CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
57. Tập Tăng tác.
58. Thứ hậu tác.
59. Kiết-ma phi tướng.
60. Dự dục.
61. Nhận dự dục.
62. Dự dục không thành.
63. Kiết đại giới bên Tăng và bên Ni.
64. Xuất gia thọ giới.
65. Tỳ-Kheo.
66. Đời sống A-la-hán.
67. Hòa thượng.
68. Y chỉ.
69. Nên học và không nên học.
70. A-xà-lê.
71. Nguyên nhân thuyết giới.
72. Bố-tát.
73. Mục đích Bố-tát.
74. Trung gian Bố-tát.
75. Cách thuyết giới.
76. Già thuyết giới.
77. Không đủ tư cách ngăn thuyết giới.
78. Đủ tư cách ngăn thuyết giới.
79. Triển ngày thuyết giới.
80. An cư.
81. Tiền An cư, hậu An cư.
82. Thọ nhật.
83. Tự tứ.
84. Cầu thính.
85. Y đệ ngũ luật sư.
57. Tập Tăng tác.
Trong
các pháp kiết-ma đó có loại kíết-ma tập Tăng tác, tức khi tập Tăng làm kiết-ma liền. Ví dụ như thọ giới, kiết giới, nhưng trừ hai trường hợp là
Tự tứ và thuyết giới.
58. Thứ hậu tác.
Thứ
hậu tác là gì? Trước khi thuyết giới, Tự tứ, phải có một ngày dự bị tập
chúng để kiểm điểm chúng Tăng có thanh tịnh không. Nếu ai có lỗi thì phải lo sám hối trước để ngày mai được thanh tịnh mà kiết-ma Tự tứ, thuyết giới, gọi là kiết-ma thứ hậu tác.
Tổ
chức Tự tứ, nhiều khi làm luộm thuộm quá nên kết quả không được như ý, nhất là khâu tập chúng mà lộn xộn thì trái lời Phật chế.
Ngũ
phần luật có nói: “Muốn thuyết giới, muốn Tự tứ mà Tăng bất hòa, thì trước khi thuyết giới, Tự tứ, Tăng phải giải hòa đã, vì việc thuyết giới, Tự tứ là việc chính yếu của Phật chế, Tăng không dám giải tán”. (Dục thuyết giới Tự tứ, như Tăng bất hòa, ưng tại thuyết giới Tự tứ chi tiền hòa giải, dữ thuyết giới Tự tứ do Phật chế chi chánh yếu, Tăng bất cảm giải tán). Nếu đến khi thuyết giới, Tự tứ mà giải tán là trái với chính yếu của Phật. Có người nói rằng, Tăng bất hòa mãi thì không thuyết giới, không Tự tứ được, như vậy mãi sao? Thuyết giới Tự tứ cốt là
hòa, nếu không hòa thì làm sao mà thuyết? Tăng hòa ở đây chủ yếu là không có bốn việc: ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh, sự tránh (như đã nói ở đoạn trước). Tăng bất hòa mà không giải thì thuyết sao được? Nên phải hiểu cái nào chính cái nào phụ, cái nào trước cái nào sau; không lấy cái khinh mà làm cái trọng được.
Tóm
lại, mục đích thuyết giới cốt để nhắc lại sự trì giới, và cơ bản là trì
giới, còn thuyết giới là phụ, để hỗ trợ thêm, như cây mà mình tưới thêm
nước. Cây vốn phải sống mới tưới nước, còn không sống thì tưới làm gì? Thành tưới nước không quan trọng bằng cây sống. Thuyết giới là để hỗ trợ
cho giới nên gọi là trưởng tịnh. Giới có tịnh thì mới trưởng, tức thêm phân cho mau tốt.
Tóm
lại, muốn kiết-ma phải có bốn điều kện là pháp, nhân, sự và xứ. Pháp là
nguyên tắc, thủ tục, phương thức kiết-ma như đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ. Nhân là điều kiện về nhân sự, nghĩa là nhân số phải đủ. Ví dụ, thọ đại giới ở nơi đông Tăng (trung quốc) phải đủ 10 vị, ở chỗ ít Tăng (biên
địa) 5 vị. Sự là kiết-ma về việc gì. Xứ là kiết-ma phải làm trong một giới vức nhất định làm khác là sai, gọi là kiết-ma phi tướng, tức kiết-ma không đúng cách.
59. Kiết-ma phi tướng.
Là kiết-ma không đúng cách. Có 7 cách kiết-ma phi tướng:
1.
Kiết-ma phi pháp, phi Tỳ-ni. Chữ Tỳ-ni là Luật, nên hiểu đó là phi pháp, phi luật. Trong lời di giáo của Phật có nói: “Nay Ta để Pháp và Luật cho các ngươi thọ trì (nghĩa chung). Thế nào gọi là phi Pháp, phi Tỳ-ni? Kiết-ma không đúng cách, đáng bạch tứ lại bạch nhị, hoặc kiết-ma trước bạch sau, đó gọi là phi pháp. Một hai người truyền giới cho người khác, hoặc Tăng bốn người truyền cho bốn người, đó gọi là phi Tỳ-ni. Ví dụ như khi thọ đại giới, mà một, hai, ba hoặc bốn người thọ cho một người trở lên, thì dù có làm kiết-ma truyền thọ cũng không thành. Vì nếu
biên địa phải có 5 Tăng (trong đó 1 vị kiết-ma còn 4 biểu quyết). Ở Trung Quốc, phải có 10 vị mới đúng. Hoặc như 5 người truyền giới cho 4 giới tử cũng bất thành, vì 4 người là thành Tăng, không lý Tăng truyền giới cho Tăng. Tăng chỉ được trao giới cho từng vị, chứ không thể cùng lúc trao giới cho 4 người. Do vậy, giới đàn chỉ lần lượt trao giới cho một đến 3 giới tử. Ba vị cũng là phương tiện, chưa đúng Luật lắm, vì mỗi
lần truyền giới, là như ở đời bà mẹ sinh ra một đứa con, không thể trong một hai giờ mà sinh đẻ quá 3 đứa con. Đúng lý nhất, phải truyền cho một người mà thôi.
Ngày
xưa đức Phật thấy ai có đủ điều kiện thì cho thọ giới, chứ không cần tổ
chức một giới đàn thật lớn. Tổ chức thọ giới rầm rộ có cái lợi về lượng, và cũng làm cho nhiều người hộ giới xem đàn mà phát tâm; nhưng cũng có cái hại về phẩm. Vì trong một giới đàn lớn, thường có nhiều người nhân cơ hội cũng thọ cho luôn: mặc dù chưa đủ tư cách.
Cử
tội Tỳ-kheo thì phải là Tăng cử, không cá nhân nào có quyền kết tội cá nhân nào. Ba người cũng không được kết tội, mà phải đủ chúng bốn người trở lên. Nêu tội, thì có thể một người nêu, nhưng xét tội và kết tội thì
phải là chúng Tăng mới xét và kết tội được. Cũng vậy, chỉ có Tăng 5 người, mười người mới truyền giới cho người khác, chứ cá nhân không truyền đại giới được.
2.
Phi pháp biệt chúng kiết-ma: Thế nào gọi là phi pháp biệt chúng? Nghĩa là bạch việc này mà kiết-ma việc khác. Biệt chúng là tách ra khỏi chúng.
Đáng bạch nhị mà bạch tứ, là phi pháp. Thế nào gọi là biệt chúng? Trong
chúng có bao nhiêu người, kiết-ma cần bao nhiêu, thì phải có mặt đủ; nếu vắng mà không dữ dục là biệt chúng. Người đáng đến không đến, cũng gọi là biệt chúng. Nếu có duyên sự Tam Bảo thì phải dữ dục, không dữ dục
là biệt chúng.
3.
Phi pháp hòa hợp kiết-ma: Ví dụ, người nào cần có mặt thì có mặt, người
nào vì duyên sự Tam Bảo thì dữ dục. Người có mặt thì hòa hợp nhất trí, chứ không có sự bất hòa, gọi là hòa hợp chúng. Hòa hợp Tăng là một sự hòa hợp triệt để, mười người như một, dù có một người có mặt, mà tâm không hòa cũng bất thành, chứ không phải thiểu số phục tùng đa số. Tuy chúng hòa hợp mà kiết-ma lại phi pháp.
4. Như pháp biệt chúng kiết-ma: Là kiết-ma đúng như pháp nhưng lại biệt chúng thì cũng thành phi tướng.
5.
Pháp tương tợ biệt chúng kiết-ma: Đáng ra bạch rồi mới kiết-ma, đằng này kiết-ma rồi mới bạch, thế là lộn ngược, gọi là tương tợ như pháp (có
bạch đàng hoàng mà biệt chúng, nên thành phi tướng).
6. Pháp tương tợ hòa hợp chúng kiết-ma: Đáng tiên bạch hậu kiết-ma, lại tiên kiết-ma hậu bạch.
7.
Bị giá như bất chí kiết-ma: Khi kiết-ma thọ giới, một trong 10 vị (thập
sư) ngăn không cho thọ, đúng Luật là không được thọ, nhưng chín ông còn
lại vẫn kiết-ma cho thọ, thì đó là kiết-ma phi pháp. Trong Luật không phải lấy thiểu số phục tùng đa số, mà là phải hòa hợp triệt để 100 phần trăm mới hợp lệ.
Vậy muốn kiết-ma cho đúng pháp, phải tránh 7 điều phi pháp trên. Ngoài ra còn 7 việc phi pháp nữa trong kiết-ma:
1.
Nhân phi: Trong số người tới dự kiết ma mà có lỗi. không chịu sám hối; hoặc nghi có tội mà không phát lộ, hoặc ở trong một giới mà biệt chúng; hoặc không ngăn những người bị bất kiến cử, bất thọ hối cử và ác kiến bất xả cử; ba hạng này không được dự vào, không được thuyết giới... thế mà trong khi kiết-ma không mời họ ra là nhân phi.
2. Pháp phi: Ví dụ, 3 vị trở xuống mà vẫn đơn bạch kiết-ma là pháp phi (3 người là đối thú chứ không đơn bạch).
3.
Sự phi: Làm không đúng thời. Ví dụ, mới tới ngày thứ 12 đã Tự tứ là sự phi. Chỉ kiết-ma lược Tự tứ khi gặp nạn. Bình thường mà lược Tự tứ cũng là phi.
4. Nhân pháp phi: Trên là nhân phi pháp phi, đây nhân và sự đều phi.
5. Pháp sự phi: Trên pháp phi riêng, sự phi riêng, bây giờ pháp và sự đều phi.
6. Nhân pháp sự giai phi: Ba thứ cùng phi một lần.
Những
trường hợp sau đây cũng gọi là phi pháp phi Tỳ-ni. Ví dụ: Có một Tỳ-kheo tự thấy không phạm, khi được các Tỳ-kheo khác hỏi, thầy nói không thấy mà Tăng vẫn kiết-ma cử tội gọi là bất kiến cử; đương sự không
thấy tội không sám hối, Tăng vẫn kiết-ma cử tội bất sám gọi là bất hối cử. Các Tỳ-kheo bắt phải bỏ ác kiến, nên không có gì phải bỏ, vậy mà Tăng vẫn kiết-ma cử tội ác kiến bất xả, gọi là ác kiến bất xả cử. Kiết-ma như vậy gọi là kiết-ma phi pháp phi luật.
Ngược
lại, có Tỳ-kheo không thấy có tội mà Tỳ-kheo nói có, thầy cũng sám hối xin bỏ, thì cũng gọi là phi pháp phi luật. (Khác với Tỳ-kheo Xiển-đà có tội mà nói không có).
60. Dữ dục.
Muốn
đừng mắc tội biệt chúng thì trong một đại giới, chúng Tăng có bao nhiêu
Tăng số, khi thuyết giới phải có mặt đầy đủ con số ấy. Người nào có duyên sự phải vắng mặt, như vì Tam Bảo sự duyên, phụ mẫu sự duyên hay lý
do chính đáng thì phải dữ dục. Dữ dục là mình gởi ý muốn của mình đến với buổi thuyết giới đó. Khi dữ dục thì nói, ngày nay chúng Tăng thuyết giới, tôi xin dữ dục như pháp Tăng hay như pháp Tăng sự kiết-ma. Nếu dữ dục, khi thuyết giới, Tự tứ thì phải nói đủ là tôi xin dữ dục thanh tịnh, hoặc dữ dục Tự tứ. Ý nghĩa của việc dữ dục là: Tôi tuy vắng mặt, nhưng Tăng làm gì tôi xin đồng tình hết. (lưu ý về chữ thanh tịnh và chữ
Tự tứ. Thanh tịnh là nói khi thuyết giới, chữ Tự tứ nói trong khi Tự tứ. Còn các trường hợp khác, kiết-ma thì không dùng đến). Tất cả mọi kiết-ma đều được phép dữ dục, chỉ trừ kiết-ma kiết giới là không được phép dữ dục. (Kiết giới không được phép dữ dục vì cần có mặt để biết giới trường ngang đâu mà thi hành, còn vắng mặt thì làm sao mà biết được).
61. Nhận dữ dục.
Một
người có thể nhận lãnh cho một vị hay nhiều vị dữ dục cũng được, miễn là người đó đủ sức nhớ tên của người gởi, chứ không bắt buộc một người chỉ nhận cho một người dữ dục.
Đến
ngày thuyết giới hoặc Tự tứ mà vì có lý do chính đáng, không đến thì dữ
dục người khác rằng: Bạch Đại đức, hôm nay chúng Tăng thuyết giới (hoặc
Tự tứ), tôi xin dữ dục như pháp thanh tịnh (hoặc dữ dục như pháp Tự tứ). Người nhận dục, khi đến ngày thuyết giới hoặc Tự tứ, nghe vị yết-ma
hỏi thì ra giữa chúng mà thuyết dục như người kia đã dữ dục.
62. Dữ dục không thành.
Có 5 trường hợp dữ dục không thành:
1. Cách đêm mà dữ dục. Ngày mai mới Bố-tát, tối nay gởi trước, không thành.
2. Đi ra ngoại giới mà dữ dục. Đã ở ngoại giới thì gởi làm gì nữa, chỉ đang ở trong đại giới mới dữ dục.
3. Tăng dữ dục cho Ni hay gởi cho cư sĩ không thành. Ni dữ dục cũng vậy.
4. Dữ dục rồi hoàn tục coi như không.
5. Dữ dục rồi lại đến, đến lại đi, không thành.
63. Kiết đại giới bên Tăng và bên Ni.
Về
đại giới, khi Tăng đã kiết rồi, Ni có thể kiết chồng lên mà đại giới của Tăng vẫn không mất. Ngược lại, khi Ni đã kiết đại giới rồi mà Tăng kiết đại giới chồng lên cũng không mất đại giới của Ni–vì Tăng kiết đại giới, Ni không biết. Tóm lại, bên nào kiết thì bên đó biết, chứ không có
tiết lộ cho nhau biết, nên bên nào cũng được yên ổn hết.
64. Xuất gia thọ giới.
Những
người đầu tiên đi xuất gia với Phật, Ngài chỉ gọi “Thiện lai Tỳ-kheo” là thành Tỳ-kheo rồi. Còn Sa-di đi tu đầu tiên là La-hầu-la và Tôn giả Xá-lợi-phất được sai làm Hòa thượng truyền giới cho La-hầu-la. Sau La-hầu-la, cũng có nhiều em bé đi xuất gia. Có một lần, một vị Tỳ-kheo lớn tuổi nhận một em bé dưới 12 tuổi cho xuất gia làm Sa-di. Khi vị Trưởng lão đi khất thực, vị Sa-di đi theo hầu. Khi tới quán bán bánh nào, em cũng đưa tay ra xin, làm cho các vị Tỳ-kheo thấy xấu hỗ. Phật nghe vậy liền kêu vị Trưởng lão ấy lên quở. Ngài nói: Các em bé nhỏ quá,
nhận cho đi xuất gia làm gì để cho thiên hạ cơ hiềm. Từ đó Phật không cho phép các vị Tỳ-kheo nhận các em bé dưới 12 tuổi xuất gia.
Nhưng
có một lần, thấy một em bé dưới 12 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ, đến xin Tôn giả Xá lợi-phất xuất gia. Tôn giả không nhận vì đã có lệnh của Thế Tôn. Tuy nhiên, do từ tâm đối với em bé mồ côi này, nếu không nhận, em có thể gầy mòn và chết, do vậy Tôn giả đến cầu xin với Phật. Phật hỏi em
có đuổi quạ được không? (Ở Ấn Độ có tục lệ điểu táng nên quạ sinh sôi nảy nở vô số kể). Em có ăn một bữa được không? Em có giữ được một số giới không? v.v... Tôn giả bạch Ngài là hi vọng em có thể giữ được. Ngài
đồng ý và bảo Tôn giả Xá-lợi-phất độ cho em bé ấy xuất gia làm Sa-di đuổi quạ (khu ô Sa-di). Khu ô là chữ của nhà Phật. Sau này các vị Tổ mới
thêm hình đồng Sa-di, là tuy có mặc áo chùa nhưng chưa có giới pháp nào
cả, vì còn nhỏ, rồi đến Pháp đồng Sa-di, là có thọ 10 giới. Trường hợp đủ 20 tuổi, căn cơ đủ, thì có thể cho thọ Sa-di và sau đó thọ Tỳ-kheo liền cũng đúng Luật. Cũng có trường hợp ngoại đạo xin xuất gia, tùy từng
trường hợp cụ thể và hoàn cảnh mà ấn định ngày cho thọ giới. Người tuổi
đã 70 thì dứt khoát không cho thọ Tỳ-kheo. Một vị Tỳ-kheo được phép 7 lần tu lại nếu họ xả giới đàng hoàng. Về phía bên Ni, khi đã xả giới rồi
thì không được tu lại. Khi thọ giới phải đủ thủ tục, nhưng khi xả giới thì chỉ cần một câu rằng “tôi nay xin xả giới Cụ túc (hay không làm Sa-môn)” là đủ, bất cứ nói với ai mà họ nghe và hiểu. Thọ giới rất khó, như trèo lên cây rất công phu, nhưng khi xả giới thì như từ trên cây tuột xuống đất rất dễ.
65. Tỳ-kheo.
Tỳ-kheo,
chữ Phạn là Bhiksu, có nghĩa là thành tựu trọn vẹn. Trung Hoa dịch là cận viên (gần tới Niết-bàn, tức gần viên tịch) hay bước lên chỗ cao (Upasampada). Upa: gần gũi ở trên; sampada: đến nơi, thành tựu trọn vẹn.
66. Đời sống A-la-hán.
Đời sống A-la-hán có 4 sự thanh tịnh:
1. Được giới thanh tịnh.
2. Lục căn thanh tịnh.
3. Mạng sống thanh tịnh.
4. Niệm thanh tịnh.
Có
người tưởng nhầm là phải do ít ăn, ít ngủ hay có thể bay lên trời, chui
xuống đất mới gọi là A-la-hán. Nếu thế thì Tôn giả Xá-lợi-phất có bay đâu mà cũng thành A-la-hán.
67. Hòa thượng.
Một người thọ giới rồi mà không có đủ 5 điều kiện sau đây thì suốt đời phải y chỉ nơi một vị thầy Hòa thượng hay A-xà-lê:
1. Không biết thế nào là phạm giới.
2. Không biết thế nào là không phạm giới.
3. Không biết thế nào là phạm khinh.
4. Không biết thế nào là phạm trọng.
5. Không biết tụng giới bổn Tỳ-kheo.
Vị
thầy y chỉ là A-xà-lê hay Hòa thượng. Chữ Hòa thượng là một từ của Tây vức (Tây Trung Quốc như Quy Tư, An Tức... ngày trước khi chưa rõ địa dư,
người ta gọi Ấn Độ là Thiên Trúc, còn Iran hay An Tức quê Ngài An Thế Cao, thuộc Tây vức). Hòa thượng là người giám hộ trực tiếp cho đệ tử. Có
3 bậc Hòa thượng:
1. Hòa thượng thế độ.
2. Hòa thượng truyền giới.
3. Hòa thượng y chỉ.
Hòa thượng đủ tư cách truyền giới và làm thầy cho người khác phải có những điều kiện sau đây:
1. Phải đủ 10 hạ lạp.
2. Biết trì, phạm, khinh, trọng.
3. Có kiến thức quảng bác.
4. Giảm được những tâm tư uẩn khúc trong tâm đệ tử.
5. Đủ sức đưa đệ tử lầm lạc trở về với chánh pháp, hay giải thích cho đệ tử để phá trừ những kiến chấp sai lạc.
68. Y chỉ.
Nếu
Bổn sư tịch thì có thể xin y chỉ thầy khác Hoặc thầy bỏ đạo hoàn tục, ra ngoại giới, không cùng giới với mình nữa; hoặc đệ tử có duyên cần đi chỗ khác ở chứ không ở cùng thầy nữa, thì có thể xin y chỉ với một thầy khác.
Trừ
trường hợp mình tự ý bỏ đi hay thầy không cho y chỉ mà bỏ đi, cũng có khi cả hai bên đều muốn xa nhau nhưng không thể công bố vì lý do nào đó,
thì có thể bên thầy hay trò ra khỏi ngoại giới một đêm cho đến khi bình
minh xuất hiện trở về, thế là mất y chỉ. Hoặc lên giới trường ngủ một đêm cũng mất y chỉ.
69. Nên học và không nên học.
Có 4 trường hợp:
1. Thầy có pháp, có thực. Pháp là giới, định, luệ. Thực là khất thực dễ dàng.
2. Thầy có pháp, không có thực: có dạy dỗ nhưng khất thực không dễ dàng.
3. Thầy có thực, không có pháp: khất thực dễ dàng nhưng không ai dạy dỗ.
4. Thầy không pháp, không thực: không có ai dạy dỗ và khất thực cũng không dễ dàng.
70. A-xà-lê.
A-xà-lê dịch là quỹ phạm sư, tức là vị thầy mô phạm, gương mẫu. Có 5 hạng A-xà-lê:
1. Thầy khi xuất gia, tức thầy cho mình xuất gia.
2. Thầy truyền Đại giới, làm kiết-ma thọ giới cho mình.
3. Thầy giáo thọ, làm giáo thọ cho mình thọ đại giới.
4. Thầy dạy kinh: dạy kinh cho mình dù chỉ là 4 câu kệ.
5. Thầy y chỉ: dù chỉ cho mình trong một đêm cũng là A-xà-lê.
Khi đệ tử đã thọ giới rồi thì phải học hỏi và thuyết giới.
71. Nguyên nhân thuyết giới.
Nguyên
do có sự thuyết giới là vì lúc đầu Phật chưa thuyết giới. nhưng ngoại đạo Phạm chí tập họp một tháng 3 lần để thầy trò tập hợp gặp gỡ sinh hoạt vui vẻ và tín đồ vui tụ cúng dường hoan hỉ. Vua Bình Sa thấy thế về
bạch Phật. Phật cho phép các Tỳ-kheo một tháng 2 lần gặp gỡ nhau. Lúc đầu vâng lời Phật, họ cũng nhóm họp, nhưng ai nấy đều ngồi thiền im lặng, bị cư sĩ chê. Phật bèn dạy ngồi lại thì phải nói pháp. Khi được phép nói pháp thì các Tỳ-kheo phải nói về kinh; khi nói kinh thì có người nói nghĩa không nói văn, người nói văn không nói nghĩa; người ngồi
tòa cao, kẻ thích tòa thấp; trong khi đó có người tham thiền, có người kinh hành, thậm chí có kẻ ngủ gục. Do đó không có sự thống nhất trong Tăng chúng, trong khi đó có một số tân Tỳ-kheo muốn học hỏi nhưng không có ai dạy dỗ, hướng dẫn. Phật biết và dạy các vị cựu Tỳ-kheo rằng, có nhiều tân Tỳ-kheo muốn học giới, vậy trong ngày đó phải thuyết giới cho họ nghe. Các Tỳ-kheo khi nghe Phật dạy thì mừng quá, vì nói kinh thì lại
cãi nhau về lý lẽ, ngồi thiền thì hay ngủ gục, thôi thì thuyết giới là gọn nhất.
72. Bố-tát.
Từ
đó chư Tăng, Ni mỗi tháng 2 lần thuyết giới, còn gọi là Bố-tát. Chữ Bố-tát dịch từ tiếng Phạn là Uposatha; nghĩa là ngày tịnh trú, trưởng dưỡng, trưởng tịnh. Ngày Bát-quan trai của cư sĩ cũng gọi là Uposatha.
73. Mục đích Bố-tát.
Mục
đích Bố-tát thuyết giới là nhắc nhở nhau về giới pháp để tu hành, gọi là trưởng tịnh. Tăng không An cư chỉ phạm tội Đột-kiết-la. Ni không tiền
An cư, phạm Đột-kiết-la, không hậu An cư phạm Ba-dật-đề . Như vậy đủ biết phạm điều không An cư không nặng bằng phạm các giới khác. Từ đó đã hình thành ra hai kỳ Bố-tát thuyết giới, nhưng trường hợp không Bố-tát được thì Luật phụ có ghi (luật chính không nói) thêm có thể trung gian Bố-tát.
74. Trung gian Bố-tát.
Nếu
có những nạn duyên xảy ra cho Tăng, không thể giữ đúng hạn kỳ Bố-tát thì có thể triển hạn, dời sang ngày khác. Những tai họa được kể là do vua quan đưa đến, do đạo tặc, do lửa, do nước, do bệnh, do người, do ma quỷ hay thú vật. Việc thuyết giới không tác pháp được trong hai ngày theo định kỳ chính thức mà thực hiện trong khoảng giữa hạn kỳ này với hạn kỳ sau, được gọi là trung gian Bố-tát. Trừ hai ngày chính thức Bố-tát trong tháng và một ngày trước và một ngày sau của hai ngày đó, những ngày còn lại gọi là trung gian. Ví dụ, nếu 15 âm lịch phải thuyết giới, nhưng do tai họa, phải dời qua ngày 17, 18... triển hạn lâu nhất là đến 28 hoặc 27 (nếu tháng thiếu). Nếu Bố-tát ngày 30 bị đình chỉ thì dời qua ngày mồng 2 và lâu nhất là đến 13. Việc thuyết giới không được tiến hành hai ngày liền nhau. Nếu hạn kỳ chót của ngày trung gian Bố-tát
chưa thực hiện được, thì việc thuyết giới định kỳ trước sẽ hợp lại làm một với định kỳ sau.
Trường
hợp chúng Tăng bất hòa mà Bố-tát thì bị Đột-kiết-la. Trong khi Bố-tát, có khách Tăng đến thì có thể dự. Nếu khách Tăng nói, chưa từng nghe giới, xin nói giúp. Trong khi mình thuyết giới gần xong, thì cứ thuyết cho xong rồi nói lại cho khách Tăng nghe, nhưng không yết-ma vấn hòa gì nữa. Thuyết giới xong có khách Tăng đến, nếu khách Tăng tùy hỉ thì thôi,
nếu không thì nên đem ra ngoại giới thuyết cho khách Tăng nghe, vì trong một giới trường không được thuyết hai lần cho một kỳ Bố-tát.
75. Cách thuyết giới.
Có 5 cách thuyết giới:
1. Khi gặp nạn chỉ thuyết bài tựa.
2. Chỉ thuyết đến phần trọng giới Ba-la-di.
3. Chỉ thuyết đến hết phần Tăng-tàn.
4. Chỉ thuyết đến hết phần bất định.
5. Thuyết trọn vẹn.
76. Già thuyết giới.
Nếu
có người muốn ngăn người khác thuyết giới, thì hỏi: đã đến bạch Thượng tọa chưa. Khi đến bạch, vị Thượng tọa hỏi: Thầy có đủ 5 pháp không mà muốn ngăn thuyết giới? 5 pháp là :
1. Ngăn cản cho đúng lúc, đúng thời (thời bất dĩ phi thời).
2. Chỉ nói sự thật (thật bất dĩ phi thật).
3. Việc ngăn đó có lợi ích không (lợi ích bất dĩ vô lợi ích). .
4. Phải nói lời dịu ngọt, êm ái, không hung tợn (nhu nhuyến bất dĩ thô khoáng).
5. Ngăn vì từ tâm, không phải ác tâm (từ tâm bất dĩ ác tâm).
Tóm
lại, muốn nêu lỗi phải đúng lúc, rằng chuyện đó là thật chứ không phải thêu dệt, có lợi cho người ta, phải nói lời ôn tồn dịu ngọt, do lòng từ tâm mà nói. Thượng tọa khuyên người ấy rằng, nếu thấy không đủ 5 đức thì
đừng ngăn. Nếu thầy nói tôi đủ 5 đức thì tiếp tục hỏi: Vậy đã bạch Trung tọa chưa?–Có. Vậy đã bạch Hạ tọa chưa? Có. Khi ấy hỏi tiếp: Người mà thầy muốn nêu lên là do phạm giới thuộc loại nào? Về kiến hay về oai nghi? Nếu do nghe, thấy thì do ai? Nơi nào? Nếu người kia không đáp được
thì khuyên thôi đi, thầy đừng bày chuyện phá Tăng nữa.
77. Không đủ tư cách ngăn thuyết giới.
Mặt khác, lrong bộ Căn bản Mục-đắc-ca nói: Có 12 hạng người không được ngăn thuyết giới, Bố-tát, Tự tứ là:
1. Người ngu: tức là người có ác tướng, ác ngôn, ác tác.
2. Người si: tức là người không có thọ trì Tam tạng.
3. Vô trí: không hiểu văn giáo của Tam tạng.
4. Không thiện xảo: tức không rõ nghĩa lý trong Tam tạng.
5. Vô tàm: người không có tâm hỗ thẹn.
6. Người có sự hiềm khích, tức trước đây đã hiềm khích lẫn nhau, thù oán với nhau, giờ thấy cơ hội, đem ra đấu đá lẫn nhau.
7. Người ở ngoại giới nói vọng vào can ngăn.
8. Người bị xả khí (ác bất kiến xả).
9. Người nói lộn xộn, không đầu đuôi.
10. Người xả oai nghi: đang đứng chỗ này chạy qua chỗ khác, lộn xộn.
11. Người thất bổn tánh: làm những việc không đáng làm, không biết tu giới tu luật.
12. Thọ học (học trò), người đang học không có quyền ngăn chặn kiết-ma.
78. Đủ tư cách ngăn thuyết giới.
Có 4 hạng người có quyền ngăn:
1. Người trú bổn tánh: Tức người biết tu giới, biết làm việc đáng làm, không làm việc không làm việc không đáng làm.
2. Người nói có thứ lớp, không rối loạn.
3. Người không xả oai nghi.
4. Người ở nội giới.,ở trong nội giới mới ngăn được, ở ngoại giới bất thành.
79. Triển ngày thuyết giới.
Ví
dụ: Ngày 15 âm lịch là ngày thuyết giới, nhưng có chúng Tỳ-kheo hay ưa gây gỗ từ nơi khác sắp đến thì phải dời lui một ngày thuyết giới, tức ngày 14. Ngày 14 họ tới thì lui ngày 13. Ngày 13 họ tới thì đem ra ngoài
giới kiết tiểu giới để thuyết giới. Đem ra ngoại giới mà cũng bị phá thì bạch chúng để kỳ sau. Kỳ sau cũng bị phá nữa thì phải cưỡng bức hòa hợp để thuyết giới.
80. An cư.
Lý do An cư? Có thể tóm lại trong 2 lý do:
–
Lý do thứ nhất, trong kinh Trường A-hàm nói: ông Đại-điển-tôn là tiền thân của Phật, thiên hạ khen ông là người đức hạnh, rằng ông là người đã
từng thấy Phạm thiên, nhưng kỳ thật ông chưa thấy. Do lời thiên hạ khen
nên ông nảy ra ý định An cư để cho thật thấy Phạm thiên.
–
Lý do thứ hai, là khi đức Thế Tôn ở Xá-vệ, trong vườn ông Cấp-cô-độc, nghe lời than phiền của các cư sĩ về Lục quần Tỳ-kheo cứ đi lang bạt kỳ hồ trong thiên hạ, không kể ngày tháng giờ giấc gì hết, nên bị thiên hạ cơ hiềm. Các vị cư sĩ so sánh rằng, ngoại đạo cũng có 3 tháng An cư, cũng như loài cầm thú cũng biết thời gian tránh mưa, trái lại sao mấy thầy Tỳ-kheo đệ tử của Phật lại đi lung tung, không biết nghỉ ngơi gì cả, lại đạp côn trùng chết lăn chiên đỏ đất. Họ cơ hiềm chê bai. Do cơ hiềm như vậy nên Phật dạy phải An cư ba tháng.
Vậy
An cư nghĩa là gì? An là an tịnh nội tâm, còn cư là kỳ hạn cư trú trong
suốt thời gian nhất định nào đó. Đến ngày An cư, nếu là Tỳ-kheo thì bắt
buộc ai cũng phải thọ An cư hết. Bên Trung Hoa, ngày xưa đến ngày An cư, họ còn áp dụng tới mức độ phát thẻ hành trù tức thẻ phát ra cho từng
người rồi thâu lại, đếm trên số thẻ để biết hiện có bao nhiêu người An cư. Cho đến Phật và hộ pháp họ cũng phát thẻ luôn. Như vậy, người nào có
mặt, dù lớn dù nhỏ đến ngày ấy cũng phải An cư, thậm chí họ còn mời luôn Phật và hộ pháp cũng phải An cư và phát thẻ. Đó là tư cách và bổn phận của người tu sĩ.
81. Tiền An cư - hậu An cư.
Trong
phép An cư thì ai cũng phải thọ An cư nếu là Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni, đệ
tử của Phật. Thọ An cư cũng như thọ giới, mỗi người tự mình nói lên, hoặc ba người tự nói lên trước một vị Tỳ-kheo Thượng tọa để thọ An cư. Nếu tiền An cư thì bắt đầu từ 16 tháng tư âm lịch và hậu An cư từ những ngày 17 tháng 4 đến 16 tháng 5 âm lịch. Dù hậu An cư cũng phải theo
ngày tiền An cư mà Tự tứ, nhưng Tự tứ rồi phải ở trong hạ cho đủ 90 ngày rồi mới ra hạ, mặc dầu theo tiền An cư mà Tự tứ.
82. Thọ nhật.
Thọ
nhật tức là trong 3 tháng An cư mà có duyên sự phải ra ngoài đại giới. Nếu thọ nhật thì chỉ được phép thọ nhật 7 ngày. Thọ nhật bảy ngày thì chỉ đối thú với một người trong chúng mà nói: Thưa Đại đức, tôi có việc nọ việc kia, phải ra khỏi đại giới 7 ngày, xong 7 ngày trở về, khi về cũng phải báo lại. Nếu trường hợp chưa đến 7 ngày mà trở về, khi về cũng
phải báo. Trường hợp đi trên 7 ngày thì phải bạch Tăng chứ không đối thú cá nhân nữa, và chỉ được đi ra khỏi đại giới trong mùa An cư tối đa 40 ngày thôi. Thí dụ An cư 90 ngày, phải có 50 ngày ở trong đại giới, kiết hạ thì mới khỏi mất hạ. Xin đi 7 ngày mà đi quá 7 ngày cũng mất hạ.
Khi có các nạn xứ, phòng xứ, có duyên sự xin đi nơi khác, tại đó có An cư mà mình tiếp tục An cư ở đó thì không mất hạ. An cư xong rồi, phải chấm dứt An cư bằng lễ Tự tứ.
83. Tự tứ.
Phạn
tự Pravarana, Trung Hoa dịch âm Bát-hòa-la, nghĩa là Tự tứ. Kinh Vu-lan
gọi Bát-hòa-la phạn tức là cơm cúng dường trong ngày Tự tứ. Tự tứ cũng còn gọi là thỉnh thỉnh hay tùy ý: Nghĩa là mình tự nói lên lời yêu cầu người khác chỉ lỗi cho mình theo chỗ thấy, nghe, nghi của họ để mình nếu
có đúng như họ thấy, nghe, nghi thì xin sám hối cho thanh tịnh. Trong khi thuyết giới có hỏi câu: “Chư Đại đức có thanh tịnh không” thì mình mới trả lời, còn trong khi Tự tứ, không đợi hỏi mà phải nói ra, để yêu cầu người khác tự do nói lên lỗi của mình, và mình nếu có lỗi thì sám hối một cách vui vẻ Câu Tự tứ như vầy: “Đại đức nhất tâm niệm, hôm nay chúng Tăng Tự tứ, tôi Tỳ kheo... cũng Tự tứ. Nếu Đại đức thấy, nghe hoặc
nghi tôi có tội, xin Đại đức chỉ cho, tôi nếu thấy có tội, sẽ như pháp sám hối” (nói ba lần).
Lúc
đầu Phật chế luật An cư cho các Tỳ-kheo, nhưng có các Tỳ-kheo nói với nhau: Thôi, cả năm mình nói nhiều rồi, nay An cư chỉ làm thinh. Trong suốt mùa An cư, chỉ lấy tay ra dấu thôi. Họ đồng ý với nhau như vậy, nên
tất cả đều im lặng. An cư xong về hầu Phật, Phật hỏi: An cư có vui vẻ không, có hòa hợp không? Mọi người cho biết, trong mùa An cư này, họ chỉ
im lặng, không nói gì cả, chỉ ra dấu thôi. Phật nói: Phải tương giáo, tương giới, sám hối thanh tịnh, an lạc, chứ làm vậy thành như dê câm, không được. Khi Phật cho phép như vậy thì Lục quần Tỳ-kheo cứ đi chỉ lỗi
của người khác lộn xà ngầu lên hết, bị Phật quở. Phật nói rằng, muốn chỉ lỗi người khác phải đủ năm đức.
84. Cầu thính.
Trước
khi chỉ lỗi cho ai phải cầu thính, tức báo cho họ biết mình sẽ nói lỗi của họ ra trước Tăng. Nghe vậy, lục quần Tỳ-kheo đi cầu thính lung tung hết, gặp ai cũng cầu thính. Đến khi người khác đến cầu thính để chỉ lỗi các ông thì các ông đi lơ, tránh không cho cầu thính. Khi không lơ được thì nhận lời. Nhưng đến giờ thuyết giới thì không đến. Chư Tăng cũng chịu, không biết làm sao! Do đó, Phật nói trong trường hợp mãn ba tháng An cư trong ngày Tự tứ không có cầu thính, mà phải mỗi người tự nói lời cầu thính người khác chỉ lỗi của mình, để mình biết mà sám hối cho thanh
tịnh. Trong Tự tứ phải thực hiện phép đối thú Tự tứ. Ai cũng phải An cư
và ai cũng phải đối thú hết. Có hai cách đối thú:
1. Trước hết vị chủ pháp sự cầu Tự tứ với vị Tăng sai thọ Tự tứ.
2.
Sau đó vị Tăng sai thọ Tự tứ đối thú với vị chủ pháp sự mà Tự tứ. Sau đó các vị này đến trước mỗi vị Tăng khác để cho họ Tự tứ, cho đến khi hết người cầu Tự tứ.
Như vậy, người thọ Tự tứ (nhận Tự tứ) thì phải có năm đức:
1. Bất ái, là không thương yêu, thiên vị.
2. Bất nhuế, là không hiềm khích, oán hận gì hết.
3. Bất bố, là không sợ. Thầy có lỗi tôi nói mà không sợ thầy oán trách.
4. Bất si, là biết chính xác, rõ ràng chứ không phải u mê; phạm biết phạm, không phạm biết không phạm.
5. Biết ai Tự tứ rồi và ai chưa Tự tứ.
Khi
Tự tứ, chúng Tăng phải đủ năm người trở lên, nếu chỉ có bốn người thì chỉ đối thú Tự tứ, chứ không kiết-ma Tăng sai người Tự tứ. Về Tự tứ có 4
trường hợp: Định kỳ Tự tứ, Tăng ích Tự tứ, Giảm nhật Tự tứ, Tăng thượng
Tự tứ.
1. Thế nào là định kỳ Tự tứ? Đó là đủ ba tháng An cư thì Tự tứ, hay còn gọi là Chánh kỳ Tự tứ.
2.
Thế nào là Tăng ích Tự tứ? Nếu như chúng Tăng tu trong ba tháng, thấy có ích mà muốn tu tiếp tục thêm một tháng nữa rồi mới Tự tứ xuất gia, gọi là Tăng ích.
3.
Giảm nhật Tự tứ: Nếu nghe có chúng Tăng ở trú xứ khác sắp đến quấy rầy thì giảm đi một ngày mà Tự tứ. Thay vì ngày 15 bây giờ 14. Nếu giảm không được thì họ đã vô nội giới rồi, thì tìm cách ra hiệu cho nhau ra ngoài giới kiết-ma Tự tứ.
4.
Tăng thượng Tự tứ: Nếu ra ngoài giới kiết-ma Tự tứ cũng không được, thì
lui ngày 30 kỳ sau một kỳ để Tự tứ. Đến ngày 30 không Tự tứ được thì lui đến ngày 15 tháng sau nữa Tự tứ. Nếu lui như thế mà không được nữa thì bắt buộc phải cưỡng bức hòa hợp Tự tứ.
85. Y đệ ngũ Luật sư trì luật.
Thế nào là đệ ngũ Luật sư?
1. Vị Tỳ-kheo nào đọc thuộc giới bổn từ đầu đến 30 xả đọa, thì gọi là đệ nhất Luật sư.
2. Vị Tỳ-kheo nào đọc thuộc giới bổn từ đầu đến Ni-tác-kỳ Ba-dật-đề, gọi là đệ nhị Luật sư.
3. Vị Tỳ-kheo nào đọc thuộc toàn cả giới bổn, gọi là đệ tam Luật sư.
4. Vị Tỳ-kheo nào đọc thuộc Nhị bộ luật (cả bên Tăng và bên Ni) gọi là đệ tứ Luật sư.
5.
Vị Tỳ-kheo nào đọc thuộc Nhị bộ luật và thông hiểu rộng rãi, thì người An cư y theo vị đệ ngũ Luật sư này để trì Luật, gọi là đệ ngũ Luật sư.