khoa chiêm tinh để tiên tri về sự kiện này. Việc tiên tri cho thấy thật rõ ràng rằng đứa trẻ này không phải là người bình thường, đó là một hiển lộ của một Lạt ma chứng ngộ rất cao cấp ở phương Nam và v.v.. 

8 giờ sáng ngày 12/1/2006 Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã làm lễ thụ phong cho hóa thân Tenzin Nyudrup ở Amarvati trong Viện Kalachakra Mandala, địa điểm linh thiêng nhất, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ban giáo lý tantra Kalachakra lần đầu tiên trong thế giới. Hơn 800 đệ tử của Đại thành tựu giả quá cố Geshe Lama Konchog (là những người tham dự lễ nhập môn Kalachakra) từ khắp nơi trên thế giới đã tham dự buổi lễ. Ngoài ra còn có nhiều Tăng đoàn và các tu viện trưởng, cựu tu viện trưởng, và Lama Zopa Rinpoche, Khen Rinpoche Lama Lhundrup và v.v.. Hóa thân đã được Đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ thụ phong tu sĩ và được tặng danh hiêu là Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche. Khi ban danh hiệu này, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: “Bởi ngài đã thay đổi thân tướng, tôi ước muốn tặng ngài một danh hiệu mới, phân nửa là tên tôi và phân nửa là tên trong đời trước của ngài. Tôi hết sức kỳ vọng ở ngài, cầu mong ngài tốt lành trong Pháp, tôi tặng ngài danh hiệu TENZIN PHUNTSOK” (Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche)./.

Chú thích: 

(1) Cho: Nghĩa đen là “cắt”. Một hệ thống thực hành dựa trên Bát Nhã Ba la mật, truyền từ Thành tựu giả Ấn Độ Phadampa Sangye và nữ Đạo sư Tây Tạng Machig Lapdron với mục đích cắt đứt bốn loại Ma và sự chấp ngã.

(2) Ba Phương diện chính yếu của Con Đường: những giáo lý cốt tủy của Lam-rim: sự Từ bỏ, Bồ Đề tâm, và tánh Không.

Thanh Liên biên dịch dựa trên các bài:
- “About Geshe Lama Konchog” by Tenzin Zopa

http://www.fpmt.org/teachers/konchog/about.asp

- “Geshe Lama Konchog - The Search for Geshe Konchog's Reincarnation”

http://www.kopan-monastery.com/teachers_konchog.html

- “An extraordinary modern-day Milarepa

The life and death of Geshe Lama Konchog” by Ven. Robina Courtin

http://www.mandalamagazine.org/2002/konchog.asp

- “Geshe Lama Konchog's Qualities

As explained by Ven. Lama Zopa Rinpoche in Singapore, May 92”

http://www.fpmt.org/teachers/konchog/konchogqual.asp

- “The Incarnation of Geshe Lama Konchog”

https://www.fpmt.org/teachers/konchog/tenzin.asp

 
 


About Geshe Lama Konchog 

By Tenzin Zopa
Singapore, 11 Sept. 2000
Geshe Lama Konchog

blankGeshe Lama Konchog studied in Sera Monastery in Tibet from the age of 7 to 32 (1934-1959). Although the monks were not allowed to take tantric initiations and teachings until after they completed their Geshe studies, Geshe-la used to sneak out to attend initiations and teachings by such Lamas as Pabongka Rinpoche, Trijang Rinpoche and Pari Rinpoche. He also completed the short retreats of the deities he was initiated into, staying in the labrangs of these Lamas. He completed his Geshe studies and was about to take his final exams in 1959, but had to escape Tibet. He left Tibet with only the robes he was wearing, a sheepskin and some texts from all four traditions. Along the way he met someone who said that the weather was warm in Nepal and he wouldn't need the sheepskin, so he sold it for a small amount of money. But he still had another small piece of sheepskin. 

At first he went to Tsum in Nepal and left his texts with someone there, then went to Kathmandu with the intention of going to Buxa. He met his Guru Trijang Rinpoche in Kathmandu, who told him not to go to Buxa but to return to the mountains to meditate. But Geshe-la really wanted to go to Buxa, so he did not accept his Guru's advice, but went to India. While travelling on a train with a friend who wanted to visit Varanasi, Geshe-la met Trijang Rinpoche on the same train. Trijang Rinpoche asked him what he was doing in India, and told him to go back to the mountains in Nepal to meditate. This time Geshe-la did, he went straight back to Tsum, collected his texts from the people he had left them with and went up into the mountains without telling anyone where he was going. He had only his texts, his one set of robes, the small piece of sheepskin and a leaky pot. He found a cave high above the village, which happened to be a cave where Milarepa had meditated, and where Milarepa's sister offered him cloth for robes. Geshe-la stayed there for 10 years without leaving or seeing anyone. He was very strong and didn't sleep at night but did prostrations all night. He lived on nettles that grew around the cave. (Tenzin Zopa once asked a local meditator, Rinchen Wangchug, who knew Geshe-la during this time, what Geshe la lived on and this meditator said that Geshe-la did chu-len during those 10 years, but when Tenzin Zopa asked Geshe-la about this, he didn't confirm it.) Geshe-la said this was the happiest time of his life....

After staying there for 10 years, some villagers who went up into the mountains with their sheep happened to see him. He must have looked rather frightening at that time! They told him that they would give him human food if he would come down to the village and recite texts for them, but he refused, saying that he had the best food. But the villagers continued to disturb him so he decided to leave the cave and live someone where else. He found another cave, but it wasn't as good as the first one — it was only a half-cave, so he had to build it up with stones.

The people in the village below this cave (this was the village Tenzin Zopa is from) had lots of problems with spirits and with rain not falling at the right time and so forth, and Geshe-la helped them. His mantras were incredibly effective to eliminate these problems, so the villagers came to depend on him, and Geshe-la was very compassionate, always helping whoever asked for help. He continued to do retreats and would help the people in between retreats. The villages called him "Grandfather Lama" and regarded him as very precious. In time, monks and nuns in the area (who were mostly from the Kargyu tradition) requested Geshe-la to be their abbot and requested teachings from him. Geshe-la gave them sutra and tantra teachings – he was learned in all four traditions.

So altogether Geshe-la was in the mountains in retreat for 26 years. He had come to Kathmandu a few times and met Lama Yeshe, his old friend from Sera, and although Lama Yeshe requested him several times to stay at Kopan, Geshe-la did not accept but always returned to Tsum. There was one time when Geshe-la accompanied Lama Yeshe to the airport in Kathmandu when Lama was leaving on a visit overseas and on the way someone offered Lama a pair of shoes. Geshe-la felt very sad because he thought that he would not see Lama again... Finally in 1985, one year after Lama Yeshe passed away, Geshe-la came to stay at Kopan. When asked by Tenzin Zopa how it happened that he came to Kopan, Geshe-la only said that Lama Zopa Rinpoche did a Chokyong (Dharma Protector) puja to "hook" him into helping Kopan and FPMT. Perhaps Lama Zopa Rinpoche could provide more information on this point!

Tenzin Zopa also says in answer to the question as to why Geshe-la came to Kopan, that it's because of all the things he did in the past, all the things he is doing now, and all the things he will do in the future. Also, it's due to our good karma!
http://www.fpmt.org/teachers/konchog/about.asp

Geshe Lama Konchog
The Search for Geshe Konchog's Reincarnation

Geshe Lama Konchog passed away on the 15th of October 2001. The search for the incarnation of our Most beloved Teacher and guru Geshe Lama Konchog is about to begin. According to one observation a whole range of pujas, and prayers need to be done to remove all obstacles to finding the true incarnation. 

All Geshe la's students are invited to participate in the prayers. Khen Rinpoche Geshe Lhundrup advised that it would be very beneficial if the western and chinese students of geshe la can collect 1 million Vajrasattva mantras, with strong dedication to find the true incarnation quickly and without obstacle or doubt. 
to date 5,840,025 mantras have been collected 
Additionally the following pujas are being arranged: 
1000x Namgyalma Pujas 
1000x 1000 offerings to Maitreya Pujas 
10,000 light offerings at the Boudha stupa 
100,000 Mig Tsema mantras ( to be recited by the Kopan nuns) 
10,000 Tara praises to be recited by the Kopan monks 

Early Life 

When Lobsang Puntsog (Geshe Lama Konchog) was six, his parents decided to send him to nearby Drepung, one of the three great Gelug monasteries in Lhasa. But already the young boy was displaying a quality that would be central to his life: he knew exactly what he wanted and would pursue it with single-minded determination. He declared that he wanted to attend Sera Monastery instead. As he had an uncle there, his parents relented. He studied in Sera from the age of 7 to 32 (1934-1959)

His uncle, however, was a dob-dob - one of a group of monks found at most the Gelug monasteries who were basically self-appointed policemen - who actively discouraged the young boy's wish to study and practice and would beat him regularly. 

But nothing could deter Lobsang Puntsog. In the monasteries, it was forbidden to take tantric initiations until one had completed the study of the five major treatises. However, at the age of nine he joined a group of lamas and monks to take the Vajra Yogini initiation from his root guru Trijang Rinpoche, the junior tutor to His Holiness the Dalai Lama. 

Throughout his years at Sera, beginning when he was a child, Lama Konchog would disappear for months at a time, travelling to various places around Tibet to take into his astonishing mind a whole range of skills, rarely found all in one person. "He was expert in so many fields," says Tenzin Zopa. "Apart from the sutra and tantra teachings of all the four traditions of Tibet, he was also accomplished at Cham dancing, rituals, sand mandalas, astrology, making divinations, architecture according to the Vinaya - his knowledge was astonishing." 

For Geshe Jampa Tseten, it is clear now that his "crazy" schoolmate was not an ordinary being. "He was a holy being, a great meditator, since he was a small child." 

Life in the Mountains 

According to Lama Lhundrup, the abbot of Kopan Monastery, the route that Geshe Lama Konchog followed out of Tibet (after the uprising against the Chinese in 1959) was revealed in a dream. The route took him to the village of Tsum, just over the border into Nepal, and to the cave of Tibet's beloved yogi and saint, Milarepa. The cave is known as 'Cave of the Doves', high in the mountainous jungle, where only tigers and other wild animals, as well as deer, lived. It is said that dakas and dakinis transformed into doves here to listen to Milarepa's teaching. It was here, also, that Milarepa was offered robes by his sister. 

According to his own account to Tenzin Zopa, Geshe Lama Konchog trained himself during the first few months "to have an empty stomach. I lived on nettles, and gradually was able to practice 'wind chulen' " - a method whereby the meditator can "take the essence" (chulen) from nature. The usual method practiced by yogis is to take the essences from rocks and flowers, then mixing them into pills. But Lama Konchog decided to do without all sustenance. He literally took the essence from the air, and was able to survive. 

Geshe Lama Konchog lived like this for at least seven years: full of utter determination to achieve realizations, compelled by great compassion, and delighting in his solitude, with only the tigers and deer for friends. Asked later how he felt about conditions in the West, he said, "It is all contaminated! The best food I ever had was in the cave. The best place I've ever lived in was the cave. The best friends I ever had were in the cave." The cave needed to be climbed into, and the deer "would support each other in order to get in. Sometimes they would sit all day and night. We'd stay peacefully together with no fear. For me, that was a pure land!". 

Coming to Kopan 

So altogether Geshe-la was in the mountains in retreat for 26 years. He had come to Kathmandu a few times and met Lama Yeshe, his old friend from Sera, and although Lama Yeshe requested him several times to stay at Kopan, Geshe-la did not accept but always returned to Tsum. There was one time when Geshe-la accompanied Lama Yeshe to the airport in Kathmandu when Lama was leaving on a visit overseas and on the way someone offered Lama a pair of shoes. Geshe-la felt very sad because he thought that he would not see Lama again... Finally in 1985, one year after Lama Yeshe passed away, Geshe-la came to stay at Kopan. 

Geshe Lama Konchog's Death 

Around 8:15 on the evening of October 15 2001, Tenzin Zopa and others were with Geshe Lama Konchog. Remembers Tenzin Zopa, "Geshe-la said to us, 'Now the vision of the mirage has appeared' - the first of the eight internal signs of death - 'so please go and start the prayers.' We all left except my brother Thubten Lhundrup, who recited Geshe-la's daily prayers for him. At 8.50 his breathing stopped." 

Prayers were performed in Geshe-la's house throughout the day and night during the seven days that he remained in meditation. On October 22, his holy body was carried in solemn procession to the site of the fire puja, which lasted for several hours amid auspicious signs of five types of rainbows and a drizzle of flowers from the sky. At the end, the specially constructed stupa containing the fire was sealed. 

Kopan's lamas and three hundred monks and nearby Khachoe Ghakyil's three hundred nuns, as well as many devoted students from abroad, attended the Yamantaka fire puja, held at a site chosen by Lama Zopa Rinpoche. 

http://www.kopan-monastery.com/teachers_konchog.html

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1109)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1388)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 1991)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5780)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3602)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4833)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4606)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6703)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18248)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3879)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 2963)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5596)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9097)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2609)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6831)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3237)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 5908)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 3984)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5407)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18399)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6334)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5820)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3520)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2495)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13499)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5375)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2723)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 3989)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4548)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3930)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2630)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4368)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3333)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4698)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7553)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3443)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3744)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3445)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7609)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12548)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16191)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4548)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52627)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8653)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16054)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4062)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3799)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8669)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4015)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12676)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12433)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17177)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7180)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5875)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7237)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8376)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5326)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6688)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8709)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5409)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6447)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4705)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14101)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5613)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5746)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9906)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8743)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7179)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35096)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5523)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10633)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13090)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7638)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17767)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6607)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19886)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13395)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16183)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 26956)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 28784)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10833)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7612)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7062)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10173)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10196)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8067)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8092)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6867)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10020)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20779)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24140)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15232)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8196)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18698)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16595)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10884)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7322)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7907)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14205)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant