Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Bốn Mươi: “Giống Như Mộng” Của Nam Tuyền

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15249)
Tắc thứ Bốn Mươi: “Giống Như Mộng” Của Nam Tuyền

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BỐN MƯƠI

“GIỐNG NHƯ MỘNG” CỦA NAM TUYỀN

 

THÙY: Ngưng đi ngỉ đi, cây sắt trổ hoa. Có không có không? Trẻ khôn mất nhịp. dù cho tung hoành ngang dọc cũng khó không bị xỏ mũi. Thử nói xem sai lầm ở chỗ nào? Xin nêu lên xem.

CỬ: Lục Hoàn đại phu lần kia nói chuyện với Nam Tuyền, nói rằng, “Triệu pháp sư nói, ‘Trời đất với mình đồng căn, vạn vật với mình một thể’ kể cũng kỳ quái thật” Nam Tuyền chỉ vào đóa hoa ngoài sân, rồi gọi Lục đại phu mà nói rằng, “Người bây giờ thấy đóa hoa này giống như thể một giấc mộng vậy.”

BÌNH: Lục Hoàn đại phu học với Nam Tuyền rất lâu.Bình thường hay lưu tâm nơi lý tính và đắm mình trong bộ Triệu Luân[17]. Một hôm đang nói chuyện với Nam Tuyền bèn nêu lên hai câu kia cho là kỳ đặc. Lục đại phu nói, “Trời đất với mình đồng căn, vạn vật với mình một thể, kể cũng kỳ quái thật.” Triệu Pháp Sư là bậc cao tăng đời nhà Tấn, cùng với Đạo Sinh, Đạo DungTăng Duệ là môn hạ của ngài La Thập[18], được người đương thời gọi là “ tứ triết.” Thuở còn nhỏ thích đọc Lão Trang, sau đó nhân lúc chép bản Kinh Duy Ma cũ mà có chỗ sờ ngộ. Mới biết rằng cái học của Lão Trang chưa phải là cái thiện cứu cánh. Cho nên mới tông hợp các kinh điển mà viết ra bốn thiên luận.[19]

Cái ý của triết học Lão Trang là “ cái hình thể của thiên địa là lớn, cái hình thể của mình cũng thế; cùng sinh ra ở giữa hư vô. Cái ý của Trang Tử là chỉ luận về “tề vật”;[20] Đại ý của các thiên luận của Triệu ông nói rằng tính (của sự vật) đều qui về chính mình. Há không thấy trong luận của ngài có nói rằng, “phàm bậc chí nhân thì trống không, không hình tướng, song vạn vật không cái gì không phải do mình tạo ra. Phải chăng chỉ có bậc thánh nhân mới hiểu được rằng vạn vật là chính mình. Tuy có thân, có người , có hiền, có thánh, mỗi cái khác nhau, song tất cả đều cùng một tính một thể.

Cổ nhân nói, “Tất cả càn khôn đại địa chỉ là một tư thể của mình mà thôi. Khi lạnh thì cả trời đất lạnh, khi nóng thì cả trời đất nóng. Có thì cả trời đất có, không thì cả trời đất không. Đúng thì cả trời đất đúng, sai thì cả trời đất sai.” Pháp Nhãn nói, “Hẳn hắn hắn tôi tôi tôi, nam bắc đông tây đều được, được hay không được , chỉ có tôi không gì không được.” Cho nên (đức Phật) mới nói,”Trên trời dưới trời chỉ có mình ta là tôn quí.”[21] Thạch Đầu đọc bộ, Triệu luận đến chỗ “vạn vật là chính mình” bèn hoát nhiên đại ngộ. Sau đó soạn cuốn Tham Đồng Khế cũng không ngoài ý này.

Xem (Lục đại phu) hỏi như thế, thử nói xem họ đồng căn ở chỗ nào? Đồng thế ở chỗ nào? Đến chỗ này rồi, kể ra cũng kỳ đặc hết sức. Há lại giống như kẻ tầm thường không biết trời cao đất dầy? Làm gì có chuyện đó. Lục Hoàn đại phu hỏi như thế, tuy có kỳ đặc thật, song vẫn chưa vượt ra khỏi được giáo ý. Nếu như bảo rằng giáo ý là cùng cực rồi, Thế Tôn việc gì còn phải niêm hoa nữa?[22] Và Tổ Sư từ Tây Trúc đến để làm gì?

Cách đáp của Nam Tuyền, nắm mũi của sư tăng mà đưa chỗ đầu ra, để phá vở các hang hố của người khác. Cho nên mới bèn chỉ đóa hoa ngoài sân rồi gọi Lục đại phu mà nói rằng, “ Người bây giờ thấy đóa hoa này giống như thể một giấc mộng vậy. “Giống như đặt một người ra bờ vách cao vạn trượng rồi đẩy hẳn một cái để cắt đứt mạng sống của hắn. Nếu như các ông chỉ bị xô ngã trên đất bằng, thì dù có đến lúc Di Lặc hạ sinh đi nữa cũng không biết cách cắt đứt mạng sống.[23]

Cũng giống như một người nằm mộng, muốn tỉnh mà không tỉnh được, lúc được người khác gọi mới tỉnh được.Nếu như mắt của Nam Tuyền mà không ngay chính hẳn đã bị Lục đại phu làm cho lúng túng rồi. Nhìn xem Nam Tuyền nói như thế, song quả thật là khó hiểu. Nếu như mắt của các ông sống động, thì các ông sẽ thấy nó như thể độc dược. Cổ nhân nói, “Nếu như thấy ở nơi sự việc thì nó rất là thường tình, còn nếu như dựa vào ý căn mà so đo thì chẳng rờ rẫm ra được.” Nham Đầu nói, “Đây chính là cách sống của bậc hướng thượng, chỉ để lộ ra trước mắt một chút thôi, giống như thể điện chớp.”

Đại ý của Nam Tuyền là như thế , Sư có khả năng bắt cọp tê xử rồng rắn. Đến chỗ này rồi, các ông cần phải tự hiểu một mình mới được. Há không nghe nói, “Một đường hướng thượng, ngàn thánh không truyền, kẻ học mệt nhọc, như khỉ bắt bóng.” Xem Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Kiến văn giác tri không phải một,

Núi sông không phải quán trong gương,

Trơi sương trăng rụng đêm gần nửa,

Ai cùng hồ trong soi bóng lạnh.

BÌNH: Lời nói mê nhỏ của Nam Tuyền, lời nói mê lớn của Tuyết Đậu, tuy họ nằm mơ, song mơ một giấc mơ thật là đẹp. Thoạt đầu nói về “một thể” , ở đây thầy ta nói không phải là đồng nhất. “Kiến văn giác tri không phải một, Núi sông không phải quán trong gương.” Nếu như bảo rằng phải quán trong gương trước rồi sau đó mới hiện rõ, thì chúng đâu có rời chỗ của gương. Sơn hà đại địa, cây cỏ rừng rậm, đừng lấy gương ra mà soi. Nếu như lấy gương ra soi, thì chúng bèn biến thành hai phần. Cứ để cho núi là núi sông là sông, mọi vật trụ nơi vị của mình. Thế gian tướng thường trụ.

“Núi sông không phải quán trong gương”. Thử nói xem phải quán ở chỗ nào? Các ông có hiểu không? Đến chỗ này rồi, các ông phải hướng về “trời sương trăngrụng đêm gần nửa.” Phía này đã biện rõ cho các ông cả rồi, phía bên kia các ông phải tự qua một mình. Các ông có biết được là Tuyết Đậu đem việc riêng của mình ra mà giúp người khác chăng? “Ai cùng hồ trong soi bóng lạnh.” Soi một mình hay là cùng soi với người khác? Phải cắt đứt hết cơ duyên hết hiểu biết thì mới đạt đến cảnh giới này được. Hiện giờ chẳng cần hồ trong mà cũng chẳng phải đợi trời sương trăng rụng. Hiện giờ thì như thế nào?
 
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Nhất Túc Giácbiệt hiệu của Vĩnh Gia

[2] .Nguyên văn: “nhất cú tiệt lưu” có nghĩa là một câu cắt đứt hết mọi dòng tư tưởng.

[3] Nguyên tác là chữ “hằng”, sửa lại là chữ “vi” cho đúng. Đoạn này bản của Ito Yuten khác hẳn. Chúng tôi dựa theo bản của Cổ Phương.

[4] Nguyên văn: “ hoàng quyển xích trục.” Sách vở đời xưa đều viết bằng lụa rồi lấy trục cuộn lại. Cho nên “quyển trục” có nghĩa là sách vở.

[5] Phi phi tưởng thiên: Vô sắc giới có tứ thiên, phi phi tưởng thiên chính là đệ tứ thiên trong đó. Đây là cõi trời cao nhất trong tam giới, sở dĩ có tên như vậy là do lấy thiền định mà gọi. Định tâm ở cõi này thì hết sức tinh diệu, khác với các thô tường nơi hạ điạ. Xin xem them: Randy Kloetzli, Buddhist Cosmology.New Delhi, 1983.

[6] Mục Châu (780-877), xin xem tắc thứ mười. Về tiểu sử xin xem thêm trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục,cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[7] Nguyên văn: “ngôn trung biện đích, cú lý tang cơ.”

[8] Văn Thù (Manjusrì) là biểu tượng của trí huệ.

[9] Vô Trước tức Hàng châu Vô Trước Văn Hỉ thiền sư là người truyền thừa của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch.

[10] Mạt pháp; Theo truyền thống phật giáo thì Phật pháp có bà thời kỳ là chính, tượng và mạt pháp. Truyền thống thường được chấp nhận nhất là: chính pháp có năm trăm năm, tượng pháp có một ngàn năm và mạt pháp có một vạn năm.

[11] “Trước ba ba, sau ba ba.”

[12] Nguyên văn: “ Nhất cú bất hoảng Vô Trước vấn , ngất kim do tác dã ban tăng” có nghĩa là “ một câu không đủ rảnh để đáp câu hỏi của Vô Trước, cho đến hiện giờ (thầy ta) vẫn là một ông tăng lang thang.” Welhelm Gundert dịch câu này rất là chính xác: “ Der hat sich mit seinem Spruch uberhaupt nicht Zeit gelassen, auf Wudscho’s Frage einzugehen.Erist noch bis zum heutigen Tag ein vagabundierender Monch.” Wilhelm Dundert, Bi-Yan-Lu 2.Band.Munchen,1967,trang 48.

[13] Sách Ngũ Đăng Hội Nguyên cũng nói rằng Bàn Sơn Bảo Tích Thiền Sư là người U Châu, nối Pháp của Mã Tổ Đạo Nhất. Sau khi tịch thụy là Ngưng Tịch Thiền Sư. về tiểu sử của Bàn Sơn xin xem thêm trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[14] Có nghĩa là “trong tam giới (dục, sắc và vô sắc giới) không có một pháp nào cả, biết tìm tâm ở đâu?”

[15] “Hồ” có nghĩa là Ấn Độ.

[16] Tức là “thế tục đế” (samvrtisatya) hay “ thực tại công ước.”

[17] Triệu Luân là tên bộ sách của Tăng Triệu, sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ IV cho đến đầu thế kỷ thứ V.

[18] La Thập tức Cưu Ma La Thập ( Kumarajìva), một trong những dịch giả lừng danh nhất của văn học Phật giáo. Về tiểu sử của La Thập xin xem Kenneth Ch’en, Buddhism in China.Princeton: Princeton University Press, 1964, các trang 81-83.

[19] Bốn thiên luận trong bộ Triệu Luận là (a) “ Vật Bất Thiên”, (b) “ Bất Chân Không”, (c) “ Bát Nhã VÔ Tri”, và (d) “ Niết Bàn Vô Danh”.

[20] “Tề vật” có nghĩa là coi mọi sự vật bằng nhau. Đây là một quan niệm trong thiên” Tề Vật Luận” Trong sách Trang Tử.

[21] Theo truyền thống lúc Đức Phật mới sinh ra, đứng lên bước đi bảy bước rồi nói rằng; “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.”

[22] “Niệm hoa”: theo truyền thống Thiền thì một lần kia Đức Phật bước lên giảng tòa để thuyết Pháp, song ngài lại lại không nói gì cả mà chỉ cầm một nhánh hoa dơ lên. Chúng hội không ai hiểu gì cả, chỉ có mình ngài Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật bèn trao truyền tâm ấn cho ngài Ca Diếp làm vị Tổ thứ nhất.

[23] Ở đây có nghĩa là cắt đứt dòng tư tưởng chấp trước.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33160)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6536)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11254)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30392)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7967)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12168)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12238)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11585)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12792)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34731)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52253)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10729)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10498)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10699)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10458)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13065)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16250)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21823)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9607)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7111)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10381)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12765)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16217)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16516)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13843)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16565)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12099)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13792)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14308)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9189)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11735)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11251)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16287)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16189)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12687)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12073)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11792)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15653)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12001)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12617)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14986)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11953)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13122)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14522)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20671)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13208)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10933)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20683)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14342)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20360)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17647)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14008)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31851)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12011)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant