Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 3: Sa Di Nương Theo Thầy Và Sa Di Xuất Gia

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7839)
Chương 3: Sa Di Nương Theo Thầy Và Sa Di Xuất Gia

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ năm: Sa Di Thập GiớiThức Xoa Lục Pháp
Chương 3: Sa Di Nương Theo Thầy Và Sa Di Xuất Gia

I. NGƯỜI NÀO CÓ THỂ LÀM THẦY CỦA SA DI?

Tại Trung Quốc, Sa di là sản vật của các ngôi chùa tư do con cháu truyền nhau từ đời này sang đời khác. Sa di, cũng chỉ có đương gia trụ trì của chùa tư mới đủ tư cách thế độ. Trong đại tòng lâm của thập phương đạo tràng, thà rằng thâu nhận Tỳ kheo giả mạo chưa đủ 20 tuổi thọ Tỳ kheo giới, chứ chẳng dung nạp Sa di nhỏ tuổi, để đề phòng nạn phe đảng đấu tranh.

Trong Tăng đoàn của Phật chế, người làm thầy thế độ Sa di không có đặc quyền về giai cấp. Sa di trong Tăng đoàn, bất luận nơi nào cũng đều được vui vẻ tiếp nhận, không có chỗ gọi là chùa tư của con cháu truyền nhau từ đời này sang đời khác, cũng không phân biệt là của tòng lâm hay của thập phương đạo tràng. Phàm là đạo tràng của Phật giáo đều là thập phương thường trụ, người xuất gia đến một đạo tràng bất luận là lớn hay nhỏ, không có lý nào bị xem như người ngoài. Trụ ở chỗ nào thì có nghĩa vụ hộ trì đạo tràng chỗ đó. Sa di đi theo thầy thế độ, nhưng khi vào trụ ở một đạo tràng nào, ngoài việc phục tùng và hầu hạ vị thầy thế độ của mình còn phải chịu sự sai khiến và phân phối công tác của thầy Tỳ kheo chấp sự đạo tràng. Vì thế Sa di theo thầy đến một đạo tràng nào trụ, cũng tức là Sa di của đạo tràng đó. Trong Tăng đoàn lúc Phật còn tại thế, chỗ nào cũng đều có sự hiện hữuhoạt động của Sa di, thậm chí ở trong Tăng đoàn không thể khôngSa di, nhân vì có những việc Tỳ kheo không được làm, Sa di có thể thay làm.

tính cách trọng yếu của Sa di trong Tăng đoàn, nên chẳng phải vì họ tuổi nhỏ mà không được vui vẻ tiếp nhận.

Trên phương tiện tu chứng, Sa di cũng có thể tu chứng như Tỳ kheo, nghĩa là dù tuổi tác nhỏ nhưng cũng có thể chứng Tứ quả Sa môn. Vì thế, Đức Phật cũng khai thị mọi người chẳng nên khinh thị người xuất gia nhỏ tuổi là muốn mọi người phải tôn trọng người xuất gia tuổi nhỏ. Vì thế, cấp bậc của Sa di ở trong chúng xuất gia tuy nhỏ, cũng không bị sự kỳ thị của người lớn.

Lợi dưỡng trong Tăng đoàn, Sa di dường như được hưởng thụ quyền lợi ngang với Tỳ kheo, tỷ như trong Thập Tụng Luật quyển 27 nói: “Sa di hoặc đứng hoặc ngồi, theo thứ tự được đàn việt bố thí nhiều ít, nên thuộc về Sa di”. Lại nói: “Các đàn việt khi cho không phân biệt, chia làm bốn phần, phần thứ tư cho Sa di”. Lại nói: “An cư phát y có phần cho Sa di, vật cần dùng tuỳ thân của Tỳ kheo cũng có phần cho Sa di; Nhân duyên y có phần cho Sa di, Phi thời y cũng có phần cho Sa di”.

Người độ Sa di xuất gia tuy không có đặc quyền giai cấp, nhưng có sự hạn chế trên tư cách. Kinh Đại Tỳ kheo Tam Thiên Oai Nghi nói: “Tỳ kheo giới đủ 10 năm mới được độ người, nếu chẳng biết ngũ pháp thì suốt đời chẳng được độ người”. Ngũ pháp là:

1. Thông hiểu sự lợi ích rộng của hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.

2. Giải quyết được nghi vấn và tội khinh trọng đáng phạm của đệ tử.

3. Đệ tử ở phương xa đủ sức khiến đệ tử quay về.

4. Phá được kiến chấp tà ác của đệ tử và răn dạy đừng làm điều ác.

5. Nếu đệ tử bệnh, chăm sóc được như cha nuôi con.

Lại nói: “Nếu người chẳng biết năm việc ấy thì suốt đời không được độ người. Nếu độ người đắc tội Đột kiết la”. Lại nói: “Tỳ kheo muốn độ Sa di phải có đủ năm việc:

1. Phải biết 4 bộ A Hàm.

2. Phải biết giới.

3. Phải biết kinh.

4. Phải có huệ.

5. Phải có đức”.

Lại nói: “Có năm điều:

1. Phải trì giới.

2. Phải không phạm giới.

3. Phải nhẫn nhục.

4. Phải hiểu được kinh.

5. Phải tự giữ tất cả”.

Nhân vì Hòa thượng thập giới của Sa di là thầy thế độ. Nếu như thầy thế độ chưa hoàn tục, chưa tử vong, cũng chưa đi phương xa, Hòa thượng truyền Cụ túc giới của Tỳ kheo cũng là thầy thế độ, vì tư cách thế độ Sa di cũng phải đồng với tư cách của vị vì người làm Hòa thượng Tỳ kheo giới. Trong Tăng Kỳ Luật quyển 28, có quy định 10 việc độ người giữa thầy trò: “Phật nói, từ nay có 10 pháp thành tựu mới cho độ người xuất gia thọ Cụ túc giới:

1. Trì giới

2. Học rộng A tỳ đàm (Luận)

3. Học rộng Tỳ ni (Luật)

4. Học giới

5. Học định

6. Học huệ

7. Có thể xuất tội và khiến cho người xuất tội

8. Có thể săn sóc bệnh và sai người săn sóc bệnh.

9. Đệ tử gặp nạn có thể sai người đưa đi.

10. Đủ 10 tuổi hạ”

Lại nói: “Ít nhất phải đủ 10 năm Tỳ kheo giới, và biết hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni mới được độ người xuất gia”.

Thiện Kiến Luật nói: “Nếu chẳng biết Luật, chỉ biết Tu đa la (Kinh), A tỳ đàm (Luận) thì chẳng được độ Sa di”

Tổng hợp 3 bản luật đã nêu ở trên về những điều kiện cần phải có của thầy độ trò, có thể đưa đến kết luận: Vì người làm thầy độ Sa di, tốt hơn hết là đủ 10 đức như trong Tăng Kỳ Luật nói. Nếu không được như vậy, ít nhất cũng phải đủ hai điều kiện:

1. Tỳ kheo giới lạp phải đủ 10 năm.

2. Thông hiểu hai bộ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.

Nếu thiếu một trong hai điều kiện thì không đủ tư cách thế độ Sa di, nguyên nhân là chính mình chưa đủ 10 hạ rất khó thông suốt luật nghi. Nếu không thông hiểu hành trì tác pháp của luật nghi trong cuộc sống hằng ngày qua trì phạm khai giá, cấp bậc khinh trọng, thì lấy gì để răn dạy đệ tử? Điều này ở trong luật có tỷ dụ chính mình chưa rời vú mẹ làm sao có thể cho người khác bú?

Tỳ kheo cũng chỉ có thể thế độ Sa di, không được thế độ Sa di ni, vì chính Đức Phật cũng chưa từng đích thân độ người nữ xuất gia. Phật từng đích thân độ nhiều Tỳ kheo, và cũng độ hai người Sa diNan ĐềDa Xá nhưng chưa từng đích thân độ một nữ chúng (Luận Tát Bà Đa, quyển 2); điều này trong luật có ghi. Ni chúng đầu tiên là do Bát Kính phápxuất gia, về sau do ni chúng thế độ ni chúng. Vì thế trong văn Sa di ni giới có nói: “Tự chẳng phải Thánh Bồ tát, A la hán chẳng nên độ ni”. Người nữ có thể ở trong Phật pháp xuất gia, song vì phòng ngừa sự dần dần ái nhiễm, ngăn dứt tiếng chê bai, nên chẳng cho Tỳ kheo thế độ người nữ xuất gia. Tỳ kheo cũng chẳng được làm Hòa thượng của Tỳ kheo ni, chỉ có thể làm Yết ma A xà lê, Giáo thọ A xà lê của Ni chúng.

Sa di ni phải do Tỳ kheo ni thế độ, tư cách phải có của Tỳ kheo ni ấy đại khái cũng đồng như Tỳ kheo độ Sa di. Chỗ bất đồng là Tỳ kheo ni phải đủ 12 năm giới lạp trở lên mới cho độ người xuất gia.

II. QUY CỦ THẾ ĐỘ SA DI

Không luận Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, trừ những tư cách nói trên cần phải đầy đủ, còn phải cầu được sự đồng ý của đại chúng trong Tăng đoàn, vì thế trong luật có một thứ Yết ma xin độ Sa di (Sa di ni). Nếu muốn độ người xuất gia, trước tiên phải cầu xin trong Tăng đoàn, nếu như đại chúng trong Tăng đoàn thấy rằng người này đã có đủ 10 hạ, đã có năng lực răn dạy đệ tử, đã có đủ sức lo những nhu cầu cơm áo cho đệ tử, bèn chấp nhận. Bằng không thì không chấp nhận, không cho được độ người xuất gia. Nếu như đại chúng trong tăng đoàn chưa có thể tập họp lại một chỗ, Tỳ kheo (hoặc Tỳ kheo ni) độ người phải đi từng phòng bạch cho đại chúng đều biết, được sự đồng ý của đại chúng rồi, sau đó mới được thế độ cho người.

Ở đây có 2 lý do:

1. Đã từng có Tỳ kheo tự mình không đủ tư cách làm thầy độ người mà làm thầy độ người, sau khi độ người chẳng thể răn dạy đúng như pháp, không đủ sức cung cấp nhu cầu cơm áo đúng như pháp, khiến cho người ngoài chê bai, vì thế cần phải được sự đồng ý của đại chúng và do đại chúng đánh giá tư cách của ông thầy độ người.

2. Đã từng có Tỳ kheo độ một đứa bé xuất gia mà chưa được sự đồng ý của cha mẹ đứa bé, cũng chưa được sự chấp nhận của đại chúng trong Tăng đoàn, cha mẹ của đứa bé vào tự viện hỏi, các Tỳ kheo khác đều không biết sự việc nên nói chưa thấy đứa bé này. Thật ra, cha mẹ đứa bé đã phát giác ra con mình cạo tóc xuất gia rồi, do đó chê trách các thầy Tỳ kheo là người có đạo mà lại vọng ngữ. Vì thế Đức Phật quy định muốn độ người xuất gia, trước tiên cần phải được Tăng đoàn chấp nhận.

Số người được độ xuất gia cũng có hạn chế. Trong Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 8 có quy định như vầy: “Đệ tử thọ Tỳ kheo Cụ túc giới rồi, trong 12 tháng phải dạy cho người đệ tử ấy tất cả pháp của một Tỳ kheo, rồi sau đó mới được cho một đệ tử khác thọ Cụ túc giới, nếu chưa đủ 12 tháng chẳng được cho thọ giới. Sa di thọ đại giới rồi, sau đó mới được nhận một Sa di khác”. Đây là nói khi đệ tử thứ nhất thọ Tỳ kheo giới, trong 12 tháng không được độ Sa di xuất gia, phải sau 12 tháng của người Sa di thứ nhất thọ Tỳ kheo giới, mới được độ người Sa di thứ hai. Cũng trong quyển 8 của Kinh này nói: “Sa di ni thọ giới Thức xoa ma na ni, trong 2 năm, không được độ một Sa di ni khác. Sau khi Thức xoa ma ni thọ Cụ túc (Tỳ kheo ni) giới rồi mới được độ Sa di ni khác. Tỳ kheo ni cũng phải như Đại Tăng (Tỳ kheo), trong 12 tháng phải dạy đệ tử tất cả những pháp phải làm, sau đó nếu Thức xoa ma ni muốn thọ Cụ túc giới, nên cho phép thọ Cụ túc giới”. Theo đây, điểm tương đồng với Tỳ kheo là trong một năm chỉ có thể cho một người đệ tử thọ Cụ túc giới, nhưng có chỗ không tương đồng là trong 2 năm chỉ có thể độ một đệ tử Thức xoa ma na ni, một đệ tử Sa di ni.

Trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ, của Luật sư Đạo Tuyên nói: “Tứ Phần Luật không cho đồng thời nuôi hai Sa di”. Lại nói: “Trong Tăng Kỳ Luật không cho nuôi nhiều Sa di, chỉ cho nuôi từ một đến ba người là nhiều nhất”.

Quy định không cho đồng thời thế độ hai người Sa di xuất gia, có hai lý do:

1. Đã từng có một Tỳ kheo đồng thời nuôi hai Sa di, hai Sa di ấy do không hiểu biết, lại sinh tham dục đến đỗi hai người hành dâm với nhau. Vì phòng ngừa sự kiện tương tự như thế phát sinh, nên chỉ cho có một Sa di.

2. Đệ tử Sa di nhiều, sức dạy dỗ và cung cấp của thầy thế độ thường thường không thể lo tròn. Các đệ tử Sa di không được giáo dụccung cấp đầy đủ chỉ làm lụy đến con em người và làm hại Phật giáo, vì thế chẳng được đồng thời nuôi nhiều Sa di. Song trong luật cũng có khai lệ: Nếu như vị thầy trí huệ cao sâu, phước lực thù thắngđủ khả năng dạy dỗ dưỡng nuôi thì không ngại gì nuôi hai Sa di trở lên.

Trong luật có nói: “Bậc thầy phân làm 4 hạng:

1. Có pháp lại có cơm áo.

2. Có pháp mà không có cơm áo.

3. Có cơm áo mà không có pháp.

4. Không có pháp cũng không có cơm áo.

Vị thầy lý tưởng của đệ tử dĩ nhiên là vị Đại đức Tỳ kheo đã có pháp để học, lại có cơm áo để dùng. Đệ tử theo hầu dưới tòa của vị Tỳ kheo ấy chẳng nên ly khai. Nếu như Tỳ kheoPhật pháp để học mà không có cơm áo để dùng cũng không nên ly khai, vì Phật pháp khó được, cơm áo dễ được. Nếu như Tỳ kheo chỉ có cơm áo nhưng không có Phật pháp thì chẳng đủ tư cách làm thầy. Đến như Tỳ kheo không có Phật pháp cũng không có cơm áo, quyết không nên theo thờ người ấy làm thầy.

Thật ra, người chỉ biết thâu nhiều đồ chúng xuất gia mà tự mình lại không thể dạy dỗ đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là có tội. Như trong Kinh Bồ tát Thiện Giới quyển 4 nói: “Chiên đà la (người hạ tiện làm nghiệp ác) và kẻ đồ tể tuy làm nghiệp ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai thì không nhất định phải đọa trong ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Làm thầy mà không dạy răn đệ tửphá hoại Phật pháp, nhất định sẽ bị đọa trong địa ngục. Vì danh dự mà chứa nuôi đồ chúng gọi là tà kiến, là đệ tử ma”.

Vậy mà người xuất gia ngày nay có được bao nhiêu vị thông hiểu hai bộ luật? Như muốn hợp với quy định, cơ hồ không ai dám độ người thế tục xuất gia. Nếu tự mình không thể giáo dục đệ tử, thì ít nhất cũng phải nhờ người khác thay mình giáo dục. Do đó, sự xuất hiện của Phật học viện là rất hợp thời.

III. NGHI THỨC CỦA SA DI XUẤT GIA

Sa di cần phải xuất gia, sau khi xuất gia và thọ thập giới, nếu chưa phải là một Pháp đồng Sa di, thì được gọi là Hình đồng Sa di.

Xuất gianghi thức xuất gia, các chùa tư ở Trung Quốc thâu nhận người xuất gia nhưng rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia, vì họ không biết phải cử hành nghi thức xuất gia như thế nào, cũng không hiểu được nghi thức xuất gia là đáng quý, đây là điều rất đáng tiếc!

Nghi thức tuy là sự biểu hiện hình thức, nhưng lại ảnh hưởng đến sự chuyển biến của tâm lý. Vì thế, không luận là một tôn giáo nào cũng đều có nghi thức của tôn giáo đó, cho đến tôn giáo tín ngưỡng của thời cổ sơ, tuy không có luân lý của tôn giáo, song họ lại lấy nghi thức tôn giáo làm trung tâm của tín ngưỡng. Nếu như chuyện phụng sự cho sự cử hành nghi thức mà không có giá trị luân lý của tôn giáo tín ngưỡng như là tôn giáo thời cổ sơ, đây là điều mà Phật giáo phản đối, như tăng lữ Bà la môn ở thời Đức Phật, chỉ biết nghi thức tôn giáo phiền phức mà không biết giá trị lý tánh của tôn giáo. Thậm chí Phật giáo của thời kỳ đầu vốn không có một nghi thức tôn giáo nào cả, nhưng về sau Tăng chúng đông nên cần phảinghi thức. Nghi thức thế độ Sa di xuất gia hình thành sớm nhất cũng là từ việc La Hầu La xuất gia, cho đến toàn bộ giới luật đều do nơi sự cần thiếtthành lập. Mỗi khi Đức Phật phát hiện ra một vấn đề liền làm một quy định cho đại chúng trong Tăng đoàn, thậm chí tùy theo sự phát triển của hiện thực mà phải đem quy định này tu chỉnh năm sáu lần, sau cùng mới thành một điều giới luật.

Nghi thức của Sa di xuất gia trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ có quy định rõ ràng, đó là do Luật sư Đạo Tuyên căn cứ vào tư liệu của Tứ Phần Luật Độ Nhân Kinh, Luận Thiện Kiến biên tập thành. Đầu tiên, nghi thức này là do các thầy Tỳ kheo tùy tiện tiếp thọ Sa di xuất gia mà không thể dạy bảo đúng như pháp. Người được độ cũng không thể sinh hoạt ở trong Tăng đoàn đúng như pháp, vì thế mới quy định: Phải do đại chúng trong Tăng đoàn họp lại một chỗ vì người được độ bạch nhị yết ma, nghĩa là vị Tỳ kheo độ người ở trước đại chúng của Tăng đoàn đủ oai nghi ba lần xin, người Yết ma của đại chúng trong Tăng đoàn đem ý của Tỳ kheo xin độ người này tuyên bố một lần trước đại chúng, rồi lại nói hai phen trưng cầu đồng ý (đây gọi là bạch nhị yết ma). Nếu như trong đại chúng không có sự dị nghị, thì kể như im lặng nhận là đồng ý, Tỳ kheo độ người mới được thế độ Sa di.

Nhưng, Sa di xuất gia phải có hai thầy: Một vị là thầy thế độ cũng là Hòa thượng truyền giới, còn một vị nữa là Giáo thọ A xà lê. Vì thế, người xuất gia phải trước lễ thỉnh Hòa thượng, rồi Hòa thượng thay thế cho Sa di thỉnh A xà lê.

Người xuất gia sau khi thỉnh hai vị thầy xong, ở trong đạo tràng phải thiết lập sẵn hai tòa chuẩn bị cho hai thầy ngồi. Sau đó dùng nước thơm tắm gội, xong vẫn mặc y phục thế tục hướng về cha mẹ tôn trưởng của tục gia lạy từ biệt mỗi người, rồi quỳ xuống nói kệ:

 “Lưu chuyển tam giới trung

 Ân ái bất năng thoát

 Khí ân nhập vô vi

 Chân thật báo ân giả

 (Trôi lăn trong ba cõi

 Ân ái không thể thoát

 Bỏ ân nhập vô vi

 Là chân thật báo ân).

Nói kệ xong, cởi bỏ y phục thế tục, mặc tăng phục, vào đạo tràng đến trước Hòa thượng chắp tay. Hòa thượng nói về các tướng bất tịnh của thân người như lông, tóc, móng, răng, da …, để cho người xuất gia ấy quán thân bất tịnh, như huyễn không thật, chán bỏ sinh tửquyết chí xuất gia. Kế đó, người xuất gia đến trước A xà lê, được Ngài dùng nước thơm rải lên đảnh và đọc kệ tán thán:

 “Thiện tai đại trượng phu

 Năng liễu thế vô thường

 Xả tục thú nê hoàn

 Hy hữu nan tư nghì”

 (Hay thay đại trượng phu

 Hiểu thế gian vô thường

 Bỏ tục hướng Niết bàn

 Hy hữu khó nghĩ bàn).

Người xuất gia lễ thập phương chư Phật và tự nói kệ:

 “Quy y Đại Thế Tôn

 Năng độ tam hữu khổ

 Diệc nguyện chư chúng sinh

 Phổ nhập vô vi lạc”.

 (Quy y Đại Thế Tôn

 Hay độ ba cõi khổ

 Cũng nguyện các chúng sinh

 Đều nhập vô vi lạc).

Tiếp theo, A xà lê liền cạo tóc cho người xuất gia ấy. Nếu có Điển lễ, thì đồng tụng bài kệ xuất gia:

 “Hủy hình thủ chí tiết

 Cát ái từ sở thân

 Khí gia, hoằng Thánh đạo

 Nguyện độ nhất thiết nhân”

 (Hủy hình giữ chí tiết

 Cắt ái từ mẹ cha

 Bỏ nhà, hoằng Thánh đạo

 Nguyện độ hết mọi người).

A xà lê phải để lại vài cọng tóc ở trên đảnh người xuất gia, sau đó người ấy đến quỳ trước Hòa thượng. Hòa thượng cầm dao cạo tóc hỏi: “Hiện tại vì ông cạo tóc trên đảnh được không?”. Sau khi người xuất gia đáp: “Vâng ạ!”, Hòa thượng bèn cạo tóc trên đảnh, tiếp theo truyền trao ca sa. Người xuất gia phải đội trên đảnh để thọ, thọ rồi giao lại cho Hòa thượng. Qua lại ba lần truyền trao ca sa, Hòa thượng bèn mặc cà-sa (y không có tướng điều) cho người xuất gia và nói kệ:

 “Đại tai! Giải thoát phục

 Vô tướng phước điền y

 Phi phụng trì giới hạnh

 Quảng độ chư chúng sinh”.

 (Lớn thay! Áo giải thoát

 Y vô tướng phước điền

 Mặc vâng làm giới hạnh

 Rộng độ các chúng sinh).

Người xuất gia mặc cà-sa đi lễ Phật và đi quanh giới đàn ba vòng, tự nói kệ mừng:

 “Ngộ tai trị Phật giả

 Hà nhân thùy bất hỷ?

 Phước nguyện dữ thời hội

 Ngã kim hoạch pháp lợi”.

 (Nếu được gặp Đức Phật

 Người nào không vui mừng?

 Phước nguyện gặp đúng lúc

 Con nay được pháp lợi).

Tiếp theo, người xuất gia lễ tạ hai thầy, rồi ngồi ở dưới tiếp thọ bà con ở trong gia đình thế tục đến chúc mừng.

Đây là nghi thức rất đơn giản, nếu như tỉnh lược chẳng làm, thật không biết nói sao! Nhưng trong Ký Quy Truyện quyển ba của Tam Tạng Nghĩa Tịnh lại càng giản đơn hơn, Ngài nói: “Tăng chúng chấp nhận rồi, Hòa thượng vì người xuất gia thỉnh A giá ly da (tức A xà lê) có thể ở chỗ vắng bảo người cạo tóc cạo râu cho người xuất gia, và bảo người ấy tắm rửa, rồi Thầy đích thân mặc áo quần để cho kiểm soát chẳng phải huỳnh môn. Kế đưa cho cái y bảo đội lên đầu mà thọ. Mặc pháp y xong liền trao bát cho. Đây gọi là xuất gia”. Ở đây có một điều là Hòa thượng mặc quần áo cho người xuất gia sau khi tắm gội xong là để kiểm tra người nam hoặc nữ, sinh lýbình thường không? Nếu không bình thường, không được thế độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12034)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12581)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10586)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10339)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7004)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13695)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9119)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11941)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11404)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14856)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13023)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20534)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17463)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant