Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Cáo Hương

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12635)
4. Cáo Hương

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 5

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương 5: Trụ Trì

1.4 Cáo Hương

Tòng lâm cổ y theo luật kiết hạ, mỗi lần trước kiết hạ có phần cáo hương, chưa làm lễ cáo hương không cho nhập thất. Lễ cáo hương ở phòng Phương Trượng hoặc tại thiền đường. Nay theo thiền tông trong mùa kiết đông có thêm một ngày.

Khi có hiệu lệnh cáo hương, chúng đắp y hậu chỉnh tề vào bàn Tổ hay trước điện Vi Đà hộ pháp. Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư, lễ 3 lạy. 

Duy Na xướng tán: 

Lư hương… Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần). 

Chúng đứng thành 2 hàng đối diện nhau. Thầy Trụ Trì bạch lớn giữa chúng rằng:

Nhà tối tâm giảm, mắt thần như điện sáng; thiện ác báo ứng như bóng theo hình chỉ có đến sớm hay chậm mà thôi, trọn không trót lọt được. Cẩn bạch đại chúng, nghĩ kỹ mỗi sự thực càng nơm nớp càng kinh sợ thêm, hầu răn dè cẩn thận đó. 

Bạch xong, đến trước tượng Vi Đà niệm hương, lạy 3 lạy, quỳ gối chấp tay bạch rằng:

Con tên… Trụ Trì, như tòng lâm không thông suốt, Phật pháp không lưu truyền là do chúng yểm che, tổn hại của tín thí, cho con đang trong số đó, bớt lộc giảm thọ, tật xấu vây thân, hoặc gặp nạn dữ, chỉ cho đại chúng thấy rõ. Khi mạng chấm dứt đọa vào trong 3 đường ác thú. Chỉ thần giáng lâm, lấy đó cảnh báo người sau.

Từ đây trở đi, mỗi vị nên chuẩn bị nhuần nhuyễn cho lời đọc cáo hương. Cáo xong xá một xá rồi lui về vị trí. Các chúng trưởng tiến vào niệm hương, quỳ bạch rằng:

Chúng con là… các chúng trưởng chúng A, B, C… Nếu 3 nghiệp không tinh chuyên, 4 oai nghi không toàn vẹn, buông lung thô tháo, nợ của thường trụ khiến cho chúng con hiện đời bị chìm đắm trong 3 đường ác. Ngưỡng mong oai quang chứng giám gia hộ chúng con tội báo tiêu trừ, căn lành tăng trưởng.

Kế tiếp, Duy Na niệm hương, quỳ gối chấp tay và đọc lớn tiếng:

Con… Duy Na: như do tư tâm tà chấp, ỷ thế khinh khi áp đảo, cô phụ nhiều người; chấp sự không tròn khiến con hiện đời…

Tiếp theo các vị Đô Giám, Giám Viện, Phó Trụ Trì, đệ tử kế thừa v.v… tiến ra trước điện Vi Đà đứng giữa niệm hương, xá 3 xá, quỳ gối chấp tay bạch rằng:

Con Giám Viện, nếu dung chúng hẹp lượng, tâm thương chúng mỏng bạc, xâm công lợi tư, mê mờ nhân quả khiến con đời này…

Kế Phó Trụ Trì, Tri Chúng, Tri Khách, Chúng Trưởng, đệ tử kế thừa v.v... hể người điều hành việc chúng đều ra bạch cả.

Con… Tri Chúng, nếu ghét nghèo chuộng giàu, trọng tục khinh tăng, phí của thường trụ (Tam Bảo), do ý đồ ưa thích, khiến con hiện đời ...

Kế thiền đường thanh chúng… Nếu người điều hành nhiều lên 10 người cùng ra trước bạch giống như vậy.

Con… Thanh chúng, nếu giải đãi (biếng nhác) tìm nhẹ lánh nặng, không làm xong việc, tốn hao của tín thí, nợ của thường trụ…

Kế các chức sự khác 5, 10 người cùng lên tác bạch:

Chúng con… (nêu chức vụ đảm trách trong chùa), nếu không hết lòng làm phận sự, cố hiểu lầm chúng, phí của thường trụ mà giữ cho riêng mình an, khiến chúng con hiện đời v.v…

Cáo còn có nghĩa kính cáo, bày tỏ cho bề trên biết, hương là thơm, là tinh khiết. Người dâng hương tỏ bày tận tấm lòng mình trong lúc làm việc không tránh khỏi va chạm, mục đích là để thần minh chứng minh; cho đại chúng hiểu rõ phận sự điều hành của mình, và cũng để tự thân khắc phục sửa sai lỗi lầm sái phạm. Tất cả chức sắc điều hành viện đã ra dâng hương bày tỏ xong, đứng thành 2 hàng chúng xây mặt đối nhau. Duyệt Chúng lấy mõ nhỏ tất cả cùng ngồi xuống tụng Kinh Phạm Võng về 2 giới không phát thệ nguyện, như sau:

Phật thuyết Kinh Phạm Võng, phẩm Bồ Tát tâm địa, nếu Phật tử, thường phải phát nguyện hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, mong gặp được thầy hay, bạn tốt, bậc thiện tri thức, thường dạy ta Kinh Luật Đại Thừa về 10 phát thú[1], 10 trưởng dưỡng[2], 10 Kim Cang[3], thập địa[4], khiến cho ta khai mở, như phát tâm tu hành, kiên trì giữ giới luật Phật chế, thà bỏ thân mạng, niệm niệm không rời tâm. Nếu Bồ Tát không phát tâm nguyện như thế, phạm khinh cấu tội

Nếu Phật tử phát 10 đại nguyện rồi, gìn giữ cấm giới của Phật, đọc lời phát nguyện này: Thà đem thân này ném vào lửa dữ hừng cháy; hầm lớn, núi đao trọn không hủy phạm Kinh Luật 3 đời chư Phật; và cùng tất cả người nữ làm hạnh bất tịnh. Cũng nguyện rằng: thà lấy lưới sắt nóng buộc nghìn vòng quấn quanh thân trọn không để thân phá giới này. Nhận của đàn việt tín tâm tất cả y phục cũng phát nguyện rằng: Thà dùng miệng này nuốt hòn sắt nóng và chịu lửa dữ cuốn đi trải qua trăm nghìn kiếp trọn không để miệng phá giới này. Ăn của tín thí đàn việt trăm vị thức ăn, lại phát nguyện rằng: thà để thân này nằm trên lửa dữ lưới bao quanh sắt nớng trên đất, trọn không để thân này phá giới. Nhận của tín tâm đàn việt trăm loại giường, tòa ngồi lại cũng phát nguyện rằng: thà để thân này chịu 300 kim nhọn đâm vào mình qua một kiếp, hai kiếp, trọn không để thân này phá giới. Thọ của tín thí đàn việt trăm vị thuốc thang cũng phát nguyện rằng: thà đem thân này ném vào vạc đồng sôi trải qua trăm nghìn kiếp trọn không đem thân này phá giới. Nhận của tín thí trăm loại phòng xá, nhà cửa, ruộng đất, vườn tược, rừng cây cũng lại phát nguyện rằng: thà lấy dùi sắt dùi thủng thân này từ đầu đến chân khiến thành tro bụi, trọn không để thân này phá giới

Nhận của tín thí đàn việt sự lễ bái cung kính lại cũng phát nguyện rằng: thà để trăm nghìn mũi dao sắt cháy đỏ đâm vào 2 con mắt, trọn không để tâm này phá giới. Thấy người hiếu sắc cũng lại phát nguyện rằng: thà lấy trăm nghìn dùi sắt đâm thủng nhãn căn trải qua một kiếp, 2 kiếp, trọn không để tâm này phá giới. Nghe âm thanh hay cũng phát nguyện rằng: thà lấy trăm nghìn mũi dao nhọn cắt bỏ mũi đi, trọn không để tâm này phá giới. Tham nếm các mùi thơm cũng phát nguyện rằng: thà lấy trăm nghìn mũi dao nhọn cắt đứt lìa lưỡi ra, trọn không để tâm này phá giới. Người ăn trăm món cao sang cũng lại phát nguyện rằng: thà lấy búa bén bửa rả thân ra, trọn không để tâm này phá giới. Tham đắm vuốt ve xúc chạm cũng phát nguyện rằng: nguyện tất cả chúng sanh đều thành Phật, thành Bồ Tát; nếu không phát nguyện ấy là phạm khinh cấu tội.

Tụng xong, đại chúng cùng đọc bài kệ hồi hướng:

Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,

Oai linh thưởng phạt phân minh,

Kẻ thiện hay giáng phước,

Người gian ác gặp tai ương.

Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,

Oai thưởng phạt phân minh,

Người trung thường giáng phước,

Kẻ nịnh bị cực hình.

Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,

Oai linh hộ tòng lâm,

Người nào phá quy tắc,

Ương họa gặp tức khắc.

Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,

Xét tra chân giả tình,

Hiện tại người bạch hương,

Thề ghi nhận tinh tường.

Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,

Tuần tra chúng phân minh,

Một câu hợp một câu,

Mỗi câu đáp rành rành.

Phật thuyết Kinh Phạm Võng, vì có người phát nguyện thọ giới, giữ giới nhân đây khuyên gắng giữ gìn; kẻ phá giới nhân đây chữa lành (bịnh). Nếu nói tâm chân chánh cần dùng lời thề nguyện làm gì: đây với người ngôn từ hoa mỹ muốn lung lạc tâm kẻ khác để thủ lợi, sợ đứng thề trước thần, tại sao phải tại tòng lâm? Vi Đà thiên cầm chày đáng sợ nên cẩn trọng chớ tự dối mình mà phụ lòng người cáo hương. Bướng bỉnh ngẩng đầu phanh da khấn lạy thần linh hiển gia tăng gấp 3 lần làm cho tòng lâm sắp suy hoại bại, gian tà dần tiến tới; khấn cầu lực Thần Thánh chóng ban ân phước để trừ sạch.

Tụng xong cử tán bài:

Thần Vi Đà thiên tướng

Bồ Tát hóa thân

Ủng hộ Phật pháp nguyện cao thâm

Cầm Bảo xử trừ ma quân

Công đức thật khó lường

Tùy loài giúp quần sanh.

Nam Mô Phổ Nhãn Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Chứng nghĩa ghi rằng: cáo hương lập thệ; lời thệ hẳn là tâm phải bền vững; mới đầu tâm còn yếu nên phải cần hành trì. Nên phát thệ nguyện để giữ mình. Nếu không phát tâm thệ nguyện đạo do đâu thành chứ ? Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 38 ghi rằng: Tỳ kheo không phát thệ nguyện trọn không thành Phật đạo. Phước của thệ nguyện vô cùng không thể kể hết, như vị cam lồ rưới sạch một nơi. Muốn duy trì tòng lâm hẳn cần nên cáo hương để chứng tỏ sự thanh bạch. Nhưng thanh bạch cùng không chỉ mình tự biết, người khác không biết được. Con người không biết nhưng thần minh biết rất rõ. Giá như có ngu tăng dối láo đối với thần tự cho rằng thần là gỗ, bùn đất; nếu tỏ ra khinh thường tham muốn bưng bít ắt rơi vào quả báo xấu ác. Giả sử hiện thời chưa bị quả báo, cuối cùng hẳn thọ nhận lấy họa tai. Không ai chạy trốn được, không đáng sợ hay sao! 

Hỏi: Nguyện phần nhiều là mong đợi, thề là loại nguyền rủa, dường như không thích hợp với người tu hành?

Đáp: Thề, nguyện là ý chí vô cùng mạnh mẽ; trong khi nguyền rủa có hàm chứa ý thâm độc oán hận bên trong. Cớ chi cho tâm dũng liệt, mạnh mẽ là độc hại chứ? Cũng như 4 nguyện sâu rộng chẳng phải thệ ư? Bồ Tát tu hành không có 4 lời thệ nguyện đó hẳn không có cơ sở thành Phật; cũng đâu giống như đem lời nguyền rủa để nghi sao?

Tóm lại, điển tích cáo hương quan hệ ở tòng lâm không nhỏ vậy. Hành cáo hương là người biết sợ. Giả sử người có lời hoa mỹ cũng bỏ bớt được. Cáo hương phế bỏ nên lỗi nhỏ cũng không chừa. Vì vậy, tòng lâm được hưng thịnh do hành cáo hương; tòng lâm sắp suy, vì bỏ cáo hương vậy. Thẹn hưng suy là ở điểm này. 

Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: Từ Thoàn Phốc thiền sư chủ trì Thiên Đồng 20 năm ăn không trái chúng, dù bịnh cũng không trái chúng vâng theo rất là chặt chẻ, đãi chúng thật là tốt đẹp. Có một sư chú tri khố (coi thủ kho ở chùa) biết trong kho đã cạn, đến xá sư bạch: 

- Con đã hết sức xoay xở thêm được một lần; kho trống trơn không dám tự chuyên xin nạp vào Tam Bảo

Sư Phốc giận nói: 

- Ông để kho trống rỗng ắt giữ theo cái xảo ngôn vô nghĩa đối với vật; tiền bạc của Tam Bảo dung túng cho Ông làm việc bất nghĩa ư? 

Không nạp vào là tranh của người khác, đâu phải của riêng tiểu sư? Nạp vào của thường trụ đã hiếm nghe thấy; còn giận không nạp đều là tranh đoạt của người khác. Duy trì việc cáo hương đây rất là trong sáng. Người xưa như thế kham nhẫn làm sư biểu (thầy người) mà cáo hương cần phải biết đó.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32343)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11026)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30270)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12480)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34281)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52061)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10580)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10535)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13686)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11885)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11635)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11903)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11360)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11860)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14786)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14302)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20448)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13048)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14182)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20076)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13792)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant