Hán Dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà
Việt dịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ
(PL.2549 - 2005 sửa chữa và bổ sung)
[549b13]Kính
lạy Năng Nhân Đệ Thất Tiên[1],
Diễn
thuyết Pháp[2] Thánh Hiền vô thượng.
Thế
Tôn nay độ chúng quần sinh
Vốn
đã từ lâu trôi sinh tử.
Tôn
trưởng Ca-diếp và Thánh chúng,
Hiền
triết A-nan văn quảng bác,
Cúng
dường xá-lợi Phật Niết-bàn,
Từ
nước Câu-di[3] đến Ma-kiệt.
Ca-diếp
tư duy hành bốn đẳng,[4]
Thương
xót chúng sanh đọa năm đường;
Chánh
giác dẫn đường nay cách xa,
Nhớ
lời dạy khéo, lòng thương khóc.
Ca-diếp
nghĩ suy: Gốc Chánh pháp,
Làm
sao lưu bố mãi thế gian?
Lời
dạy tối tôn từ kim khẩu,
Ghi
giữ trong lòng không để mất.
Ai
có sức này, tập các pháp,
Nói
rõ nhân duyên, gốc từ đâu?
Người
trí hiện nay trong chúng này,
A-nan
hiền thiện, nghe vô lượng.
Liền
gióng kiền chùy họp bốn chúng;
Tỳ-kheo
tám vạn bốn nghìn người,
Thẩy
đều La-hán tâm giải thoát La-hán,
Giải
thoát trói buộc, làm phước điền.
Ca-diếp
bởi vì thương thế gian,
Báo
ân quá khứ, nhớ Tôn đức.
Thế
Tôn phú pháp, trao A-nan,
Nguyện
pháp lưu bố mãi ở đời.
Làm
sao thuận tự, không mất mối,
Kết
tập Pháp bảo ba tăng-kỳ;
Để
sau bốn chúng được nghe pháp,
Nghe
rồi liền được lìa các khổ.
A-nan từ chối: “Sức không kham.
“Các
pháp thậm thâm ngần ấy thứ,
“Há
dám phân biệt lời Như Lai?
“Phẩm
đức Phật pháp, vô lượng trí.
“Tôn
giả Ca-diếp nay kham nhiệm,
“Đấng
Thế Hùng đem pháp phú cho;
“Nay
vì mọi người, Đại Ca-diếp,
“Từng
được Như Lai chia nửa tòa.[5]”
Ca-diếp đáp rằng: “Tuy có vậy;
“Nhưng
tuổi già yếu, đã quên nhiều.
“Sự
nghiệp trí tuệ, Ông giữ hết,
“Hãy
khiến gốc pháp còn mãi đời.
“Nay
tôi có ba mắt thanh tịnh,
“Cũng
có thể biết tâm trí người;
“Biết
rõ tất cả hàng chúng sanh,
“Không
ai hơn Tôn giả A-nan.”
Từ
Phạm Thiên xuống đến Đế Thích,
Hộ
thế Tứ vương cùng chư Thiên;
Di-lặc
Đâu-suất cũng đến họp.
Hàng
ức Bồ-tát không kể hết.
Di-lặc,
Phạm, Thích cùng Tứ vương,
Thảy
đều chấp tay mà bạch hỏi:
“Tất
cả các pháp, Phật ấn chứng:
“A-nan
là pháp khí của Ta.
“Nếu
ai không muốn pháp tồn tại,
“Người
ấy xuyên tạc lời Như Lai.
“Nguyện
lưu pháp yếu, vì chúng sanh,
“Vượt
qua nguy ách, thoát các nạn.
“Thích
Tôn ra đời, sống rất ngắn.
“Tuy
nhục thể mất, Pháp thân còn.
“Để
mong pháp yếu không đoạn tuyệt,
“A-nan,
chớ chối từ thuyết pháp!”
Tối
tôn Ca-diếp cùng Thánh chúng,
Di-lặc,
Phạm, Thích cùng Tứ vương;
Cần
thỉnh A-nan mở lời cho,
Khiến
lời Như Lai không diệt tận.
A-nan
nhân từ, hòa bốn đẳng,
Ý
chuyển vi tế sư tử hống;
Liếc
nhìn bốn chúng, ngó hư không,
Khóc
thương rưng lệ không ngăn được.
Nhan
sắc chợt bừng ánh sáng chói,
Tỏa
khắp chúng sanh như hừng đông.
Di-lặc,
Phạm, Thích nhìn ánh sáng,
Chắp
tay chờ nghe Pháp vô thượng.
Bốn
bộ chúng lặng lẽ, tâm chuyên nhất,
Muốn
được nghe pháp, ý không loạn.
Tôn
trưởng Ca-diếp cùng Thánh chúng,
Nhìn
thẳng tôn nhan, mắt không chớp.
Rồi
A-nan nói kinh vô lượng,
Những
gì đầy đủ, thành một tụ:
“Nay
tôi sẽ chia làm ba phần,
“Tóm
thâu mười kinh thành một kệ.
“Phần
một Khế kinh, phần hai Luật,
“Phần
ba lại là A-tỳ-đàm.
“Chư
Phật[6] quá khứ đều phân ba,
“Khế
kinh, Luật, Pháp, làm ba tạng.
“Khế
kinh nay hãy phân bốn đoạn;
“Trước
hết Tăng nhất, hai là Trung,
“Ba
gọi là Trường, nhiều chuổi ngọc;
“Sau
cùng phần bốn gọi Tạp kinh.”
[550a01]Tôn
giả A-nan lại suy nghĩ:
“Pháp
thân Như Lai không diệt mất,
“Còn
mãi thế gian không đoạn tuyệt.
“Trời
Người được nghe, thành đạo quả.
“Hoặc
có Một pháp mà nghĩa sâu;
“Khó
trì, khó tụng, không thể nhớ,
“Nay
tôi kết tập nghĩa Một pháp;
“Một,
Một, nối nhau, không mất mối.
“Cũng
có Hai pháp, tập thành Hai;
“Ba
pháp thành Ba, như xâu chuỗi.
“Bốn
pháp thành Bốn, Năm cũng vậy.
“Năm
pháp tiếp đến Sáu, Bảy pháp,
“Nghĩa
Tám pháp rộng cho đến Chín.
“Mười
pháp, từ mười đến Mười một.
“Pháp
bảo như vậy trọn không mất;
“Hằng
ở thế gian, tồn tại lâu.”
Ở
giữa đại chúng tập pháp này,
A-nan
tức thì thăng pháp tọa.
Di-lặc
tán thán: “Khéo thuyết thay!
“Hãy
nên phối hợp nghĩa các Pháp.
“Lại
có các pháp nên phân bộ;
“Lời
dạy Thế Tôn, mỗi mỗi khác.
“Bồ-tát
phát ý hướng Đại thừa,
“Như
Lai nói riêng cho pháp này:
“Có
người Thế Tôn dạy sáu độ:
“Bố
thí, trì giới, nhẫn, tinh tấn,
“Sức
thiền, trí tuệ như trăng non;
“Vượt
qua vô cực thấy các pháp.
“Có
ai dũng mãnh thí đầu mắt;
“Thân
thể máu thịt không thương tiếc;
“Thê
thiếp, quốc thành, cùng nam nữ;
“Đó
là đàn độ[7] không nên bỏ.
“Giới
độ vô cực như kim cương,
“Không
huỷ, không phạm không lọt mất;
“Giữ
tâm hộ giới như bình tách.
“Đó
gọi giới độ không nên bỏ.
“Hoặc
có người đến chặt tay chân,
“Không
khởi sân hận, sức nhẫn mạnh;
“Như
biển dung chứa không tăng giảm,
“Đó
là nhẫn độ không nên bỏ.
“Những
ai tạo tác hành thiện ác,
“Cả
thân, khẩu, ý không chán đủ;
“Các
hành hại người, không đến đạo,
“Đó
gọi tấn độ không nên bỏ.
“Những
ai
thiền tọa đếm hơi thở,
“Tâm
ý kiên cố, không loạn niệm;
“Ví
có động đất, thân không nghiêng,
“Đó
gọi thiền độ, không nên bỏ.
“Dùng
sức trí tuệ, đếm bụi trần,
“Trải
triệu số kiếp không kể xiết;
“Số
nghiệp sách ghi ý không loạn,
“Đó
gọi trí độ, không nên bỏ.
“Các
pháp thậm thâm, luận Lý Không,
“Khó
sáng, khó tỏ, không thể quán;
“Tương
lai đời sau lòng hồ nghi,
“Đức
Bồ-tát này không nên bỏ.”
A-nan
tự trình bày ý nghĩ:
“Người
ngu không tin hạnh Bồ-tát;
“Trừ
các La-hán tín giải thoát
[550b01]“Mới
có tín tâm không do dự.
“Bốn
chúng đệ tử, phát đạo ý,[8]
“Cùng
tất cả mọi loài chúng sanh;
“Có
lòng tin vững không hồ nghi.”
Di-lặc
tán thán: “Khéo thuyết thay!
“Phát
tâm Đại thừa, ý quảng đại.”
“Hoặc
có các pháp, đoạn kết sử;
“Hoặc
có các pháp, thành quả đạo.”
A-nan
nói rằng: “Đây thế nào?
“Tôi
thấy Như Lai tuyên pháp này.
“Có
người không nghe Như Lai thuyết
“Pháp
này, há chẳng có hồ nghi?
“Nếu
tôi nói nghĩa này không đúng,
“Như
vậy hư dối đời tương lai.
“Nay
các kinh xưng: Tôi nghe như vầy,
“Phật
trú thành nào, quốc thổ nào?
“Lần
đầu nói pháp: Ba-la-nại.
“Độ
ba Ca-diếp: Ma-kiệt-đà.
“Câu-tát,
Ca-thi, giữa Thích tộc,
“Chiêm-ba,
Câu-lưu, Tỳ-xá-ly,
“Cung
Trời, cung Rồng, A-tu-la,
“Cung
Kiền-đạp-hòa, thành Câu-thi;
“Giả
sử không rõ nơi nói kinh,
“Thì
nói nguyên gốc tại Xá-vệ.
“Việc
ấy, một thời tôi đã nghe,
“Phật
tại Xá-vệ cùng đệ tử;
“Tinh
xá Kỳ-hoàn, tu thiện nghiệp,
“Vườn
Cấp Cô Độc Trưởng giả cúng.
“Khi
Phật ở đây, bảo Tỳ-kheo:
“Nên
chuyên tâm tu tập một pháp,
“Tư
duy một pháp, không buông lung,
“Sao
gọi một pháp? Là niệm Phật;
“Niệm
Pháp, niệm Tăng cùng niệm giới,
“Niệm
thí, niệm Thiên, trừ loạn tưởng.
“An-ban
hơi thở, và niệm thân,
“Niệm
chết trừ loạn, tổng mười niệm.
“Đó
pháp mười niệm, có thêm mười,
“Tiếp
theo, lại nói Tôn đệ tử:
“Trước
độ Câu-lân[9] con trưởng Phật,
“Người
nhỏ cuối cùng là Tu-bạt.[10]
“Dùng
phương tiện này hiểu một pháp.
“Hai
từ hai pháp, ba từ ba.
“Bốn,
năm, sáu, bảy, tám, chín, mười,
“Mười
một:, không pháp nào không rõ.
“Từ
một tăng một đến các pháp,
“Nghĩa
nhiều, huệ rộng không thể tận.
“Mỗi
một Khế kinh nghĩa cũng sâu,
“Cho
nên gọi là Tăng nhất hàm.
“Nay
tìm một pháp khó rõ ràng,
“Khó
trì, khó hiểu, không thể tỏ.
“Tỳ-kheo
tự nói nghiệp công đức,
“Nay
phải tôn xưng là đệ nhất;
“Giống
như thợ gốm làm đồ dùng,
“Theo
ý mà làm không nghi ngại.
“A-hàm
Tăng nhất pháp cũng vậy,
“Ba
thừa giáo hóa không sai khác.
[550c01]“Vi
diệu Phật kinh rất thâm sâu,
“Hay
trừ kiết sử như giòng chảy.
“Tuy
nhiên, Tăng nhất ở trên hết,
“Làm
sạch ba nhãn trừ ba cấu.
“Người
nào chuyên tâm trì Tăng nhất,
“Là
người tổng trì tạng Như Lai.
“Cho
dù thân này còn kết sử,
“Đời
sau liền được trí tài cao.
“Nếu
ai chép viết thành kinh quyển,
“Hoa
lọng, lụa là đem cúng dâng;
“Phước
này vô lượng không kể xiết.
“Vì
Pháp bảo này, rất khó gặp.”
Khi
nói lời này, trời đất động,
Trời
mưa hoa thơm ngập đến gối.
Trên
không chư Thiên khen: “Lành thay!
“Tôn
giả nói lời đều thuận nghĩa.
“Khế
kinh tạng một, Luật tạng hai,
“Kinh
A-tỳ-đàm là tạng ba.
“Phương
đẳng, Đại thừa nghĩa thâm thúy,
“Cùng
các khế kinh là Tạp tạng.
“Ổn
định lời Phật quyết không đổi.
“Nhân
duyên đầu cuối đều tùy thuận.”
Di-lặc,
chư Thiên cũng khen tốt:
Kinh
điển Thích-ca tồn tại mãi.
Di-lặc
đứng lên tay cầm hoa,
Vui
mừng đem rải lên A-nan:
“Kinh
này chân thật Như Lai nói.
“Cầu
mong A-nan quả đạo thành.”
Bấy giờ Tôn giả A-nan, cùng Phạm thiên dẫn các trời Phạm-ca-di đều đến hội họp. Trời Hóa tự tại dẫn đoàn tùy tùng đều đến tụ hội. Trời Tha hóa tự tại dẫn đoàn tùy tùng đều đến tụ hội. Trời Đâu-suất Thiên vương dẫn chúng chư thiên đến tụ hội. Trời Diễm thiên dẫn đoàn tùy tùng đến đến tụ hội. Thích Đề-hoàn Nhân dẫn chúng chư thiên Tam thập tam đều đến tụ hội. Đề-đầu-lại-tra Thiên vương dẫn chúng Càn-thát-bà[11] đều đến tụ hội. Tỳ-lưu-lặc-xoa Thiên vương dẫn các Yếm quỷ đều đến tụ hội. Tỳ-Sa-môn Thiên vương dẫn chúng Duyệt-xoa, La-sát đều đến tụ hội.
Bấy giờ, Di-lặc Đại sĩ nói với các Bồ-tát:
“Các Khanh hãy khuyến khích các tộc tánh nam, tộc tánh nữ trong hiền kiếp phúng tụng, thọ trì Tôn pháp Tăng nhất; quảng diễn, phổ biến, khiến mọi người phụng hành.”
Sau khi nói những lời này, chư Thiên, loài Người, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưu-la, Ma-hầu-lặc, Chân-đà-la, v.v…, đều bạch rằng:
“Hết thảy chúng tôi đều ủng hộ người thiện nam, thiện nữ mà phúng tụng, thọ trì Tôn pháp Tăng nhất ấy, quảng diễn, phổ biến, trọn không bao giờ để dứt tuyệt.”
Lúc ấy, Tôn giả A-nan [551a1] bảo Ưu-đa-la[12]:
“Nay tôi đem Tăng nhất A-hàm này phó chúc cho ông. Hãy khéo phúng tụng, đọc thuộc, chớ để sai sót. Vì sao? Vì nếu ai khinh mạn Tôn Kinh này sẽ đọa lạc xuống hàng phàm phu. Vì sao? Này Ưu-đa-la, Tăng nhất A-hàm này xuất giáo nghĩa của ba mươi bảy phẩm đạo,[13] và các pháp cũng từ đây mà phát sinh.”
Bấy giờ, Đại Ca-diếp hỏi A-nan:
“Thế nào, A-nan, Tăng nhất A-hàm này xuất giáo nghĩa của ba mươi bảy phẩm đạo, và các pháp cũng từ đây mà phát sinh?”
A-nan bạch:
“Thật vậy, Thật vậy, Tôn giả Ca-diếp! Tăng nhất A-hàm này xuất giáo nghĩa của ba mươi bảy phẩm đạo, và các pháp cũng từ đây mà phát sinh; điều này hãy gác lại. Chỉ một bài kệ trong Tăng nhất A-hàm cũng xuất sinh ba mươi bảy phẩm và các pháp.”
Ca-diếp hỏi:
“Trong bài kệ nào mà xuất sinh ba mươi bảy phẩm và các pháp?”
Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền nói kệ này:
Chớ làm các điều ác.
Vâng làm các điều.
Tự thanh tịnh tâm ý.
Là lời Chư Phật dạy.
“Sở dĩ như vậy là vì, chớ làm các điều ác, đó là gốc rễ của các pháp, từ đó xuất sinh tất cả các pháp thiện. Do sinh pháp thiện, nên tâm ý thanh tịnh. Cho nên, bạch Ca-diếp, thân, khẩu, ý hành của chư Phật Thế Tôn thường tu thanh tịnh.”
Ca-diếp hỏi:
“Thế nào, A-nan, chỉ có Tăng nhất A-hàm mới xuất sinh ba mươi bảy phẩm và các pháp, hay là bốn A-hàm khác cũng xuất sinh?”
A-nan đáp:
“Hãy gác lại điều đó, bạch Ca-diếp. Nghĩa của bốn A-hàm, trong bài kệ đã tóm thâu đầy đủ giáo nghĩa của chư Phật, và giáo nghĩa của Thanh văn, Bích-chi-phật. Sở dĩ như vậy là vì, chớ làm các điều ác, đó là sự cấm chỉ đầy đủ giới, là hành thanh bạch. Vâng làm các điều thiện, đó là tâm ý thanh tịnh. Tự thanh tịnh tâm ý, là trừ tà điên đảo. Đó là lời chư Phật dạy, trừ khử tưởng mê lầm.
“Thế nào, bạch Ca-diếp, giới thanh tịnh, há ý không thanh tịnh sao? Ý thanh tịnh thì không điên đảo. Vì không điên đảo nên tưởng mê hoặc bị diệt, và các quả do ba mươi bảy phẩm đạo mà được thành tựu. Đạo quả đã thành tựu, há đó chẳng phải là các pháp sao?”
Ca-diếp hỏi:
“Thế nào, A-nan, sao đem Tăng nhất này mà trao cho Ưu-đa-la, chứ không trao cho Tỳ-kheo khác, và tất cả ác pháp khác nữa?”
A-nan đáp:
“Tăng nhất A-hàm chính là các pháp, các pháp chính là [551b1] Tăng nhất A-hàm, chỉ là một, không có hai.”
Ca-diếp hỏi:
“Vì những nguyên nhân nào mà đem Tăng nhất A-hàm này trao cho Ưu-đa-la, chứ không trao cho Tỳ-kheo khác?”
A-nan đáp:
“Bạch Ca-diếp, nên biết, chín mươi mốt kiếp trước, Tỳ-bà-thi[14] Như Lai, Chí chơn, Đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian, lúc ấy Tỳ-kheo Ưu-đa-la này có tên là Y-câu Ưu-đa-la.[15] Bấy giờ, đức Phật kia đem pháp Tăng nhất trao cho người này, khiến phúng tụng, đọc thuộc. Từ đó cho đến ba mươi mốt kiếp về sau, tiếp theo lại có đức Phật tên là Thức-cật[16] Như Lai, Chí chơn, Đẳng chánh giác ra đời. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Mục-già Ưu-đa-la,[17] được Như Lai Thức-cật lại đem pháp này trao cho, khiến phúng tụng, đọc thuộc. Rồi trong ba mươi mốt kiếp ấy, Tỳ-xá-bà[18] Như Lai, Chí chơn, Đẳng chánh giác lại xuất hiện ở thế gian. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Long Ưu-đa-la,[19] lại được trao cho pháp này, khiến phúng tụng, đọc thuộc.
“Bạch Ca-diếp, nên biết, trong Hiền kiếp này có Câu-lưu-tôn[20] Như Lai, Chí chơn Đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa la này tên là Điện Lôi Ưu-đa-la,[21] lại được trao cho pháp này, khiến phúng tụng, đọc thuộc. Trong hiền kiếp này, tiếp theo, lại có Phật, hiệu là Câu-na-hàm[22] Như Lai, Chí chơn, Đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Thiên Ưu-đa-la.[23] Ngài lại đem pháp này chúc lụy cho người này, khiến phúng tụng, tập đọc. Trong hiền kiếp này, tiếp theo, lại có Phật, hiệu là Ca-diếp Như Lai, Chí chơn, Đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Phạm Ưu-đa-la, lại được trao cho pháp này, khiến phúng tụng, đọc thuộc.
“Bạch Ca-diếp, nên biết, nay Thích-ca Văn Như Lai, Chí chơn, Đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian. Tỳ-kheo này nay tên là Ưu-đa-la. Phật Thích-ca Văn tuy đã vào Bát-niết-bàn, nhưng Tỳ-kheo A-nan vẫn còn ở thế gian. Thế Tôn đã đem pháp phó chúc hết cho tôi. Nay tôi lại đem pháp này trao lại cho Ưu-đa-la. Vì sao? Hãy xem đồ dùng, xét kỹ nguyên gốc, rồi sau mới trao pháp. Vì sao vậy? Vì vào thời quá khứ, ở trong Hiền kiếp này, đức Câu-lưu-tôn Như Lai, Chí chơn, Đẳng chánh giác, Minh hạnh túc[24], Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu[25], Thiên nhân sư, hiệu Phật Thế Tôn[26], xuất hiện ở thế gian. Lúc đó có vua tên Ma-ha Đề-bà[27] [551c1] dùng pháp trị giáo hóa chưa từng bị sai lệch; tuổi thọ rất dài, đoan chánh vô song, ít có trong đời. Trong tám vạn bốn nghìn năm, thân làm đồng tử, tự mình vui chơi. Trong tám vạn bốn nghìn năm, thân làm Thái tử mà trị hóa bằng pháp. Trong tám vạn bốn nghìn năm, lại trị hóa thiên hạ bằng vương pháp.
“Bạch Ca-diếp, nên biết, bấy giờ Thế Tôn trú trong vườn cam lê.[28] Như pháp thường từ xưa, sau khi ăn xong, Ngài kinh hành ở sân trước, tôi làm thị giả. Lúc đó, Thế Tôn cười, miệng phát ra ánh sáng năm sắc. Tôi thấy vậy, liền quỳ trước Thế Tôn, bạch: ‘Phật không cười vô cớ. Con xin được nghe gốc gác ngọn ngành, Như Lai Chí chơn Đẳng chánh giác không cười vô cớ.’ Bấy giờ, bạch Ca-diếp, Phật bảo tôi: ‘Vào thời quá khứ, ở trong Hiền kiếp này, có Như Lai danh hiệu Câu-lưu-tôn, Chí chơn, Đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian, cũng tại chỗ này thuyết pháp rộng rãi cho các đệ tử. Kế đến, cũng ở trong Hiền kiếp này, lại có Như Lai Câu-na-hàm, Chí chơn, Đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian. Bấy giờ đức Phật kia cũng tại chỗ này thuyết pháp rộng rãi. Tiếp đến, cũng trong Hiền kiếp này, Như Lai Ca-diếp, Chí chơn, Đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian. Như Lai Ca-diếp cũng tại chỗ này thuyết pháp rộng rãi.’
“Bạch Ca-diếp, lúc ấy tôi quỳ trước đức Phật, bạch rằng: ‘Con nguyện sau này đức Thích-ca Văn Phật cũng tại chỗ này thuyết pháp đầy đủ cho các đệ tử. Chỗ này đã là tòa kim cương của bốn đức Như Lai, hằng không gián đoạn.’
“Bạch Ca-diếp, lúc ấy Thích-ca Văn Phật ngay tại chỗ ngồi ấy bảo tôi: ‘Này A-nan, thủa xưa, tại chỗ này, trong hiền kiếp, có vị vua sinh ra ở đời tên là Ma-ha Đề-bà, (…) cho đến, trong tám vạn bốn nghìn năm dùng vương pháp giáo hóa, lấy đức mà huấn thị. trải qua nhiều năm. Một hôm vua bảo Kiếp-tỉ[29] rằng: ‘Nếu khi nào thấy đầu ta có tóc bạc, hãy báo cho ta.’ Bấy giờ, người kia nghe giáo lệnh của vua, và phải trải qua nhiều năm mới thấy trên đầu vua có tóc bạc xuất hiện, liền quỳ trước vua tâu: ‘Tâu Đại vương, nên biết, trên đầu đã xuất hiện tóc bạc.’ Lúc ấy, vua bảo người kia: ‘Lấy nhíp vàng, nhổ tóc bạc của ta, rồi đặt vào tay ta.’ Người kia vâng lệnh của vua, liền cầm nhíp vàng nhổ tóc bạc. Bấy giờ, Đại vương thấy tóc bạc rồi, liền nói bài kệ này:
[552a1][30]
Hôm
nay trên đầu ta
Đã
sinh tóc suy hao.
Thiên
sứ đã đến rồi.
Nên
xuất gia kịp lúc.
“Hiện tại ta đã hưởng phước nhân gian rồi, phải tự nổ lực để có đức lên trời. Ta hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y; với lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ các khổ.
“Bấy giờ, vua Ma-ha Đề-bà bảo thái tử thứ nhất tên là Trường Thọ: ‘Nay con biết không, đầu ta đã sinh tóc bạc! Ý ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, với lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ các khổ. Con hãy nối ngôi ta, dùng pháp mà trị giáo hóa, chớ làm trái lại lời ta dạy mà làm việc phàm phu. Sở dĩ như vậy, là vì nếu có người nào trái lại lời ta, người đó làm việc phàm phu. Kẻ phàm phu thì ở mãi trong ba đường, tám nạn.’
“Bấy giờ, vua Ma-ha Đề-bà đem ngôi vua trao cho thái tử rồi, lại đem của báu ban cho Kiếp-tỉ, rồi đi đến chỗ kia cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, với lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ các khổ; khéo tu phạm hạnh trong tám vạn bốn nghìn năm, thực hành bốn đẳng tâm[31] là từ, bi, hỷ, xả[32]; thân hoại mạng chung sinh lên Phạm thiên.
“Bấy giờ, vua Trường thọ nhớ những lời vua cha dạy, chưa bao giờ tạm quên, dùng pháp mà trị hóa, không để sai lệch; không đầy tuần lễ liền được làm Chuyển luân Thánh vương, bảy báu đầy đủ. Bảy báu đó là: xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, điển tạng báu, điển binh báu. Đó gọi là bảy báu. Lại có một nghìn người con trí tuệ dõng mãnh, thống lãnh bốn phương, hay trừ các khổ. Bấy giờ, vua Trường Thọ, bằng vương pháp như trên, làm bài kệ:
Kính
pháp, vâng lời Tôn,
Không
quên báo ân xưa.
Lại
hay trọng ba nghiệp,
Điều
kẻ trí quý trọng.
“Tôi, sau khi quán sát nghĩa này, đem Tăng nhất A-hàm này trao cho Tỳ-kheo Ưu-đa-la. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều có nguyên do.”
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bảo Ưu-đa-la:
“Thầy trước đây khi làm Chuyển luân Thánh vương không quên lời dạy vua cha. Nay tôi lại đem pháp này phó chúc, mong Thầy không để sai sót chánh giáo, chớ tạo hạnh phàm phu. Nay Thầy nên biết, nếu có ai trái mất thiện giáo của Như Lai, thì sẽ đọa vào trong hàng phàm phu. Vì sao? Vì lúc bấy giờ vua Ma-ha Đề-bà không đến được địa vị giải thoát cứu cánh, chưa giải thoát đến [552b1] nơi an ổn. Tuy được phước hưởng Phạm thiên, nhưng vẫn còn chưa đến được cứu cánh thiện nghiệp của Như Lai; đến đây mới gọi là nơi cứu cánh an ổn, khoái lạc cùng cực, được trời người cung kính, tất được Niết-bàn. Vì vậy cho nên, này Ưu-đa-la, hãy phụng trì pháp này, phúng tụng, đọc, niệm chớ để cho thiếu sót.”
Rồi thì, A-nan liền nói kệ:
Hãy
chuyên niệm nơi pháp.
Như
Lai từ đây sinh.
Pháp
hiện, thành chánh giác,
Đạo
Bích-chi, La-hán.
Pháp
hay trừ các khổ,
Cũng
hay thành quả chắc.
Niệm
pháp, tâm không rời;
Hưởng
báo nay, đời sau.
Nếu
người muốn thành Phật,
Giống
như Thích-ca Văn,
Thọ
trì pháp ba tạng,
Câu
cú không loạn sai.
Ba
tạng tuy khó trì,
Nghĩa
lý không thể cùng.
Hãy
tụng bốn A-hàm,
Cắt
đứt đường nhân thiên.
A-hàm
tuy khó tụng,
Nghĩa
kinh không thể tận.
Chớ
để mất giới luật,
Đây
là báu Như Lai.
Cấm
luật cũng khó trì,
A-hàm
cũng như vậy.
Giỏi
trì A-tỳ-đàm,
Hàng
phục thuật ngoại đạo.
Tuyên
dương A-tỳ-đàm,
Nghĩa
ấy cũng khó trì.
Hãy
tụng ba A-hàm,
Không
mất câu cú kinh.
Khế
kinh, A-tỳ-đàm,
Giới
luật, truyền khắp đời;
Trời
người được phụng hành,
Liền
sinh nơi an ổn.
Ví
không pháp Khế kinh,
Cũng
lại không giới luật;
Như
mù vào trong tối,
Bao
giờ mới thấy sáng?
Vì
vậy phó chúc Thầy,
Cùng
với bốn bộ chúng;
Hãy
trì, chớ khinh mạn,
Trước
Phật Thích-ca Văn.
Khi Tôn giả A-nan nói những lời này, trời đất sáu lần rung động. Chư Thiên tôn thần ở giữa hư không, tay cầm hoa trời rải lên người Tôn giả A-nan cùng chúng bốn bộ. Tất cả Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-la, Ca-lưu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v... đều hoan hỷ [552c1] và tán thán:
“Lành thay, lành thay, Tôn giả A-nan. Những lời nói mà khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối, không có điều nào là không khéo léo. Hãy cung kính Pháp, thật đúng như lời. Chư thiên và người đời không ai không do Pháp mà thành tựu. Nếu ai làm ác sẽ đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.”
Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan, ở giữa bốn bộ chúng, cất tiếng rống của sư tử, khuyên tất cả mọi người phụng hành pháp này.
Bấy giờ, ngay tại chỗ, ba vạn Trời Người được mắt pháp thanh tịnh.
Bấy giờ, bốn bộ chúng, chư Thiên, Người đời, nghe Tôn giả thuyết xong, hoan hỷ phụng hành.
Đoạn chép phụ cuối quyển 1 trong để bản, gồm 299 chữ (Hán). So sánh đoạn văn [552a1] ở trên.
Hôm
nay trên đầu ta
Đã
sinh tóc suy hao.
Thiên
sứ đã đến rồi.
Nên
xuất gia kịp lúc.
“Hiện tại ta đã hưởng phước nhân gian rồi, phải tự nổ lực để có đức lên trời. Ta hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y; với lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ các khổ.
“Bấy giờ, vua Trường Thọ bảo thái tử thứ nhất tên là Thiện Quán: ‘Nay, con biết không! Đầu ta đã sinh tóc bạc. Ý ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, với lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ các khổ. Con hãy nối ngôi ta, dùng pháp mà trị giáo hóa, chớ làm trái lại lời ta dạy mà làm việc phàm phu. Sở dĩ như vậy, là vì nếu có người nào trái lại lời ta, người đó làm việc phàm phu. Kẻ phàm phu thì ở mãi trong ba đường, tám nạn.’
“Bấy giờ, vua Ma-ha Đề-bà đem ngôi vua trao cho thái tử rồi, lại đem của báu ban cho Kiếp-tỉ, rồi tại nơi khác cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, với lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ các khổ; khéo tu phạm hạnh trong tám vạn bốn nghìn năm, thực hành bốn đẳng tâm là từ, bi, hỷ, xả; thân hoại mạng chung sinh lên Phạm thiên.
“Bấy giờ, vua Thiện Quán nhớ những lời vua cha dạy, chưa bao giờ tạm quên, dùng pháp mà trị hóa, không để sai lệch. Bạch Ca-diếp, ngài biết không, Ma-ha-đề-bà bấy giờ há là ai khác chăng? Chớ có quan sát như vậy. Vua bấy giờ là đức Thích-ca Văn nay vậy. Trường Thọ vương khi đó bây giờ là thân A-nan vậy. Thiện Quán khi ấy, nay là Tỳ-kheo Ưu-đa-la vậy, hằng thọ vương pháp chưa từng bỏ quen, cũng không đẻ bị cắt đứt. Bấy giờ, vua Thiện Quán lại tuân hành sắc chỉ của vua cha, bằng pháp mà trị hóa, không làm đứt vương giáo. Sở dĩ như vậy, vì khó có thể làm trái giáo huấn của vua cha.
Bấy
giờ Tôn giả A-nan bèn nói kệ: trở lại văn bản trên.
[1] Năng Nhân Đệ Thất Tiên 能仁第七仙, Phật Thích-ca Mâu-ni (Pāli: Sakka-muni) được gọi là vị Tiên thứ bảy (isi-sattama). Vị thứ nhất là Phật Ti-fbà-thi (Pāli: Vipassin). Xem Trường, No 1(1); Pāli, D.14. Mahāpadāna.
[2] Hán: quỹ 軌; dịch nghĩa khác của pháp; Pāli dhamma.
[3] Câu-di 拘夷; xem rương No 1(2): Câu-thi, hay Câu-thi-na-kiệt拘 尸 那 竭. Pl.: Kusinagara, nơi Phật nhập Niết-bàn.
[4] Hán: tứ đẳng 四等, hay tứ đẳng tâm, tức bốn vô lượng tâm (Pāli:cattasso appamaññayo).
[5] Phật nhường cho Đại Ca-diếp nửa chỗ ngồi: xem Tạp 41 (tr. 302a2).
[6] Nguyên Hán: Tam-phật 三佛, phiên âm Skt. Pāli: Sambuddha, Phật chánh giác. Cũng có thể hiểu là ba Phật quá khứ: Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm Mâu-ni, Ca-diệp.
[7] Đàn độ 檀度, tức đàn ba-la-mật, hay bố thí ba-la-mật (Skt. Pl.: dāna-pāramitā).
[8] Phát đạo ý: phát bồ-đề tâm.
[9] Câu-lân 拘鄰: Kiều-trần-như. Pāli: Koṇḍañña.
[10] Tu-bạt 須拔. Pl.: Subhadaparibbājaka, ngoại đạo xuất gia Subhada. Vịđệ tử cuối cùng. Xem Trường, No 1(2).
[11] Đàn-đạp-hòa; Pāli: gandhabba (Skt. gandharva), thần âm nhạc của Đế Thích; thường quen với phiên âm càn thát-bà hơn.
[12] Ưu-đa-la 優多羅. xem phẩm 4. Đệ tử. Có thể đồng nhất với Pāli: Uttara, đệ tử và thị giả của ngài Xá-lợi-phất.
[13] Tam thập thất đạo phẩm: 37 phần bồ-đề, giác phần. Pāli: bodhipakkhiyā dhammā.
[14] Tỳ-bà-thi 毘婆尸, xem Trường No 1(1). Pl.: Vipassin.
[15] Y-câu Ưu-đa-la 伊俱優多羅.
[16] Thức-cật 式詰; xem Trường No 1(1): Thi-khí 尸 棄. Pl.: Sikkhin.
[17] Mục-già Ưu-đa-la目伽優多羅.
[18] Tỳ-xá-bà 毗 舍 婆. No 2: Tỳ-xá-phù 毗 舍 浮. No 4: Tùy-diệp 隨葉. Pl.. Vessabhū. Xem Trường No 1(1).
[19] Long Ưu-đa-la 龍優多羅.
[20] Câu-lâu-tôn hay 拘 樓 孫. No 2: Câu-lưu-tôn 俱留孫. No 4: Câu-lâu-tần 拘樓秦. Pl.: Kakusandha. Xem Trường No 1(1).
[21] Điện Lôi Ưu-đa-la 雷電優多羅.
[22] Câu-na-hàm 拘 那 含. No 2: Câu-na-hàm Mâu-ni 俱那含牟尼. No 4: Câu-na-hàm Mâu-ni 拘那[04]含牟尼. Pl. Konāgamana. Xem Trường No 1(1).
[23] Thiên Ưu-đa-la 天優多羅.
[24] Nguyên trong bản: Minh Hành thành vi明行成為.
[25] Nguyên trong bản: Đaoh pháp ngự 道法御.
[26] Nguyên trong bản: Chúng hựu 眾祐.
[27] Ma-ha-đề-bà 摩訶提婆. Xem Trung No 26(67): Đại thiên nại lâm. Pāli: Makkhādeva.
[28] Cam lê viên 甘梨園. Đây chỉ khu vườn xoài tại Di-tát-la (Pāli: Mithilā). Xem Trung No 26(67): Đại thiên nại lâm大天柰林. Pāli: Makkhādeva-ambavana.
[29] Kiếp-tỉ 劫比. Có lẽ là người hớt tóc (nāpita?).
[30] Từ đây trở xuống cho đến bài kệ tiếp theo, xem phần chép thêm của để bản, cuối quyển 1, đoạn cuối Phẩm Tựa này.
[31] Tứ đẳng tâm 四等心, tức tứ vô lương tâm.
[32] Nguyên Hán: hộ 護, một cách hiểu khác từ Skt. upekṣā (Pal. upekkā).