KINH
PHẬT NGỮ
Hán
dịch: Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi - Việt dịch: Thích Nữ
Tịnh Quang
Tôi
nghe như vầy, một thời Đức Thế Tôn trú tại Tỳ Da Ly Đại
Lâm Lầu Các Thượng, cùng chúng Đại Tỳ Kheo tám nghìn vị
vân tập, chư Đại Bồ Tát tám mươi bốn nghìn, lại có vô
lượng nhơn chúng Hữu học và Vô học, vây quanh Đức Phật
để nghe pháp.
Bấy
giờ
trong hội có một vị Bồ tát tên là Uy Đức Thượng
Vương, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục, trịch
áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng Phật
bạch rằng: Thế Tôn, Như Lai trước thuyết Phật Ngữ Tu Đa
La Chư Kinh, lại có nói rằng không phải Phật ngữ. Thế Tôn,
đó là nghĩa gì? Làm sao thọ trì? Bấy giờ Phật bảo Bồ
tát Long Uy Đức Thượng Vương rằng: Thiện nam tử, như ông
đã hỏi, ở trong các kinh có nói Phật ngữ chẳng phải Phật
ngữ, này Thiện nam tử, đó có nghĩa là không phải ngữ tức
là Phật ngữ. Thiện nam tử, nên khéo suy nghĩ, hôm nay ta muốn
vì ông mà trình bày. Bấy giờ Bồ tát Long Uy Đức Thượng
Vương lại bạch Phật rằng: Lành thay Thế Tôn, con xin muốn
nghe. Phật bảo: Thiện nam tử, nói chẳng phải ngữ tức là
Phật ngữ, này thiện nam, bởi Phật ngữ ấy gọi là Thân
nghiệp tối trọng, điều mà ta nói không ngoài Thân nghiệp,
khẩu nghiệp và Ý nghiệp, nó cũng không phải là lời nên
không thể nói, cũng gọi là Vô ngôn. Thiện nam tử, nếu có
sắc ngữ đều chẳng phải Phật ngữ. Long Uy Đức Thượng
Vương, sắc chẳng phải ngữ, chẳng phải Phật ngữ. Thọ,
tưởng , hành , thức chẳng phải ngữ cũng chẳng phải Phật
ngữ. Thiện nam tử, nếu không có sắc ngữ, không có thọ,
tưởng, hành, thức ngữ thì gọi là Phật ngữ.
Thiện
nam
tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không
phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có ngữ nghiệp
của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ. Này thiện nam,
nếu có các ngữ như là Đất, Nước, Lửa, Gió và Không giới
thì không phải là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có
ngữ của Đất, Nước,Gió, Lửa và Không giới thì gọi là
Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có tham, sân, si ngữ thì không
gọi là Phật ngữ. Này thiện nam, nếu không có tham, sân,
si ngữ thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có Hữu
lậu ngữ và Vô lậu ngữ thì không gọi là Phật ngữ. Thiện
nam tử, nếu chẳng phải Hữu lậu, chẳng phải Vô lậu ngữ
thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có lời sợ hãi,
như thế không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có sự
và phi sự ngữ thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có phi sự nhưng chẳng phải phi sự ngữ thì gọi là Phật
ngữ. Này thiện nam, nếu nơi tự tánh thanh tịnh pháp thượng,
nói rằng được chứng đắc, đây chẳng phải Phật ngữ.
Thiện nam tử, nếu chẳng phải tự tánh, chẳng phải tha tánh
thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có thật ngữ,
phi thật ngữ thì không gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử,
nếu không có thật ngữ, chẳng phải không thật ngữ thì
gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có Thử ngữ, là chỗ
thuyết của Phàm phu ngữ, là chỗ nói của Thánh nhơn ngữ
thì không gọi là Phật ngữ. Này thiện nam, nếu không có
Phàm phu ngữ hoặc Thánh nhơn ngữ thì gọi là Phật ngữ.
Thiện nam tử, nếu có nội ngữ, ngoại ngữ, nội-ngoại ngữ
đó không gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có
nội ngữ, ngoại ngữ, nội-ngoại ngữ đó thì gọi là Phật
ngữ. Nếu ở nơi các pháp, lời nói có chỗ y cứ ở nơi
sắc, chỗ y cứ nơi thọ, tưởng, hành và thức thì không
gọi lá Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu ở nơi các pháp, không
sắc để y cứ, cũng không thọ, tưởng, hành, thức để y
cứ, các ngữ như thế thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử,
nếu có căn -trần-thức ngữ, là ma vương ngữ, là ma dân
ngữ, không phải là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có
tất cả xứ ngữ đó thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử,
nếu có sắc giác phân biệt mà nói, thọ tưởng hành thức
giác phân biệt mà nói không gọi là Phật ngữ. Thiện nam
tử, nếu không có sắc giác phân biệt mà nói, thọ tưởng
hành thức giác phân biệt mà nói thì gọi là Phật ngữ, ở
nơi nghĩa này, ma và dân ma không được như thế. Lại nữa
Thiện nam tử, Bồ tát nghĩa là thấy sắc vô ngã, cũng không
phân biệt chẳng phải ngã sở, như thế thọ, tưởng, hành,
thức vô ngã, cũng không phân biệt chẳng phải ngã sở thì
gọi là Bồ tát. Bấy giờ Bố tát Long Uy Đức Thượng Vương
ở trước Phật bạch rằng: Thế Tôn, theo nghĩa nào mà có
ngôn thuyết? Điều gì gọi là ngôn thuyết? Phật bảo, này
Thiện nam, đó là nơi đắm chấp của ma Ba tuần. Lại nữa
Thiện nam tử, nếu Bồ tát thấy sắc không khởi niệm: tôi
đang như vậy, với thọ tưởng hành thức cũng không khởi
niệm: tôi đang như vậy, như thế Bồ tát ở nơi tất cả
xứ đều Vô hữu ngữ. Long Uy Đức Thượng Vương, các Thiện
nam tử, việc tối thượng là đoạn tất cả ngữ, đoạn
tất cả chướng, diệt các ngã mạn, đoạn tất cả giềng
mối, lìa các nhị kiến, lìa tất cả tưởng bởi chúng vô
ngữ. Tại sao có lời cũng không thể nói? Bởi vì phi ngữ
gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, do vậy đối với nghĩa
này, nên biết như thế chính là Phật ngữ.
Thiện
nam
tử, nếu không phải thân, không phải thân hành; không
phải khẩu, không phải khẩu hành; không phải ý, không phải
ý hành; chẳng phải hành, chẳng phải phi hành; chẳng phải
phỉ báng, chẳng phải không phỉ báng; không sanh, không tưởng,
không xứ, không trụ, không mất; chẳng phải vắng lặng,
chẳng phải hiện hành; lời nói bất động lại cũng không
phải bất động, mà cũng không trụ, tự nhiên bất sanh lại
chẳng phải bất sanh, đây là Phật ngữ, bởi dùng ngôn ngữ
không có khả năng kia vậy, đây gọi là Phật ngữ. Thiện
nam tử, Bồ tát có thể khởi lên sự quán chiếu như thế
rồi, thì gọi là Học Thượng Thượng Trí Quang Minh Phật
Ngữ, Thanh Lương Phật Ngữ, tràn đầy hoan hỷ tất cả chúng
sinh thân, khai ngộ tất cả chúng sinh ý, hướng đến Phật
trí, thọ trì nghĩa lý, khắp vui tất cả các chúng Bồ tát,
rõ các sự mê lầm hay nhập pháp giới, là khéo quyết định
hướng về pháp luân, chuyển bánh xe pháp, đánh pháp cổ lớn,
nhiếp phục ma giới quy phục dị oán, hàng phục tất cả
các chúng sinh ngoại đạo, có thể cứu hộ người ở đường
ác, và hay trang nghiêm các cõi nước Phật, ắt ngồi đạo
tràng, đây là chỗ khen ngợi của tất cả Phật, như thế
Bồ tát đã ngồi đạo tràng, như thế mà Bồ tát đã đắc
Bồ tát Đà la ni. Lúc Đức Phật thuyết ra các pháp môn Phật
ngữ nầy, hiền giả Bồ Tát Thánh Long Uy Đức Thượng Vương
bồ đề phần pháp đều đã đầy đủ, ngay đây đạt được
Vô Sanh Pháp Nhẫn, hai vạn sáu nghìn các Bồ tát đắc Đà
la ni và các Tam muội, tám nghìn Tỳ kheo đắc pháp Vô lậu,
lại có các chúng sinh đều phát tâm Vô thượng bồ đề,
liền dùng thần lực làm mưa các loại hoa cúng dường Thế
Tôn.
Khi
Như
Lai nói Pháp môn nầy, Hiền giả Bồ tát Long Uy Đức Thượng
Vương và các Đại chúng trời, rồng, A tu la, Ca lầu la, Khẩn
na la, Ma hầu La già v.v.. tất cả đại chúng nghe Phật nói
xong rất là hoan hỷ, tin nhận phụng hành.
Source: thuvienhoasen