Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Sáu Mươi Chín: Nam Tuyền Bái Trung Quốc Sư

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15581)
Tắc thứ Sáu Mươi Chín: Nam Tuyền Bái Trung Quốc Sư

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI CHÍN

NAM TUYỀN BÁI TRUNG QUỐC SƯ

 

THÙY:Không có chỗ nào để gậm cắn: Tâm ấn của Tổ Sưhình dáng như bộ máy của con trâu sắt. Vượt qua rừng gai góc, kẻ nạp tăng giống như thể một hòn tuyết trên lò lửa. Việc dìu đục trên đất bằng tạm gác qua một bên. Không rơi vào những cơ duyên rối rấm thì như thế nào? Thử nêu lên xem.

CỬ: Nam Tuyền, Qui Tông và Ma Cốc cùng đi tham bái Trung Quốc Sư. Đến nữa đường Nam Tuyền vẽ một vòng tròn trên mặt đất rồi nói,” Nếu như các ông nói được thì chúng mình tiếp tục đi.” Qui Tông ngồi xuống trong vòng tròn. Ma Cốc thì cúi chào theo kiểu đàn bà. Nam Tuyền nói, ”Như vầy thì thôi chẳng đi nữa.” Qui Tông nói, “Đó là tâm hành gì vậy?”

BÌNH: Lúc ấy Mã Tổ đang thịnh hóa ở Giang Tây, giáo lý của Thạch Đầu thì đang xiển dương ở Hồ Sương, còn giáo lý của Trung Quốc Sư thì hưng hóa ở Trường An.Trung Quốc Sư từng đích thân gặp Lục Tổ. Lúc ấy không có ai ở phương nam mà lại không munố thăng đường nhập thất ở chỗ của Trung Quốc Sư; nếu không được như thế thì sẽ bị nhục với thiên hạ.

Ba lão hán này muốn đi tham bái Trung Quốc Sư, đến giữa đường lại làm nên một màn thối chí này. Nam Tuyền nói, “Như vầy thì thôi chẳng đi nữa.” Nếu như ai cũng đã nói được rồi, tại sao bảo không đi nữa.” Nếu như ai cũng đã nói được rồi, tại sao lại bảo không đi nữa? Thử nói xem, ý của vị cổ nhân này như thế nào? Lúc thầy ta nói, “ Như vầy thì thôi chẳng đi nữa,’ cứ tát tai cho thầy ta ngay một cái, để thầy ta dở trò gì ra? Từ xưa đến nay chống đỡ tông môn lại chỉ là những cái nhỏ nhặt này mà thôi. Cho nên Từ minh nói, “Nếu muốn cầm giữ thì phải nắm chặt giây cương.” Xô đẩy thì nó xoay tròn, giống như thể trái bầu trên mặt nước. Nhiều người nói rằng lời của Nam Tuyền là lời phủ nhận, đâu có biết rằng việc này một khi đạt đến chỗ cực tắc, cần phải lìa bùn lìa nước, bạt chốt nhổ đinh. Nếu như các ông dùng tâm hành mà hiểu thì chẳng có gì là nhằm nhò cả.Cổ nhân chuyển biến rất khéo; đến chỗ này rồi không thể không như thế. Cần phải có sát có hoạt. Nhìn xem một người trong họ ngồi xuống trong vòng tròn, một người nữa thì cúi chào theo kiểu đàn bà. Điều ấy cũng rất là hay. Nam Tuyền nói, “Như vầy thì thôi chẳng đi nữa.” Qui Tông nói, “Đó là tâm hành gì vậy?” Gã lẩm cẩm này rốt cuộc cũng thế mà thôi. Ý của qui Tông là để thử thách Nam Tuyền. Nam Tuyền bình thường hay nói, “Gọi là như như là nó đã thấy đổi rồi.” Nam Tuyền, Qui Tông , Ma Cốc rốt cuộc là người trong một nhà: Một nắm, một buông, một sát, một hoạt. Quả thật là kỳ đặc.

TỤNG:

Tên Do Cơ bắn khỉ,

Vòng cây trực tiếp sao!

Ngàn kẻ và vạn kẻ,

Có ai từng bắn trúng?

Kêu nhau gọi nhau quay về thôi,

Trên lối Tào Khê dừng bước chân.

Lại nói, “Lối Tào Khê bằng Phẳng. Tại sao lại dừng bước chân?”

BÌNH: “Tên Do Cơ bắn khỉ, vòng cây trực tiếp sao!” Do Cơ là người đời Sở, họ Dương tên Thực, tự là Do Cơ. Có lần Sở Trang Vương đi săn, thấy một con khỉ trắng, sai người bắn nó. Con khỉ chụp lấy mũi tên mà chơi rỡn. Trang Vương sai các quần thần bắn nữa, song chẳng ai bắn trúng cả. Trang Vương bèn hỏi các quần thần, quần thần tâu rằng, “do Cơ mới là tay thiện xạ.” Trang Vương bèn sai Do Cơ bắn. Do Cơ vừa dương cung, con khỉ đã ôm lấy thân cây mà kêu lên một cách bi ai. Lúc mũi tên bắn ra, con khỉ chạy vòng quanh cội cây để tránh. Mũi tên cũng bay vòng theo cội cây rồi trúng và giết chết con khỉ. Đây đúng là mũi tên thần. Tại sao Tuyết Đậu lại bảo là quá trực tiếp? Nếu như mũi tên đã bay vòng thì hẳn đã không trúng con khỉ rồi. Đằng này mũi tên đã bay vòng theo cội cây, tại sao Tuyết Đậu lại bảo là quá trực tiếp? Tuyết Đậu mượn ý này mà sử dụng một cách hết sức là khéo léo. Chuyện này có ghi lại trong sách Xuân Thu. Có người bảo rằng bay vòng theo cội cây là viên tướng. Nếu hiểu như vậy, quả thực là không hiểu tông chỉ của lời nói, không hiểu cái trực tiếp nằm ở chỗ nào. Ba lão hán thù đồ mà đồng qui, đều trực tiếp như nhau cả. Nếu như các ông biết được cho họ đi, thì cố tung hoành ngang dọc đi nữa cũng chẳng rời đến gang tấc. Trăm sông chảy riêng, song đều đổ ra biển lớn. Cho nên Nam Tuyền mới nói, “Như vầy thì thôi chẳng đi nữa.” Nếu như các ông nhìn với con mắt chính đáng của nạp tăng thì đây chỉ là trò ma quỉ, song vừa gọi là trò ma quỉ thì nó lại không còn là trò ma quỉ nữa. Ngũ Tổ nói, “Ba người ấy là Huệ Cự Tam Muội, Trang Nghiêm Vương Tam Muội.” Ma Cốc tuy là vái chào theo kiểu đàn bà, song lại chẳng hiểu đó là vái chào theo kiểu đàn bà. Nam Tuyền tuy là vẽ một vòng tròn, song lại chẳng hề coi đó là vẽ một vòng tròn. Đã không hiểu như thế , thì phải hiểu như thế nào? Tuyết Đậu nói, “Ngàn người vạn người, có ai từng bắn trúng?” Có được mấy kẻ bách phát bách trúng?

“Kêu nhau gọi nhau quay về thôi.” Đây là để tụng lời Nam Tuyền nói, “Như vậy thì thôi chẳng đi nữa.” Nam Tuyền từ đó không đi nữa cho nên mới nói, “Trên lối Tào Khê dừng bước chân.” Phá hết rừng gai góc. Tuyết Đậu không nắm vững được, cho nên lại nói tiếp, “Lối Tào Khê bằng phẳng, tại sao lại dừng bước chân?” Lối Tào Khê tuyệt trần tuyệt tích, lồ lộ rờ rỡ bằng phẳng êm đềm. Tại sao dừng bước chân? Các ông mọi người hãy tự quán sát bước chân của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33284)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6554)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11303)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30416)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30444)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7992)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12213)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12268)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11615)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12845)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34801)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9857)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52278)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10760)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10534)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10726)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16302)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21860)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9633)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7134)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12777)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12803)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16244)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16544)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13875)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16609)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12139)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13843)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14337)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9223)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11766)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11287)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16349)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14364)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16209)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12095)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11803)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15679)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11525)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14029)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12023)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15003)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11970)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13140)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14565)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20736)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13245)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10972)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20723)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14377)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17673)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31867)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant