Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Tám Mươi Chín: Tay Và Mắt Của Đại Bi Bồ Tát

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15239)
Tắc thứ Tám Mươi Chín: Tay Và Mắt Của Đại Bi Bồ Tát

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI CHÍN

TAY VÀ MẮT CỦA ĐẠI BI BỒ TÁT

 

THÙY: Toàn thân là mắt cũng chẳng thấy. Toàn thân là tai nghe chẳng được. Toàn thân là miệng nói không được. Toàn thân là tâm chiếu không được. Tạm gác qua vấn đề “toàn thân” nếu như hốt nhiên không có mắt, làm sao các ông thấy được đây? Không có tai làm sao nghe được đây? Không có miệng , làm sao nói được đây? Không có tâm, làm sao chiếu được đây? Nếu như ở đây mà các ông có thể khai mở ra được một con đường, các ông có thể đồng tham học với các cổ Phật. Tạm gác vấn đề “ tham học” qua một bên, các ông tham học với ai đây?

CỬ:Vân Nham hỏi Đạo Ngô, “Từ Bi Bồ Tát dùng nhiều mắt và tay như thế để làm gì?” Đạo Ngô nói, “Giống như người nửa đêm đưa tay ra sau lưng để tìm gối.” Vân Nham nói, “ Tôi hiểu rồi”. Đạo Ngô nói, “Ông hiểu như thế nào?” Vân Nham nói, “Toàn thân là tay với mắt.” Đạo Ngô nói, “Ông nói hết sức là xít xao, song lại chỉ mới nói được có tám phần.” Vân Nham nói, “Thế theo sư huynh thì như thế nào?” Đạo Ngô nói, “Khắp thân là tay với mắt”

BÌNH: Vân Nham và Đạo Ngô cùng tham học với Dược Sơn. Suốt bốn mươi năm Vân Nam chẳng bao giờ ngủ nằm. Tào Động tông chính là phát xuất từ Dược Sơn. Đạo Pháp thịnh hành từ ba người: Từ Vân Nham phát xuất ra Đông Sơn, từ Đạo Ngô phát xuất ra Thạch Sương, từ Thuyền Tử phát xuất ra Giáp Sơn. Đại Bi Bồ Tát (Quán Thế Âm) có tám vạn bốn ngàn cánh tay Đại Bi Bồ Tát có nhiều tay và mắt như thế. Các ông có chăng? Bách Trượng nói, “Tất cả ngữ ngôn văn tự đều uyển chuyển quay về nơi chính mình.”

Vân Nham thường theo Đạo Ngô tham khảogiải thích. Một hôm Vân Nham hỏi Đạo Ngô, “Từ Bi Bồ Tát dùng nhiều mắt và tay như thế để làm gì?” Ngay từ đầu lẽ ra Đạo Ngô phải quất cho Vân Nham một gậy ngay trên sóng lưng có phải là đã tránh được biết bao nhiêu là dây dưa sau này không. Song Đạo Ngô vốn từ bi không thể làm như thế được, lại giảng giải kỹ càng cho Vân Nham mục đích muốn cho Vân Nham hiểu. Đạo Ngô nói, “Giống như người nữa đêm đưa tay ra sau lưng để tìm gối.” Lúc đêm sâu không ánh đèn đưa tay ra sau để tìm gối, thử nói xem mắt ở chỗ nào?

Vân Nham lập tức nói, “Tôi hiểu rồi.” Đạo Ngô nói, “Ông hiểu như thế nào?” Vân Nham nói, “Toàn thân là tay với mắt.” Đạo Ngô nói, “Ông nói hết sức là xít xao, song lại chỉ nói được có tám phần.” Vân Nham nói, “Thế theo sư huynh thì như thế nào?” Đạo Ngô nói, “ Khắp thân là tay với mắt.”

Thử nói xem” toàn thân là đúng” hay “ khắp thân” là đúng? Tuy có vẽ giống như bùn nát, song lại thánh thoát vô cùng. Người bây giờ hay hiểu theo thiên chấp nói rằng “ toàn thân” là sai, “khắp thân” mới là đúng. Họ chỉ lo nhai lại ngôn cú của cổ nhân mà thôi. Họ chết trong ngôn cú. Đây chỉ là những cái bất đắc dĩ phải sử dụng mà thôi. Người bây giờ thêm cước chú lập qui tắc, nói rằng nếu thấu được công án này là kể như khỏi cần tham học nữa. Lấy tay rờ rẫm khắp thân thể, rờ đèn đóm cột trụ, hiểu theo lối “khắp thân.” Nếu các ông hiểu theo lối này các ông làm bại hoại cổ nhân không phải là ít.

Cho nên mới có câu nói rằng, “thầy ta tham câu sống chứ không tham câu chết.” Cần phải tuyệt tình trần ý tưởng thánh thoát tự tại, các ông mới có thể hiểu được câu nói vể Đại Bi này.

Há không nghe Tào Sơn hỏi ông tăng, “ Lúc (Pháp thân) ứng vật hiện hình giống như bóng trăng trong nước thì như thế nào?” Ông tăng nói, “Giống như con lừa nhìn xuống giếng.” Tào Sơn nói, “Ông nói một cách hết sức xít xao, song lại chỉ mới nói được tám phần mà thôi.” Ông tăng nói, “Thế theo hòa thượng thì như thế nào?” Tào Sơn nói, “Giống như giếng nhìn con lừa.” Đây cũng cùng một ý với công án trên.

Nếu như các ông toan dựa vào ngôn ngữ để mà thấy, các ông chẳng bao giờ thoát ra khỏi bẫy rập của Đạo Ngô và Vân Nham được cả. Tuyết Đậu là bậc chuyên gia không còn chết trong ngôn ngữ nữa, lập tức tụng ngay rằng:

TỤNG

Toàn thân đúng,

Khắp thân đúng.

Niêm lên vẫn cách mười vạn dặm

Tung cánh Bằng bay chín tầng mây.

Gây gió thổi tung nước bốn biển,

Bụi trần nào đó hốt nhiên sinh?

Cụm Lông nào hề vẫn chưa ngừng?

Há không thấy,

Lưới ngọc buông rủ ảnh chập chùng?

Đôi mắt đầu gậy từ đâu sinh?

Hét!

BÌNH: “Toàn thân đúng, khắp thân đúng.” Nói rằng đưa tay ra sau lưng mò gối là đúng, hay lấy tay rờ rẫm thân thể là đúng, nếu như có những kiến giải như thế, đều là vào hang ma mà sống cả. Rốt cuộc cả “toàn thân” lẫn “khắp thân” đều chẳng đúng. Nếu như các ông toan dùng tình thức để mà thấy ý nghĩa của lời nói vể Đại Bi Bồ Tát này, hẳng là các ông còn cách xa đến mười vạn dặm. Tuyết Đậu chơi được với một câu, cứu sống, nói rằng , “Niêm lên vẫn cách mười vạn dặm.”

Trong những câu kế tiếp Tuyết Đậu tụng chỗ kỳ đặc của Vân Nham và Đạo Ngô rằng, “Tung cánh Bằng bay chín tầng mây, gây gió thổi tung nước bốn biển.” Chim Bằng lớn nuốt cả rồng, dùng cánh mà gây gió nổi sóng; nước rẽ ra, từ ngoài ba ngàn dặm chim Bằng bất rồng mà nuốt. Tuyết Đậu nói rằng nếu như các ông gây gió nổi sóng được như chim Bằng, hẳn là các ông hết sức là hùng tráng.

Nếu dùng Đại Bi thiên thủ nhãn mà quán, việc ấy chỉ giống như một chút bụi trần nổi lên, lại cũng giống như một cụm lông bị gió thổi chưa ngừng. Tuyết Đậu nói, “ Nếu như các ông xem tay rờ rẫm thân thể là thủ nhãn thì đã có ích dụng gì nào?” Nói cho đúng như thế vẫn chưa nhằm nhò gì đến lời nói vể Đại Bi Bồ Tát kia. Cho nên Tuyết Đậu nói, “ Bụi trần nào hề hốt nhiên sinh? Cụm lông nào hể vẫn chưa ngừng?”

Tuyết Đậu tự nói mình là chuyên gia trong một lúc xóa hết các dấu vết. Song cuối cùng lại vẫn cứ lậu đậu như cũ, vẫn cứ so sánh tỉ giáo, cho nên vẫn còn vướng mắc trong bẫy rập như cũ. “Há không thấy, lưới ngọc buông rũ ảnh chập chùng?” Tuyết Đậu dẫn tích lưới ngọc của Đế Thích để làm phạm trù giáo lý. Thử nói xem rốt cuộc tay với mắt ngưng nghỉ ở chỗ nào?

Trong Hoa Nghiêm Tông lập tứ pháp giới: một là lý pháp giới, để giải inh nhất vị bình đẳng; hai là sự pháp giới, để giải minh rằng toàn thể lý (thể hiện) thành sự. Ba là lý sự vô ngại pháp giới, để giải minh sự lý tướng dung, lớn nhỏ vô ngại; bốn là sự sự vô ngại pháp giới, để giải minh rằng một sự thể nhập vào tất cả mọi sự, tất cả mọi sự khắp nơi thu nhiếp tất cả mọi sự, đồng thời giao tham vô ngại. Cho nên mới nói rằng, "Một hạt bụi vừa khởi lên là cả đại địa này gồm thâu trong đó, một hạt bụi hàm chứa vô biên pháp giới. Một hạt bụi như thế, các hạt bụi khác cũng đều như thế.”

Lưới ngọc này tức là trước Thiện Pháp Đường trên trời Đế Thích có một cái lưới ngọc. Trong mỗi một viên ngọc phản chiếu trăm ngàn viên ngọc, trăm ngàn viên ngọc đều hiện cả trong một viên ngọc, phản chiếu nhau chập chùng, chủ khách vô tận. Cái này dùng để giải minh sự sự vô ngại pháp giới. Ngày xưa Hiền Thủ Quốc Sư lấy những tấm gương và một ngọn đèn để làm ví dụ. Quốc Sư để mười tấm gương chung quanh rồi đặt ngọn đèn ở giữa. Khi nhìn một tấm gương ắt thầy chín tấm gương kia phản chiếu ngọn đèn, tất cả đều hiện lên rõ ràng. Nhìn bất cứ một tấm gương nào trong mười tấm gương ấy đều thấy như thế cả.

Cho nên đức Thế Tôn lúc mới thành chính giác, không rời Bồ Đề Đạo Tràng mà thẳng lên cõi trời Đao Lợi cũng như tất cả các nơi thất xứ cửu hội để giảng Kinh Hoa Nghiêm.

Tuyết Đậu dùng lưới ngọc của Đế Thích để dạy về sự sự vô ngài pháp giới. Ý nghĩa của sáu tướng rất là rõ ràng, đó là; tổng tướng,biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướnghoại tướng. Cử một tướng ắt sáu tướng đều hiện. Bởi vì chúng sinh trong đời sống hàng ngày không hiểu ý nghĩa của nguyên lý này Tuyết Đậu mới nêu lên hình ảnh lưới ngọc của Đế Thích để so sánh với lời dạy về Đại Bi Bồ Tát kia. Ý nghĩanhư vầy đây: nếu như ở lưới ngọc này mà các ông có thể hiểu được ý nghĩa của cây gậy, thần thông diệu dụng, ra vào vô ngại, các ông mới có thể thấy được ngàn tay ngàn mắt. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Ngàn mắt nơi đầu gậy từ đâu mà sinh khởi?” Như vậy là nhắm để các ông đạt được giác ngộ lúc bị gậy đánh và chứng đắc được dưới tiếng hét.

Đức Sơn đánh thiên hạ ngay khi họ bước vào cổng, Lâm Tế hét thiên hạ ngay khi họ bước vào cổng. Thử nói xem, tay với mắt ở chỗ nào? Và thử nói xem, tại sao Tuyết Đậu lại hét? Các ông thử tham Thiền xem sao.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33133)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6520)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11243)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12233)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11578)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12784)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34713)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9829)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52235)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10724)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10492)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10445)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13058)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16233)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21810)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9595)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7103)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10371)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12716)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12761)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16209)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16509)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13837)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16561)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12096)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13787)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14302)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16282)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14327)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16186)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12682)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12063)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11786)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15644)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11495)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14012)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11998)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12610)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14976)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11947)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13109)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14514)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20657)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13193)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10927)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20672)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14334)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20342)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17628)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14001)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31845)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12005)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant