Chương 2
QUAN ĐIỂM VỀ ĂN CHAY CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
Trước
tiên
phải nói ngay rằng ăn chay không phải là nét đặc thù
hay là sản phẩm riêng của Phật Giáo Đại Thừa nói
chung và của Phật Giáo Đại Thừa Trung Hoa nói riêng, nhất
là không phải từ thời Hòa Thượng Vân Thê Châu Hoằng,
bởi vì ăn chay đã có trong thời kỳ Phật còn tại thế
và được phát triển mạnh mẽ vào thời đại Asoka, vị
Hoàng Đế Ấn Độ trị vì từ năm 274 đến năm 232 trước
Thiên Chúa giáng sinh, tức thế kỷ thứ ba trước Tây lịch.
Trong
thời gian này và cho đến giữa thế kỷ thứ hai sau Tây
lịch, Phật Giáo Đại Thừa vẫn chưa được thiết lập.
Trong
suốt thời gian trị vì vương quốc Ấn Độ, Asoka đã trở
nên một đại quân vương Phật tử, lấy những tinh hoa của
Phật giáo và những lời giảng dạy của Đức Phật làm
thành chính sách trị nước của ông. Mọi nơi, Ngài ra lệnh
xây các bia đá "pillars of life" ghi lại giới
luật của Phật. Trên các bia này, Ngài đặc biệt nhấn
mạnh đến lòng từ bi và tính cách bất khả xâm phạm
của đời sống, cả con người lẫn súc vật. Ngài đã
đối xử với tất cả muôn loài chúng sinh bằng lòng từ
bi không phân biệt. Ngài cho xây cất không chỉ những bệnh
viện để săn sóc cho người đau ốm mà còn xây bệnh
viện săn sóc cho thú vật. Trong một bia đá có khắc những
hàng chữ sau: "Không nên lấy sự sống nuôi sự
sống. Cho đến rơm rạ, nếu còn côn trùng trong ấy, cũng
không nên đốt".
Không
những Ngài ăn chay trường mà còn cổ võ mọi người
ăn chay như Ngài. Trong Chỉ dụ số 1 khắc trên đá (tức
sắc lệnh bây giờ), Ngài ngăn cấm tất cả mọi hành động
giết thú vật để tế lễ thần linh. Một sắc lệnh khác,
Ngài ngăn cấm mọi hành động có thể làm đau đớn đến
thú vật. Tất cả việc săn bắn trên bộ, trên không và
dưới nước bị tuyệt đối ngăn cấm.
Về trường
hợp Phật Giáo Trung Hoa, đạo Phật được truyền qua xứ
này từ thế kỷ thứ nhất, lẽ dĩ nhiên việc ăn chay cũng
được mang theo và thăng trầm theo sự thăng trầm của
Phật Giáo.
Trong
những thời kỳ mạnh mẽ nhất phải nói tới triều đại
nhà Lương (502-549 A.D.), vua Lương đã cấm tất cả các thức
ăn thịt cá tại các buổi tiệc trong hoàng cung và yêu cầu
dân chúng ăn chay. Ngài cũng ngăn cấm việc giết thú vật
để tế lễ thần linh của Đạo giáo (Taoism) và cũng cấm
không cho dùng thú vật như tắc kè, rắn, nai, hổ, cọp,
v..v.. làm thuốc.
Đến
triều đại nhà Đường việc ăn chay còn mạnh hơn nữa,
chỉ riêng thủ đô Tràng An, kinh đô của Trung Hoa thời bấy
giờ có khoảng hai triệu dân mà có ít nhất là phân nửa
dân số ăn chay. [1]
Từ
sau triều đại nhà Đường, Phật giáo suy thoái và việc
ăn chay cũng ảnh hưởng theo mãi cho đến triều đại nhà
Minh, Phật giáo Trung Hoa mới được phục hưng lại và Hòa
Thượng Vân Thê Châu Hoằng (1565-1615) là người cổ võ
mạnh mẽ nhất, không những cho việc ăn chay mà còn phóng
sinh nữa. [2]
Như
vậy rõ ràng ăn chay đã có từ thời kỳ ban đầu của
đạo Phật và không phải là nét đặc thù hay là sản
phẩm riêng của Phật Giáo Đại Thừa, nhất là Phật Giáo
Đại Thừa Trung Hoa.
Thật
ra ăn chay là một phần của việc thực hành giáo pháp,
thực hành giới luật cấm sát sinh và thực hành hạnh
từ bi, một trong những tinh lý thiết yếu và quan trọng
của cả hai trường phái Nguyên Thủy và Đại Thừa.
Mỗi
sáng sớm tại các tu viện Phật Giáo Nguyên Thủy và một
số tu viện Phật Giáo Đại Thừa đều có đọc tụng Kinh
Từ Bi, [3] một bài kinh ngắn thuộc kinh hệ Nguyên Thủy và
sau đó, có nơi lấy nội dung bài kinh làm đề mục tham
thiền.
Thật
là khó hiểu khi mà hàng ngày vừa đọc tụng Kinh Từ
Bi và thực hành từ bi quán, lại vừa ăn thịt chúng
sinh!
Có
những quan điểm khác nhau giải thích sự kiện mâu thuẫn
kể trên. Ngài Philip Kapleau, một Thiền Sư nổi tiếng
tại Hoa Kỳ đã trình bầy trong quyển sách Cherish All Life
[4]rằng Ngài tin tưởng Đức Phật không thể nào cho phép
hàng tăng lữ ăn thịt. Thiền Sư cho rằng sở dĩ có việc
cho phép ăn thịt trong kinh hệ Pali là kết quả của việc
hiệu chỉnh kinh tạng trong các thời kỳ kết tập kinh điển
do những vị sư hay do những hệ phái bảo vệ quan điểm của
hệ phái mình hay cho chính cá nhân mình.
Tuy nhiên, các học giả Phật Giáo không tìm thấy kinh Jivaka Sutta, Majjhima Nikaya 55, bản tiếng Hoa trong tạng kinh Madhyama Agama, Majjhima Nikaya của Phật Giáo Trung Hoa và tỏ ý nghi ngờ Phật Giáo Trung Hoa đã cố ý bỏ sót kinh này. Điều này cũng được Hòa Thượng Thích Minh Châu nói đến trong quyển The Chinese Madhyma Agama And Pali Majjhima Nikaya: A Comparative Study [5]
Tưởng
cũng
nên biết qua về những lời của Đức Phật được ghi
chép vào kinh tạng.
Sau
khi thiết lập tăng đoàn (sangha), Đức Phật có ban hành
những giới luật (vinaya) để sự sinh hoạt của tăng đoàn
có tổ chức quy củ. Phần còn lại của những lời Ngài
dạy qua hình thức pháp thoại và vấn đáp được gọi
là pháp hay kinh (dharma, dhamma).
Ba
tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, các đại đệ tử của
Ngài, gồm năm trăm vị A-la-hán, nhóm họp tại thành Vương
Xá (Ràjagaha) để trùng tuyên lại những lời dạy của
Ngài. Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất này không
có một giới luật nào được đưa thêm vào và không
có một giới luật nào Đức Phật đặt ra cần sửa đổi.
Cũng tại kỳ kết tập này, kinh điển được phân chia ra
thành hai phần riêng biệt là Luật của Giáo hội (vinaya)
và Pháp thoại của đức Phật (sutta), và mỗi phần
được giao cho một vị trưởng lão cùng các môn đồ ghi
nhớ. Kinh luật như vậy được truyền miệng từ thầy đến
trò.
Một
trăm năm sau, vào năm 383 trước Tây lịch, kỳ kết tập
thứ nhì được tổ chức tại Phệ Xá Li (Vesali), gồm bẩy
trăm vị Thượng tọa, để kiết tập lại kinh điển và
thảo luận về vấn đề "Thập Sự Phi Pháp"
hay là mười điểm canh tân giới luật. Một số thầy tỳ
kheo không đồng ý thay đổi, một số khác cho rằng thay đổi
những giới luật nhỏ là cần thiết. Cuối cùng một nhóm
đã rời khỏi hội nghị ra thành lập Đại Chúng Bộ (Mahasanghika).
[6]
Từ
đây giáo đoàn đạo Phật chia thành hai bộ phái là Thượng
Tọa Bộ (Theravàda) và Đại Chúng Bộ. Trên đại thể, Thượng
Tọa Bộ là phái tuân thủ truyền thống, có khuynh hướng
bảo thủ, còn Đại Chúng Bộ là phái đổi mới, có
khuynh hướng cấp tiến.
Mãi
thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch tức vào thời A Dục Vương
(Asoka), kỳ kết tập thứ ba mới được triệu tập để
thảo luận về những quan điểm khác biệt của những vị
tỳ kheo thuộc các bộ phái khác nhau. Vào cuối kỳ hội
nghị, ngài Moggaliputta Tissa chủ tọa hội nghị đã đúc kết
cuốn Katha vatthu bác bỏ những lý thuyết và quan điểm
sai lầm hoặc không đúng của một vài bộ phái. Kỳ này
tam tạng kinh điển được chính thức viết bằng tiếng
Pali dựa theo ngôn ngữ Magadhi mà Đức Phật nói.
Đại
Chúng Bộ đã phát triển vào khoảng đầu Công nguyên,
và chuyển mình thành tông phái Đại Thừa và phát triển
mạnh trong thế kỷ thứ hai, thời đại vua Kaniska.
Như
vậy, sau một trăm năm Phật Niết bàn, giáo đoàn nguyên
thủy chia thành hai bộ Thượng Tọa và Đại Chúng; đến
khoảng hai trăm năm sau Phật Niết bàn thì từ trong Đại
Chúng Bộ lại chia thành tám phái; rồi đến khoảng từ
ba trăm đến bốn trăm năm sau Phật Niết bàn, từ trong
Thượng Tọa Bộ lại phát sinh ra mười phái, tổng cộng
có 18 phái, và hợp cả hai bộ chính lại thành 20 bộ phái.
Như
thế, sau khi Đức Phật nhập diệt, ba hội đồng kết tập
kinh điển đã được tổ chức trong vòng nhiều trăm năm
để thiết lập tạng kinh. Nhà nghiên cứu Phật học Edward
Conze trong quyển sách Ba
Mươi Năm Nghiên Cứu Phật giáo
đã lưu ý chúng ta rằng Đức Phật không nói bằng tiếng
Pali mà bằng ngôn ngữ Magadhi và ông nói rằng, giống như
Jesus, có thể đã thất lạc hết tư liệu nguyên thủy.
Trong kỳ hội nghị kết tập kinh điển lần thứ ba có ít
nhất mười tám hệ phái khác nhau và mỗi hệ phái đều
có riêng tư liệu và đều cho rằng hệ phái mình có thẩm
quyền.
Trở lại những điều khoản mà Đức Phật cho phép ăn ba thứ thịt, các học giả Phật giáo cho biết họ không tìm thấy trong bộ kinh cổ nhất The Mahasanghika Vinaya [7] mà chỉ tìm thấy trong kinh Jivaka Sutta, Majjhima Nikaya 55. Đây cũng là một nghi vấn của nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo.