Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Chín Mươi Bảy: Kim Cương Kinh Khinh Tiện

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15051)
Tắc thứ Chín Mươi Bảy: Kim Cương Kinh Khinh Tiện

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI BẢY

KIM CƯƠNG KINH KHINH TIỆN

 

THÙY: Niệm một bỏ một, chưa phải chuyên gia. Cử một hiểu ba, vẫn trái tông chỉ. Dù được trời đất đột biến, bốn phương tuyệt xướng, sấm rền điện chớp, mây bay mưa rào, nghiêng hồ lật núi, bình tháo chậu đổ, vẫn chưa đề lên được một nửa. Còn có ai biết xoay thiên quan chuyển địa trục chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Kinh Kim Cương nói, “Nếu một người bị kẻ khác khinh rẻ, người ấy kiếp trướctội chướng đáng bị đọa vào ác đạo, song vì kiếp này bị khinh rẻ, tội nghiệp kiếp trước bèn được tiêu trừ.”

BÌNH: Kinh Kim Cương nói, “Nếu một người bị kẻ khác khinh rẻ, người ấy kiếp trướctội chướng đáng bị đọa vào ác đạo , song vì kiếp này bị khinh rẻ, tội nghiệp kiếp trước bèn được tiêu trừ.” Theo lời giải thích bình thường thì đây là đề tài thường luận trong Kinh. Tuyết Đậu nêu lên để tụng ý nghĩa của đoạn kinh này, vì muốn đả phá lối giải thích lầm lạc của các nhà giáo tông. Chiêu Minh Thái Tử [1]nêu đoạn này lên cho rằng nó có công hiệu tiêu trừ nghiệp chướng.

Trong giáo tông đại ý nói rằng Kinh này linh nghiệm như vậy: một người kiếp trước tạo nghiệp địa ngục, song nhờ sức mạnh của nghiệp tốt chưa phải chịu. Do kiếp này bị người khác khinh rẽ, các tôi nghiệp của kiếp trước vì thế mà được tiêu trừ cả. Kinh này do đó có thể tiêu trừ ác nghiệp của vô lượng kiếp, chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành bất thụ, lại còn dẫn người ta đến chỗ đắc Phật quả Bồ Đề nữa.

Theo các nhà giáo tông thì lật hơn hai mươi chương Kinh bèn gọi là trì Kinh , nói như thế thì có gì là nhằm nhò? Có kẻ nói Kinh tự có linh nghiệm. Nếu thế, các ông thử lấy một quyển kinh rồi để đại một chỗ nào đó xem có cảm ứng gì không? Pháp Nhãn nói, “Chứng Phật địa mới gọi là trì kinh.” Trong Kinh có nói rằng, “Tất cả chư Phật và A Nậu Đa La Tam Miêu Tam Bồ Đề[2] của chư Phật đều phát xuất từ Kinh này.” Song thử nói xem gọi là “ kinh này” là gì vậy? Phải chăng chỉ là giấy vàng trên trục đỏ? Đừng nên nhận lầm điểm giữa cán cân.

Kim Cương được coi là Pháp thể kiên cố, bởi vì không vật gì có thể hủy hoại nó được, nó lại sắc bén có thể cắt được bất cứ vật gì. Đặt nó lên núi thì núi sập; đặt nó vào biển thì biển cạn. Cho nên lấy đó làm tên kinh, Pháp của kinh cũng thế.

Bát nhã[3] có ba loại: thứ nhất, thực tướng Bát Nhã; thứ nhì, quán chiếu Bát nhã; thứ ba, văn tự Bát Nhã. Thực tướng Bát Nhãchân trí, chính là một đại sự ngay dưới chân các ông, sáng rực kim cổ, siêu việt tri kiến, tự tại thánh thoát. Chiếu kiến Bát nhãchân kinh, suốt hăm bốn giờ một ngày chiếu sáng và rung chuyển mặt đất, nghe âm thanh và thấy hình sắc. Văn tự bát nhã tức là văn tự để diễn giả, tức là người nói và người nghe hiện giờ đây. Thử nói xem, đó là Bát nhã hay không phải là Bát nhã? Cổ nhân nói, “Mọi người đều có một quyển kinh.” Lại nói, “Tay không cầm quyển kinh, song luôn luôn lật kinh ấy.”

Nếu như dựa vào cái linh nghiệm của Kinh nầy, tại sao lại ngưng nói chuyển nặng thành nhẹ chuyển nhẹ thành bất thụ? Cho dù có ngang được với những bậc thánh đi nữa, cũng đã có gì là kỳ đặc? Há không nghe Bàng Cư Sĩ nghe giảng Kinh Kim Cương, hỏi vị tòa chủ, “kẻ tục nhân này có một câu hỏi nhỏ, không hiểu có được không?” Tòa chủ nói, “Ông có điều gì nghi ngờ thì cứ việc hỏi.” Bàng Cư Sĩ nói, “Vô ngã tướng vô nhân tướng, đã vô ngã tướng vô nhân tướng thì ai thuyết ai nghe đây?” Tòa chủ không trả lời được mà chỉ nói,” Tôi chỉ dựa vào văn tự để giải nghĩa thôi chứ không hiểu ý của câu đó.” Bàng Cư Sĩ bèn làm bài tụng rằng, “Vô ngã và vô nhân, làm sao có sơ thân? Khuyên ngài đứng giảng giải, sao bằng tìm chân thật? Kim Cương Bát Nhã tính, bên ngoài không bụi trần. Tôi nghe tôi tin nhận, chỉ là giả danh thôi.” Bài tụng này tuyệt hết sức, trong một lúc đã nói rõ cả ra.

Khuê Phong giảng tứ cú kệ, “Phàm sở hữu tướng đều là hư vọng, nếu thấy tướng không phải là tướng tức là thấy Như Lai.” Tứ cú kệ này ý nghĩa hoàn toàn giống với ý nghĩa của câu, “Chứng được Phật địa mới gọi là trì kinh.” Kinh cũng nói rằng, “Nếu lấy sắc để thấy ta lấy âm thanh để nghe ta, người ấy hành tà đạo, không thấy được Như Lai.” Đây cũng là một tứ cú kệ, song ở đây chỉ trích ra những câu mà ý nghĩa vẹn toàn thôi. Có ông tăng hỏi Hối Đường, “Tứ cú kệ là gì?” Hối Đường nói, “Chỉ nói mà không hiểu.”

Tuyết Đậu dựa vào kinh mà chỉ ra. Nếu như có người trì kinh này, thì đó là bổn địa phong quang của mọi người, bổn lai diện mục; Song nếu các ông dựa vào Tổ lệnh mà hành sự thì bổn địa phong quang và bổn lai diện mục lập tức bị cắt thành ba đoạn. Mười hai phần giáo của tam thế chư Phật chẳng đáng gì cả. Đến chỗ này rồi thì dù có thập vạn công năng đi nữa cũng chẳng đảm đương nổi. Người thời buổi này chỉ biết lật kinh mà chẳng hiểu ý nghĩa gì cả. Chỉ biết nói, “Một ngày tôi lật được bao nhiêu.” Họ chỉ biết nhìn thấy giấy vàng trục đỏ, theo hàng đếm mực. Đâu có biết rằng tất cả chỉ từ nơi tâm mình khởi lên mà thôi, đây cùng lắm chỉ là chút chuyển xứ mà thôi.

Đại Châu Hòa Thượng nói, “Chất hàng đống kinh trong phòng không thử xem có phóng quang hay không.” Chỉ cái tâm mình trong một niệm phát lên, đó chính là công đức. Tại sao vậy? Bởi vì vạn pháp đều từ nơi tâm mình phát sinh. Một niệm là linh, đã linh tức thông; thông rồi bèn biến. Cổ nhân nói, “Tre trúc xanh xanh, đều là chân như, hoa vàng tươi tắn, đều là Bát nhã.” Nếu như các ông nhìn thấu triệt được thì là chân như; còn nếu như chưa nhìn thấu được, thử nói xem, các ông gọi gì là chân như đây? Kinh Hoa Nghiêm nói, “Nếu như muốn liễu tri tam thế nhất thiết Phật, phải biết rằng tất cả pháp giới tính chỉ là tâm đạo mà thôi.” Nếu như các ông hiểu được thì bất cứ trong cảnh ngộ nào nhân duyên nào đều là chủ là tông cả. Nếu như chưa thấy rõ được,nên lắng nghe phân xử. Tuyết Đậu tụng để giải minh cái linh nghiệm của kinh.

TỤNG

Ngọc sáng trong tay,

Có công được thưởng.

Hồ Hán không đến,

Toàn vô kỹ lưỡng.

Đã không kỹ lưỡng,

Ba tuần lạc đường.

Cồ Đàm, Cồ Đàm!

Biết tôi hay không?

Lại nói, “Khám phá ra rồi.”

BÌNH: “ Ngọc sáng trong tay, có công được thưởng.” Nếu như có người trì kinh này một cách công nghiệm, ắt sẽ được thưởng viên ngọc. Người ấy được ngọc này, tự nhiên sẽ biết sử dụng. Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện, vạn tượng sâm la, tung hoành hiển hiện. Đó chính là có công huân. Pháp Nhãn nói, “Chứng được Phật địa mới gọi là trì kinh.” Hai câu đó là tụng hết công án rồi.

“Hồ Hán không đến, toàn vô kỹ lưỡng.” Tuyết Đậu xoay quanh lỗ mũi. Có Hồ Hán đến thì mới hiện lên, lúc cả Hồ lẫn Hán đều không đến thì như thế nào? Đến chỗ này thì Phật nhãn cũng chẳng nhìn thấy được. Thử nói xem, đó là công trạng hay là tội nghiệp? Là Hồ hay là Hán? Giống như Linh dương mang sừng, đừng nói là không âm thanh, tung tích, ngay cả một hơi thở cũng không có, biết đi về phương nào mà tìm kiếm đây? Đã đến chỗ mà chư thiên không có lối để rải hoa, ngoại mà không có cổng để nhòm ngó. Cho nên Động Sơn hòa thượng trụ viện cả đời, thổ địa thần tìm tung tích của thầy ta mà chẳng thấy. Một hôm có người đánh vãi bột gạo trong bếp, Động Sơn khởi tâm nói, “Tại sao ông dám coi nhẹ tài vật của đại chúng như thế?” Thổ địa thần bèn trông thấy thầy ta, bèn lễ lậy.

Tuyết Đậu nói, “Đã không kỹ lưỡng;” Nếu như các ông đạt đến chỗ vô kỹ lưỡng (khả năng) này thì ngay cả (Ma) ba tuần cũng bị lạc đường. Thế Tôn xem tất cả chúng sinh như con đỏ, nếu như một người phát tâm tu hành, cung điện của Ba Tuần vì thế mà sụp đổ, cho nên Ba Tuần bèn đến mà não hại người tu hành. Tuyết Đậu nói dù cho Ba Tuần đến như thế đi nữa, cũng vẫn bị lạc đường như thường và không có cách chi để đến gần được.

Tuyết Đậu lại nói, “Cồ Đàm, Cồ Đàm! Biết tôi hay không?” Đừng có nói là Ba Tuần, dù cho là Phật đến đi nữa cũng có biết tôi hay không? Ngay cả Đức Thích Ca cũng còn chẳng thấy, các ông biết rờ rẫm ở đâu đây? Lại nói, “Khám phá ra rồi.” Đó là Tuyết Đậu khám phá Cồ Đàm hay là Cồ Đàm khám phá Tuyết Đậu? Những ai có mắt xin thử nhìn cho chắc xem!
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32609)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11095)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30232)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12589)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52118)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10387)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9520)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12528)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11950)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17468)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant