Tổ Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN - BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE - ENGLISH VIỆT - ANH
Thiện Phúc
K
Kẻ Ăn Mày: Beggar.
Kẻ Cầu Nguyện: Those who pray by dedicating of merit or by merit
transference, or sharing one’s own merits and virtues with others.
Kẻ Cướp: Robber .
Kẻ Đào Thoát: An escapist.
Kẻ Lừa Đảo: Swindler.
Kẻ Thù: Adversary—Enemy.
Kẻ Trộm: Burglar—Thief
Kẻ Vạch: To get someone into trouble
Kẻ Xấu Xa: Demon—Devil—Mara.
Kẻ Yếu Hèn: The weak.
Kẽ Tóc Chân Tơ: In detail.
Kém: Less.
Kém Quan Trọng: Of less importance.
Kén Ăn: To be fastidious about one’s food.
Kén Chọn: To choose—To select.
Keo: Tên khác của chùa là Trần Quang Tự, tọa lạc tại thôn Dũng
Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Chùa được xây dựng năm 1608
bên bờ sông Hồng Hà, nên bị nước xoáy mòn dần. Năm 1930, Quận Công Nguyễn Quyên
đã cúng dường đất để xây lại ngôi chùa. Trong chùa có đại hồng chung được
đúc vào thời nhà Lê—Another name for Trần Quang Tự Temple, a famous ancient
temple, located in Dũng Nhuệ hamlet, Duy Nhất village, Vũ Thư district, Thái
Bình province. It was built in 1608 by the bank of the Red River, so it
has gradually been eroded. In 1930, Duke Nguyễn Quyên donated his own land for
rebuilding the temple. The great bell of the temple cast during the Lê dynasty.
Keo Kiệt: Stingy—Misery.
Kê:
1) Con gà: Kukkuta (skt)—A cock—A fowl—Chicken—Hen.
2) Kê cứu: To investigate.
3) Kê đầu kỉnh lễ: To prostrate oneself.
Kê Cẩu Giới: Ngoại đạo vùng Bắc Ấn, có loại trí thủ kê giới, cẩu giới,
kê thì suốt ngày đứng một chân, cẩu thì ăn phân nhơ bẩn—Heterodox sects in
northern India follow cock or dog discipline, e.g. standing on a leg all day,
or eating ordure, like certain ascetics.
Kê Dẫn Bộ: Gokulikas, Kukkulikas, Kukkutikas, or Kaukkutikas
(skt)—Một trong 20 bộ của Tiểu Thừa, còn gọi là Khôi Sơn Trụ Bộ, Quật Cự Bộ,
Cao Câu Lê Ca Bộ, một trong 20 bộ của Tiểu Thừa, thành lập khoảng 200 năm sau
ngày Phật nhập diệt và biến mất ngay sau đó—One of the twenty Hinayana
branches, a branch of the Mahasanghikas which established around 200 years
after the Buddha’s nirvana and early disappeared.
Kê Độc: Thân Độc—India—Hindu.
Kê Khai: To enumerate—To make a list.
Kê Khương Na: Kikana (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển,
Kê Khương Na là một dân tộc ở A Phú Hãn, trú ngụ khoảng giữa miền đông Kandhar
và miền nam Ghazna, vào khoảng những năm 630 sau Tây Lịch được cai trị bởi
những vị lãnh chúa độc lập, có lẽ theo niên kỷ của Ả Rập đây là dân tộc
Kykanan—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms,
Kikana is a people in Afghanistan, east of Kandahar, south of Ghazna, ruled 630
A.D. by independent chieftains, perhaps identical with the Kykanan of Arabic
chroniclers.
Kê Quý:
1) Người Tây Trúc gọi nước Cao Ly là Câu Câu Tra-Y Thiết La
(Câu Câu Tra là kê, Y Thiết La là quý)—Indian people called Korea by
Kukkutesvara.
2) Tôn quý loài gà: Honouring or reverencing the cock.
Kê Tác La: Kesara (skt).
1) Tóc hay lông: Hair.
2) Lông bờm của sư tử: Mane of a lion.
3) Lông quắn: Curly hair.
4) Tên một loại bảo châu: Name of a gem.
Kê Thủ: Phủ phục—To make obeisance by prostration.
Kê Túc Sơn: Kukkutapada (skt).
1) Núi Chân Gà, nơi tôn giả Ca Diếp nhập diệt ở xứ Ma Kiệt Đà,
nhưng người ta tin ngài hãy còn sống: Cock’s foot mountain, in Magadha, on
which Kasyapa entered into nirvana, but where he is still supposed to be
living.
2) Còn gọi là núi Lang Tích (dấu chó sói): Also called the
Wolf-Track.
3) Tôn Túc Sơn: Gurupada (skt)—Buddha’s Foot Mountain.
Kê Viên: Kukkutarama (skt)—Theo Tây Vực Ký, Kukkutarama còn gọi là
Kê Đầu Ma Tự hay Kê Tước Tự, một ngôi chùa trên núi Kê Đầu do vua A Dục xây (ở
phía đông nam cổ thành có ngôi già lam Quật Quật Tra A Lạm Ma mà đời Đường gọi
là Kê Viên, do vua Vô Ưu xây dựng. Vua Vô Ưu tín ngưỡng Phật pháp, kính cẩn
dựng chùa, chăm làm việc thiện, chiêu tập hàng ngàn Tăng chúng)—According to
The Great T’ang Chronicles of the Western World, Kukkutarama, a monastery on
the Kukkuta Mountain, built by Asoka.
Kế:
1) Búi tóc: Topknot—Tuft—The hair coil on top.
2) Cỏ gai: A thistle.
3) Kế bên: Annex.
4) Kế thừa: To inherit—To adopt.
5) Kế tục: Tiếp tục hay tương tục—To continue.
6) Kế toán: Accounting—To reckon.
Kế Bảo: Theo Kinh Pháp Hoa, “Kế Bảo” là hạt ngọc báu quý nhất cài
trên mái tóc của vị quốc vương (theo Kinh Pháp Hoa thì có một người có công to,
nhà vua bèn cởi viên minh châu cài trên tóc ban cho, để ví với việc Đức Phật
giảng thuyết Kinh Pháp Hoa cho hạng người đã ra khỏi sinh tử phân đoạn, mà tinh
tấn để lìa hẳn sinh tử biến dịch)—According to The Lotus Sutra, this is the
precious stone worn in the coiled hair on top of the king’s head. It is the
king’s most prized possession.
Kế Châu: See Kế Bảo.
Kế Danh Tự Tướng: Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, đây là sự y vào vọng chấp mà
lập ra danh từ hư giả (chỉ sự suy tính so đo giữa vật nầy với vật nọ)—According
to The Awakening of Faith, this is the stage of giving names (to seeming
things, etc.).
Kế Đô: Ketu (skt).
1) Sao kế đô, tên của hai chòm sao nằm bên trái và phải của
chòm sao Aquila: A comet, name of two constellations to the left and right of
Aquila—See Cửu Diệu.
2) Bất cứ vẻ sáng rực nào: Any bright appearance.
Kế Độ: Tarka or Vitarka (skt)—Tính toán—Phân biệt—To calculate—To
differentiate—To reckon.
Kế Hoạch: Plan.
Kế Lợi Cát La: Kelikila (skt)—Kế Lợi Tích La—Kế Lý Kế La—Tên của một vị
Kim Cang Thủ Bồ Tát—The attendant of a deva, one of the Vajrapanis.
Kế Lợi Da: Surya (skt).
1) Mặt Trời: The sun.
2) Thần mặt trời: The sun-god.
Kế Mẫu: Stepmother.
Kế Ngã Thực Hữu Tông: Kế Ngã Luận—Một trong 16 tông phái ngoại đạo. Tông nầy
vọng chấp vào ngã ly uẩn và phi ngã phi ly uẩn (cho rằng cái ta là có thực, là
thường nhất; do chấp có ta nên chấp có cuộc sống, từ đó mà sanh ra 5 cơ quan
cảm giác)—The sect that reckons on, or advocates, the reality of personality,
one of the sixteen heterodox sects.
Kế Sinh Nhai: Means of living.
Kế Tát La: Kesara (skt)—Tóc—Hair—Filament.
Kế Tân: Vương quốc cổ Kế Tân, bây giờ là Kashmir, nằm về phía tây
bắc Ấn Độ—Ancient Kashmir kingdom, situated in the north-east of India—See
Kashmir in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kế Thừa: To inherit something from someone.
Kế Tiếp: To succeed.
Kế Tục: To continue—To follow.
Kế Vị: To succeed to the throne.
Keà: Close to—Near to.
Kể:
To count—To mention—To enumerate.
Kể Trên: Above-mentioned.
Kể Truyện: To tell story—To relate.
Kệ:
Gatha (skt)—Già Đà—Già Tha—Phúng Tụng (gồm bốn câu với số chữ nhứt định trong
mỗi câu)—Chant—Metrical hymn or chant—Poem—Stanza—Verse.
Kệ Đà: Hymn—Chant—To hymn.
Kệ Huệ Năng: The verse of Hui Neng.
Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm?
Originally Bodhi has no tree,
The bright mirror has no stand.
Originally there is not a single thing,
Where can dust alight?
Kệ Khai Kinh: Verse for opening a Sutra.
· Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
(Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu)
The unsurpassed, deep, profound, subtle wonderful Dharma.
· Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ (Trăm
ngàn muôn kiếp khó tìm cầu)
In a hundred thousand million eons, it is difficult to
encounter.
· Ngã kim kiến văn đắc thọ trì (Con
nay nghe được xin trì tụng)
Now that I have come to receive and hold it, within my sight
and hearing.
· Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa
(Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu)
I vow to fathom the Thus Come One’s true and actual meaning.
Kệ Phá Địa Ngục: Stanza that destroys hell:
Nhược nhơn dục liễu tri.
If people want to really know.
Tam thế nhứt thiết Phật
All Buddhas of all times.
Ưng quán pháp giới tánh
They should contemplate the nature
of the cosmos.
Nhứt thiết duy tâm tạo
All is but mental construction
(Everything is made from mind).
Kệ Sám Hối: Verse of Repentance:
Từ vô thỉ con tạo bao nghiệp ác
From beginningless, I had done so
many vicious deeds
Do bởi tham, sân, si,
Only because of Greed, Anger and
Stupidity,
Từ thân, khẩu, ý mà sanh ra
They are coming from body, mouth
and mind
Nay con xin thành tâm sám hối tất cả.
Now I sincerely ask for forgiveness in my
repentance.
Kệ Tán: Dùng câu kệ tán thán công đức của người khác—To sing in
verse the praises of the object adored.
Kệ Tha: See Kệ.
Kệ Thần Tú: The verse of Shen Hsiu.
Thân là cội Bồ đề,
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi bặm.
The body is a Bodhi tree,
The mind like a bright mirror stand.
Time and again brush it clean,
And let no dust alight.
Kệ Tụng: Kệ đà—Hymn—Chant.
Kệ Tứ Liệu Giản Của Đại Sư Vĩnh Minh: Four options or choices from Yung Ming Master:
Có
Thiền có Tịnh, như cọp mọc sừng, đời nầy làm thầy người, đời sau làm Phật.
To
practice bothe Zen and the Pure Land, one is like a tiger with horns, in the
present life the cultivator is a teacher of man, in the future he will be a
Buddha or a patriarch.
Có
Thiền không Tịnh, mười tu chín lạc đường
To
practice Zen without the Pure Land, nine out of ten seekers of the way will
take the wrong road.
Không
Thiền có Tịnh, vạn tu vạn chứng.
To
practice the Pure Land without the Zen, ten thousand practice, ten thousand
will go to the right way.
Kệ Tự Tánh Của Lục Tổ Huệ Năng: The verse on the Self-Nature of the Sixth Patriarch Hui
neng.
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp.
How unexpected!
The self-nature is pure in itself.
The self-nature is orginally neither produced
nor destroyed.
The self-nature is originally
complete in itself.
The self-nature is originally without
movement,
The self-nature can produce the
ten thousand dharmas.
Kệ Vô Tướng Của Lục Tổ Huệ Năng: No-Mark Stanza from Hui-Neng Patriarch—Lục tổ muốn nhắc
nhở người tu không nên tìm lỗi người, vì càng dùng thời gian để tìm lỗi người
chúng ta càng xa đạo—Patriarch Hui-neng wanted to remind the cultivators try
not to see anybody’s faults, but our own because the more time we spend to find
other people’s faults the farther we are away from the Path:
· Nhược kiến tha nhơn phi (nếu là bậc
chân tu, chúng ta không bao giờ thấy lỗi đời)
He who treads the path in earnest, see not the mistake of
the world.
· Tự phi khước thị tả (Nếu như thấy
lỗi người, mình chê thì mình cũng là kém dỡ)
If we find faults with others, we ourselves are also in the
wrong.
· Tha phi ngã bất phi (Người quấy ta
đừng quấy).
When other people are in the wrong, we should ignore it.
· Ngã phi tự hữu quá (Nếu chê là tự ta
đã có lỗi).
For it is wrong for us to find faults.
· Đản tự khước phi tâm.
By getting rid of the habit of fault-finding,
· Đả trừ phiền não phá (Muốn phá tan
phiền não).
We cut of a source of defilement.
· Tắng ái bất quan tâm (Thương ghét
chẳng để lòng).
When neither hatred nor love disturb our mind.
· Trường thân lưỡng cước ngọa (Nằm
thẳng đôi chân nghỉ).
Serenely we sleep.
Kềm Chế: To refrain.
Kềnh Càng: Bulky.
Kết:
(A) Nghĩa của “Kết”—The meanings of “Bond”
· Trói buộc: To tie a
knot—Bound—Tie—Knot—Settle—Wind up—To form.
· Trói buộc của luân hồi sanh tử: The
bond of transmigration.
(B) Phân loại “Kết”—Categories of “bonds”
1) Tam Kết: Three bonds—See Tam Kết.
2) Ngũ Kết: Five bonds to mortality—See Ngũ Kết.
3) Ngũ Hạ Phần Kết: The five bonds in the lower desire-realms
or the lower fetters—See Ngũ Hạ Phần Kết.
4) Ngũ Thượng Phần Kết: The five higher bonds of desire still
exist in the upper realms of form and formlessness—See Ngũ Thượng Phần Kết.
5) Cửu Kết: The nine bonds that bind men to mortality—See Cửu
Kết.
Kết Án: To condemn—To sentence—To convict.
Kết Bạn: To make friends.
Kết Bệnh: Bệnh của sự trói buộc vào dục vọng và sanh tử luân hồi—The
disease of bondage to the passions and reincarnation.
Kết Cuộc: The end.
Kết Duyên: Kết duyên (với Phật Pháp) để được độ sau nầy. Căn bản
84.000 kiếp qua mà Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai đã dạy trong Kinh Pháp Hoa
cho 16 vị đệ tử để trở thành 16 vị Phật, mà Phật Thích Ca là lần tái sanh thứ
16—To form a cause or basis, to form a connection, e.g. for future salvation.
The basis or condition laid 84,000 kalpas ago by Mahabhijna-jnanabhibhu in his
teaching of the Lotus Sutra to 16 disciples who became incarnate as 16 Buddhas,
for the subsequent teaching of the Lotus scriptures by Sakyamuni, the last of
the 16 incarnations, to his disciples.
Kết Duyên Chúng: Một trong Tứ Chúng, do duyên kiếp trước còn nông cạn, chưa
được độ nên kết nhân duyên đắc đạo sau nầy, với hy vọng cải thiện nghiệp chướng
trong tương lai—The company or multitude of those who noe become Budhists in
the hope of improved karma in the future, one of the four groups of
disciples.
**
For more information, please see Tứ Chúng
Kết Giải:
1) Trói buộc và giải thoát: Bị phiền não trói buộc và giải
thoát tự tại—Bondage and release.
2) Giải thoát khỏi sự trói buộc: Giác ngộ được lý mà giải
thoát—Release from bondage.
Kết Giảng: Kết thúc một bài thuyết trình trong buổi bế mạc (kỳ an cư
kiết hạ hay buổi nhóm họp chư Tăng Ni)—Concluding an address, or the address,
i.e. the final day of an assembly.
Kết Giao: Làm bạn với ai—To form a friendship with someone.
Kết Giới: See Kiết Giới.
Kết Hà: Dòng sông trói buộc của khổ đau hay phiền não—The river of
bondage, i.e. of suffering or illusion.
Kết Hạ: See Kiết Hạ.
Kết Hợp: To associate—To unite—To combine.
Kết Kinh: See Kiết Kinh.
Kết Lậu: Kết và lậu là tên gọi khác của phiền não. Trói buộc và
luân hồi sanh tử là do bởi dục vọng—Bondage and reincarnation because of
the passions.
Kết Liên: To League—To unite—To ally.
Kết Liễu: To finish—To conclude—To close—To end.
Kết Luận: To end—To conclude—To come to a conclusion (an
end)—Conclusion.
Kết Nạp: To admit.
Kết Nghĩa: To make friends—To be friends with someone.
Kết Nghiệp: Sự trói buộc của nghiệp, hay nghiệp là kết quả của sự trói
buộc của dục vọng—The bond of karma, the karma resulting from the bondage to
passions or delusions.
Kết Nguyện:
1) Kết thúc hay hoàn thành lời nguyện: To conclude a vow.
2) Ngày bế mạc đại hội an cư kiết hạ: The last day of an
assembly (of a summer retreat).
Kết Oán: To create enemies.
Kết Phược: Tên khác của phiền não, dục vọng hay phiền não trói buộc
thân tâm—To tie and knot, i.e. in the bondage of the passions, or delusion.
Kết Quả Của Nghiệp: Karmic results—The natural reward or retribution for a
deed, brought about by the law of karma.
Kết Sanh: Sự trói buộc vào tái sanh hay thân trung hữu chết đi để
thác sanh vào thai mẹ (theo Câu Xá Luận: “lúc lâm chung thì trung hữu đối với
hai tâm niệm trái ngược nhau là yêu và ghét sẽ hiện khởi, đến khi nhập thai thì
đẩy bỏ cái tâm ghét chỉ chừa lại cái tâm yêu, bảo đây là của mình, rồi từ đó
sinh vui mừng, nên các uẩn lớn thêm lên, thân trung hữu liền mất đi và sinh hữu
hay kết sanh đã thành)—The bond of rebirth.
Kết Sử: See Kiết Sử.
Kết Tặc: Những kẻ trói buộc hay những tên giặc, ý nói dục vọng và
phiền não—Binders and robbers, the passions, or delusion.
Kết Tập Kinh Điển: Đức Phật đã nhập diệt, nhưng giáo lý của Ngài vẫn còn lưu
truyền đến ngày nay một cách trọn vẹn. Mặc dù giáo huấn của Đức Thế Tôn không
được ghi chép ngay thời Ngài còn tại thế, các đệ tử của Ngài luôn luôn nhuần
nhã nằm lòng và truyền khẩu từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Vào thời Đức Phật
còn tại thế, biết chữ là đặc quyền của giới thượng lưu ở Ấn Độ, vì thế truyền
khẩu giáo lý là một dấu hiệu cho thấy dân chủ được coi trọng trong truyền thống
Phật giáo đến mức cách trình bày giáo pháp bằng văn chương đã bị bỏ quên. Nhiều
người không biết chữ, cho nên truyền khẩu là phương tiện phổ thông và hữu hiệu
nhứt để gìn giữ và phổ biến giáo pháp. Vì có nhiều khuynh hướng sai lạc
về giáo pháp nên ba tháng sau ngày Đức Thế Tôn nhập diệt, các đệ tử của Ngài đã
triệu tập Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Phật Giáo để đọc lại di ngôn của Phật. Lịch
sử phát triển Phật giáo có nhiều Hội Nghị kết tập kinh điển với những hoàn cảnh
vẫn có phần chưa rõ. Lúc đầu các hội nghị nầy có thể là những hội nghị địa
phương chỉ tập hợp vài cộng đồng tu sĩ. Sau đó mới có những nghị hội chung—The
Buddha has passed away, but His sublime teaching still exists in its complete
form. Although the Buddha’s Teachings were not recorded during His time, his disciples
preserved them, by committing to memory and transmitted them orally from
generation to generation. At the time of the Buddha, literacy was a privilege
of the elite in India, and this another indication of the premium placed on
democracy within the Buddhist tradition that literary formulation of the
teaching was neglected for so long. Many people were not literate, so word of
mouth was the universal medium for preservation and dissemination of the
Dharma. Three months after the Buddha’s Parinirvana, there were some tendencies
to misinterpret or attempts were being made to pollute His Pure Teaching;
therefore, his disciples convened Councils for gathering Buddha’s sutras, or
the collection and fixing of the Buddhist canon. In the development of Buddhism,
several councils are known, the history of which remains partially obscure.
These Councils were originally probably localassemblies of individual monastic
communities that were later reported by tradition as general
councils.
(I) Hội Nghị Kết Tập Lần Thứ Nhất—The First Council: Ba tháng
sau ngày Đức Phật nhập diệt (vào khoảng năm 543 trước Tây Lịch), do nhận thấy
có khuynh hướng diễn dịch sai lạc và xu hướng suy yếu về giới luật trong nội bộ
Tăng Già sau khi Phật nhập diệt, nên Đại Hội kết tập kinh điển lần thứ nhất
được vua A Xà Thế tổ chức tại hang Pippala, có sách lại ghi là hang Saptaparni,
trong thành Vương Xá thuộc xứ Ma Kiệt Đà. Dù vị trí và tên của hang vẫn chưa
được xác định rõ ràng, nhưng không có gì nghi ngờ là Hội Nghị thứ nhất đã diễn ra
tại thành Vương Xá. Các học giả đều thừa nhận rằng Hội Nghị Kết Tập lần thứ
nhất nầy chỉ bàn về Kinh Tạng (Dharma) và Luật Tạng (Vinaya), phần Luận Tạng
không được nói đến ở đây. Trong hội Nghị nầy có 500 vị Tỳ Kheo tham dự, trong
đó có ngài Đại Ca Diếp, người được trọng vọng nhất và là bậc trưởng lão, và hai
nhân vật quan trọng chuyên về hai lãnh vực khác nhau là Pháp và Luật là ngài A
Nan và Ưu Ba Li đều có mặt. Chỉ hai phần Pháp và Luật là được trùng tụng lại
tại Đại Hội lần thứ nhất. Tuy không có nhiều ý kiến dị biệt về Pháp, có một số
thảo luận về Luật. Trước khi Đức Phật nhập diệt, Ngài có nói với ngài A Nan
rằng nếu Tăng Đoàn muốn tu chính hay thay đổi một số luật thứ yếu cho hợp thời,
họ có thể làm được. Tuy nhiên, vào lúc đó ngài A Nan vì quá lo lắng cho Đức
Phật nên quên không hỏi những luật thứ yếu là những luật nào. Vì các thành viên
trong Hội Nghị không đi đến thỏa thuận về những luật nào thuộc về thứ yếu nên
ngài Ma Ha Ca Diếp quyết định không có luật lệ nào đã được đặt ra bởi Đức Phật
có thể được thay đổi, và cũng không có luật lệ mới nào được đưa ra. Ngài Đại Ca
Diếp nói: “Nếu ta thay đổi luật, người ta sẽ nói đệ tử của Đức Cồ Đàm thay đổi
luật lệ trước khi ngọn lửa thiêu Ngài chưa tắt.” Trong Hội Nghị nầy, Pháp được
chia làm hai phần và mỗi phần được trao cho một vị trưởng lão cùng với đệ
tử của vị ấy ghi nhớ. Pháp được truyền khẩu từ thầy đến trò. Pháp được tụng
niệm hằng ngày bởi một nhóm Tỳ Kheo và thường được phối kiểm lẫn nhau để bảo
đảm không có sự thiếu sót cũng như không có gì thêm vào. Các sử gia đều đồng ý
truyền thống truyền khẩu đáng tin cậy hơn văn bản của một người viết lại theo
trí nhớ của mình vài năm sau hội nghị. Nhiều người nghi ngờ hiện thực lịch sử
của Hội Nghị Kết Tập Kinh Điển lần đầu nầy, nhưng có thể là việc biên soạn những
văn bản Kinh Luật thiêng liêng đầu tiên diễn ra tương đối sớm. Vào lúc Đại Hội
sắp kết thúc, có vị Tăng tên là Purana được những người tổ chức mời tham gia
vào giai đoạn bế mạc của Đại Hội, Purana đã khước từ và nói rằng ông chỉ thích
nhớ lại những lời dạy của Đức Phật như ông đã từng nghe từ chính kim khẩu của
Đức Phật. Sự kiện nầy cho thấy tự do tư tưởng đã hiện hữu từ thời khai mở của
cộng đồng Phật giáo—Three months after the passing of the Buddha (in about 543
B.C.), detecting tendencies within the Sangha toward loss of discipline, as
well as misinterpreting His Pure Teaching, the First Council was organized by
King Ajatasatru, and held at the Pippala cave, some said near the Saptaparni
cave, at Rajagriha in Magadha. Even though the site and name of the cave have
not yet been definitely identified. Nonetheless, there is no dispute about the
fact that it is at Rajagrha that the First Council met. It is accepted by
critical scholars that the First Council settled the Dharma and the Vinaya, and
there is no ground for the view that Abhidharma formed part of the canon
adopted at the First Council. In this Council, there were 500 Bhiksus, among
them Maha-Kasyapa was the most respected and elderly monk, and two very
important persons who specialized in the two different areas which are sutras
and vinaya were present. One was Ananda and the other was Upali. Only these two
sections, the Dharma and the Vinaya, were recited at the First Council. Though
there were no differences of opinion on the Dharma, there was some discussion
about the Vinaya rules. Before the Buddha’s Parinirvana, he had told Ananda
that if the Sangha wished to amend or modify some minor rules, they could do
so. However, on that occasion Ananda was so overpowered with grief because the
Buddha was about to pass away, he forgot to ask the Master what the minor rules
were. As the members of the Council were unable to agree as to what
constituted the minor rules, Maha-Kasyapa finally ruled that no disciplinary
rule laid down by the Buddha should be changed, and no new ones should be
introduced. Maha-Kasyapa said: “If we changed the rules, people will say that
the Buddha’s disciples changed the rules even before his funeral fire has
ceased burning.” At the Council, the Dharma was divided into various parts and
each part was assigned to an Elder and his pupils to commit to memory. The
Dharma was then passed on from teacher to pupil orally. The Dharma was recited
daily by groups of people who often cross check with each other to ensure that
no omissions or additions were made. Historians agree that the oral tradition
is more reliable that a report written by one person from his memory several
years after the event. The historicity of this Council is doubted by many.
Nevertheless, it is likely that the first collection of writings took place
relatively early. At the end of the First Council, a monk named Purana was
invited by the organizers to participate in the closing phases of the council,
but he declined, saying that he would prefer to remember the teachings of the
Buddha as he had heard it from the Buddha himself. This fact indicates the
freedom of thought existed at the time of the beginning of Buddhist community.
a) Ngài Đại Ca Diếp, người được mọi người trọng vọng nhất
mà cũng là bậc trưởng lão, là chủ tịch Hội Nghị—Maha Kasyapa, the most
respected and elderly monk, presided at the First Council.
b) Kế đó, ngài Đại Đức Ưu Ba Li/Upali trùng tụng lại những giới
luật của Phật bao gồm luật cho cả Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Ngài Ưu Ba Li đã tụng
đọc 80 lần các văn luật trong 90 ngày mới hoàn tất nên còn gọi là “80 tụng
luật.” Đây cũng là giới luật căn bản cho Phật giáo về sau nầy bao gồm những văn
bản sau đây—Then, Venerable Upali remembered and recited all the rules set
forth by the Buddha (rules of the Order), including all rules for monks and
nuns. Venerable Upali recited eighty times all these rules in 90 days. These
rules include:
· Luật Thập Tụng: Sarvastivada-Vinaya.
· Luật Tăng Kỳ: Samghika-Vinaya.
· Luật Tứ Phần: Dharmagupta-Vinaya.
· Luật Ngũ Phần: Mahissasaka-Vinaya.
c) Kế đó nữa là ngài A Nan, người đệ tử thân cận nhất của Phật
trong suốt 25 năm, thiên phú với một trí nhớ xuất sắc. Lúc đầu đã không được
xếp vào thành viên Hội Nghị. Theo Kinh Tiểu Phẩm, sau đó vì có sự phản đối của
các Tỳ Kheo quyết liệt bênh vực cho A Nan, mặc dù ông nầy chưa đắc quả A La
Hán, bởi vì ông có phẩm chất đạo đức cao và cũng vì ông đã được học kinh tạng
và luật tạng từ chính Đức Bổn Sư. Sau cùng A Nan đã được Đại Ca Diếp chấp nhận
vào Hội Nghị. A Nan đã trùng tụng lại tất cả những gì mà Đức Phật nói, gồm
những bộ kinh sau đây—Then, Venerable Ananda, the closest disciple and the
attendant of the Buddha for 25 years. He was endowed with a remarkable memory.
First Ananda was not admitted to the First Council. According to the
Cullavagga, later other Bhikhus objected the decision. They strongly interceded
for Ananda, though he had not attained Arhathood, because of the high moral
standard he had reached and also because he had learnt the Dharma and vinaya
from the Buddha himself. Ananda was eventually accepted by Mahakasyapa into the
Council, and was able to recite what was spoken by the Buddha (sutras and
doctrines), including the following sutras:
d) Năm bộ kinh A Hàm, còn gọi là A Kiệt Ma—Five Agamas.
· Trường A Hàm: Dirghagama Sutra
(skt)—Ghi lại những bài pháp dài—Collection of Long Discourses.
· Trung A Hàm: Madhyamaga Sutra
(skt)—Ghi lại những bài pháp dài bậc trung—Collection of Middle-Length
Discourses.
· Tăng Nhất A Hàm: Anguttara-agama
Sutra (skt)—Ghi lại những bài pháp sắp xếp theo số—Collection of Gradual
Sayings.
· Tạp A Hàm: Samyuktagama Sutra
(skt)—Ghi lại những câu kinh tương tự nhau—Collection of Kindred Sayings.
· Tiểu A Hàm: Khuddaka-agama (skt)—Ghi
lại những câu kệ ngắn—Smaller Collection.
*** For more information, please see
A Nan Đà in Vietnamese-English Section.
(II) Đại Hội Kết Tập Lần Hai—The Second Council:
(A) Đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức tại thành
Xá Vệ (Tỳ Xá Ly), 100 năm sau ngày Phật nhập diệt. Đại Hội nầy được tổ chức để
bàn luận về một số giới luật (có sự không thống nhứt về giới luật). Không cần
thiết phải thay đổi những giới luật ba tháng sau ngày Đức Phật nhập diệt vì lẽ
không có gì thay đổi nhiều về chính trị, kinh tế và xã hội trong khoảng thời
gian ngắn ngủi nầy. Nhưng 100 năm sau, một số chư Tăng (theo giáo lý nguyên
thủy) nhận thấy cần phải có sự thay đổi một số giới luật thứ yếu. Các nhà sư
thuộc phái Vaisali đã chấp nhận vàng và bạc của thí chủ cúng dường. Yasha, một
môn đồ của A Nan, còn đưa ra chín điều trách cứ đối với các thành viên của cộng
đồng Vaisali, nhứt là việc ăn uống vào những thời điểm bị cấm, về việc dùng
rượu, về việc các nhà sư cùng một cộng đồng lại làm lễ Bố Tát một cách phân
tán, vân vân. Hội Nghị lần thứ hai được mô tả cụ thể hơn nhiều trong các
văn bản, nói chung được thừa nhận vững chắc về mặt lịch sử—The Second Council
was held at Vaisali 100 years after the passing of the Buddha. This Council was
held to discuss some Vinaya rules (there was some disunity concerning matter of
discipline). There was no need to change the rules three months after the
Buddha’s Parinirvana because little or no political, economic or social changes
took place during that short interval. But 100 years later, some monks saw the
need to change certain minor rules One hundred years after the First Council,
the Second Council was held to discuss some Vinaya rules. There was no need to
change the rules three months after the Parinirvana of the Buddha bcause little
or no political, economic or social changes took place during that short
interval. But 100 years later, some monks saw the need to change certain minor
rules. The Second Council is considerably better documented in the texts
that the first and is generally recognized as a historical event. The Vaisali
monks had accepted gold and silver from lay adherents in violation of the
Vinaya rules. Moreover, they were accused by Yasha, a student of Ananda’s, of
nine further violations, including taking food at the wrong time, separate
observance of the Uposatha by monks of a community, and drinking alcoholic
beverages.
(B) Những nhà sư chính thống cho rằng không có gì nên thay đổi,
trong khi những vị khác thuộc phái Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly (Vaisali) đã khai trừ
trưởng lão Da Xá (Yasha) ra khỏi cộng đồng với nhiều lời buộc tội ngài. Họ đã
đề nghị mười điểm thay đổi như sau—The orthodox monks said that nothing should
be changed, while the monks of the Vajji from Vaisali expelled Yasha from the
community because of his accusations. They insisted on modifying some rules as
follows:
1) Cho phép đựng muối trong sừng trâu hay các đồ chứa bằng
sừng: Singilonakappa (p)—Gián tiếp cho phép sát sanh để lấy sừng, trong khi
phái chính thống cho rằng việc mang muối đựng trong cái sừng rỗng bị coi như
phạm giới cấm Ba Dật Đề thứ 38, về việc cấm tồn trữ thực phẩm và giới sát
sanh—Allowing monks and nuns to store salt in buffalo’s horns, while the
orthodox monks considered carrying salt in a hollowed horn. This practice is
contrary to Pacittiya 38, which prohibits (forbids) the storage of food and
killing.
2) Buổi trưa khi mặt trời đã qua bóng hai ngón tay vẫn ăn được:
Dvangulakappa (p)—Vẫn được phép ăn sau giờ ngọ. Việc nầy coi như bị cấm trong
Ba Dật Đề thứ 37 về giới không được ăn sau giờ ngọ—Allowing monks and nuns to
eat in the afternoon: The practice of taking meals when the shadow is two
fingers broad. This practice against Pacittiya 37 which forbids the taking of
food after midday.
3) Được đi qua một làng khác ăn lần thứ hai: Gamantarakappa
(p)—Sau khi ăn rồi, đi đến nơi khác vẫn ăn lại được trong cùng một ngày.
Việc làm nầy coi như bị cấm trong Ba Dật Đề thứ 35 về giới cấm ăn quá
nhiều—Allowing monks and nuns to eat the second time in a day: The practice of
going to another village and taking the second meal there on the same day. This
practice forbids in Pacittiya 35 which forbids over-eating.
4) Cho Bố tát ở riêng trong một khu: Avasakappa (p &
skt)—Thực hiện nghi thức Bố Tát (Uposatha) tại nhiều nơi trong cùng một giáo
khu. Điều nầy trái với các giới luật Mahavagga về sự cư trú trong một giáo
khu—Allow retreats for spiritual refreshment in a private place: The observance
of the Uposatha ceremonies in various places in the same parish. This practice
contravenes the Mahavagga rules of residence in a parish (sima).
5) Được phép hội nghị với thiểu số: Anumatikappa (p).
a) Dù không đủ số quy định như tam sư thất chứng, hội nghị vẫn
có hiệu lực như thường—Allowing ordination to proceed even though there are not
enough three superior monks and seven witnesses (see Tam Sư Thất Chứng).
b) Được phép yêu cầu chấp nhận một hành động sau khi đã làm.
Đây là vi phạm kỹ luật—Obtaining sanction for a deed after it is done. This
also amounts to a breach of monastic discipline.
6) Cho làm theo các tập quán trước: Acinakappa (p)—Đây cũng là
vi phạm kỹ luật—Allowing monks and nuns to follow their customs and habits
(customary practices and precedents): This is also opposed to the rules.
7) Cho uống các loại sữa sau bữa ăn: Amathitakappa (p)—Cho phép
uống các loại sữa dù chưa được lọc. Điều nầy trái với Ba Dật Đề thứ 35 về luật
ăn uống quá độ—Allowing monks and nuns to drink unrefined milk after the meal.
This practice is in contravention of Pacittiya 35 which prohibits over-eating.
8) Được uống rượu mạnh hòa với đường và nước nóng:
Jalogim-patum (p)—Việc làm nầy trái với Ba Dật Đề thứ 51, cấm uống các chất độc
hại—Allow monks and nuns to drink the drinking of toddy. This practice is
opposed to Pacittiya 51 which forbids the drinking of intoxicants.
9) Được ngồi tự do khắp nơi: Adasakam-nisidanam (p)
a) Được phép ngồi các chỗ rộng lớn, không cần phải theo quy
định ngày trước của Đức Phật—Allowing monks and nuns to sit down wherever they
like to, not to follow rules set forth by the Buddha before.
b) Được dùng tọa cụ không có viền tua. Việc nầy trái với Ba Dật
Đề thứ 89, cấm dùng tọa cụ không có viền—Allow using a rug which has no fringe.
This is contrary to Pacittiya 89 which prohibits the use of borderless sheets.
10) Được giữ vàng bạc: Jataruparajatam (p)—Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni
được phép cất giữ vàng bạc, cũng như được nhận vàng bạc từ đàn na tín thí. Điều
nầy trái với giới luật thứ 18 trong Nissaggiya-pacittiya—Allowing monks and
nuns to store gold and silver, and they are allowed to accept gold and
silver. This practice is forbidden by rule 18 of the
Nissaggiya-pacittiya.
(C) Đại
Đức Da Xá công khai tuyên bố những việc làm nầy là phi pháp. Sau khi nghe phái
Bạt Kỳ phán xử khai trừ mình ra khỏi Tăng Đoàn, Da Xá (Yasha) liền đi đến
Kausambi để tìm kiếm sự bảo hộ của các nhà sư có thế lực trong các vùng mà Phật
giáo bắt đầu phát triển (Avanti ở phía tây và ở miền nam). Da Xá mời họ họp lại
và quyết định để ngăn chận sự bành trướng của việc chà đạp đạo giáo và bảo đảm
việc duy trì luật tạng. Sau đó Da Xá đi đến núi A Phù, nơi trưởng lão Tam Phù
Đà đang sống để trình lên trưởng lão mười điều đề xướng của các tu sĩ Bạt Kỳ.
Da Xá yêu cầu trưởng lão Tam Phù Đà xem xét tánh cách nghiêm trọng của vấn đề.
Trong khoảng thời gian nầy có sáu mươi vị A La Hán từ phương Tây đến và họp lại
tại núi A Phù, cũng như tám mươi tám vị khác từ Avanti và miền Nam cũng gia
nhập với họ. Các vị nầy tuyên bố đây là vấn đề khó khăn và tế nhị. Họ cũng nghĩ
đến trưởng lão Ly Bà Đa ở Soreyya, vốn là người nổi tiếng uyên bác và từ tâm.
Nên họ quyết định cùng nhau đến gặp trưởng lão để xin sự hỗ trợ của ngài—The
Venerable Yasha openly declared these practice to be unlawful. After the
sentence of excommunication had been passed on him, he then went to Kausambi to
seek support from influential monks in all areas to which Buddhism had spread
(the western country of Avanti and of the southern country). He invited them to
assemble and decide the question in order to stop the growth of irreligion and
ensure the preservation of the Vinaya. Next, he proceeded to Mount Ahoganga
where Sambhuta Sanavasi dwelt to show him the ten thesis advocated by the
Vajjian monks. He asked the venerable to examine the question in earnest. About
the same time, some sixty Arhats from the Western Country and eighty-eight from
Avanti and the Southern Country came to assemble on Mount Ahoganga. These monks
declared the question to be hard and subtle. They thought of the Venerable
Revata who was at Soreyya and was celebrated for his learning and piety. So
they proposed to met him and enlist his support. After a good deal of
travelling they met the Venerable Revata at Sahajati. On the advice of
Venerable Sambuta Sanavasi, Yasha approached the Venerable Revata and explained
the issue to him. One by one, Bhikshu Yasha brought up the ten points and asked
for his opinion. Each one of them was declared to be invalid by the Venerable
Revata.
(D) Trong
khi đó, các tu sĩ Bạt Kỳ cũng chẳng ngồi yên. Họ cũng đến Câu Xá Di để xin được
trưởng lão Ly Bà Đa ủng hộ. Họ dâng cho ông nhiều lễ vật hậu hỷ nhưng đều bị
ông từ chối. Họ lại dụ dỗ được đệ tử của ông là Đạt Ma thỉnh cầu dùm họ, nhưng
trưởng lão vẫn một mực chối từ. Trưởng lão Ly Bà Đa khuyên họ nên trở về Tỳ Xá
Ly là nơi xuất phát vấn đề để mở ra cuộc tranh luận: Meanwhile, the Vajjian
monks were not idle. They also went to Sahajati in order to enlist the support
of the Venerable Revata. They offered him a lot of presents, but he refused
with thanks. They also induced his disciple, Uttara, to take up their cause,
but he failed. At the suggestion of Revata, the monks proceeded to Vaisali in
order to settle the dispute at the place of its origin.
(E) Cuối
cùng, nghị hội Vaisali tập hợp 700 nhà sư, tất cả đều là A La Hán, còn gọi là
hội nghị các trưởng lão. Tỳ Kheo A Dật Đa được chỉ định làm người tổ chức.
Trưởng lão Sabbakhami được bầu làm chủ tịch ủy ban. Từng điểm một của mười điều
cho phép của phái Bạt Kỳ được xem xét kỹ càng. Vì thấy 10 điều thay đổi trên
hoàn toàn vô lý nên một phán quyết của hội nghị đồng thanh tuyên bố việc làm
của các nhà sư Bạt Kỳ là phi pháp. Kết quả là các nhà sư Bạt kỳ ở Tỳ Xá Ly
(Vaisali) đã bị một ủy ban gồm bốn nhà sư thuộc cộng đồng phương tây và bốn vị
thuộc cộng đồng phương đông coi là có tội. Họ đều chấp nhận sự phán quyết
mà không phản kháng. Những thầy tu vi phạm giới luật coi như đã không tôn trọng
luật chính thống và đã bị khiển trách tùy theo lỗi lầm. Do đó giới luật trong
lần kết tập nầy hầu như không thay đổi. Trong văn bản tiếng Pali và Sanskrit
của Luật Tạng đều có kể lại hội nghị nầy: Finally a council composed of 700
monks, all arhats, also called the Council of the Theras. Bhikshu Ajita was appointed
the seatregulator. The Venerable Sabbakami was elected president. The ten
points were examined carefully one by one. After seeing these above ten changes
were so unreasonable. The unanimous verdict of the assembly declared the
conduct of the Vajjian monks to be unlawful. As a result, they (Vajjian monks
of Vaisali) were found guilty by a committee composed of four monks from
eastern and four from western regions, respectively. The Vaisali monks accepted
this judgment without any opposition. The erring monks were declared in
violation of the orthodox code of discipline and censured accordingly. Thus, in
this council, rules of monastic discipline have remained virtually unchanged.
Records of this council are found in both the Pali and Sanskrit versions of the
Vinaya-Pitaka.
(F) Nghị
Hội lần thứ hai đánh dấu sự phân phái giữa phe bảo thủ và phe tự do. Người ta
kể lại, nhóm sư Bạt Kỳ đã triệu tập một Hội Nghị khác có mười ngàn tu sĩ tham
dự với tên là Đại Chúng Bộ. Vào thời đó, dù được gọi là Đại Chúng Bộ, nhưng
chưa được biết là Đại Thừa: The Second Council marked a division between the
conservative and the liberal. It is said that Vajjian monks of Vaisali held another Council which was attended by ten thousand monks. It was called
The Great Council (Mahasangiti). Even though it was called Mahasanghika, it was
not yet known as Mahayana at that time).
(III) Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ
Ba—The Third Council: Hội nghị thứ ba được tổ chức tại thành Hoa Thị dưới sự
bảo trợ của vua A Dục, một Phật tử tại gia nổi tiếng—The Third Council was held
at Pataliputra, sponsored by King Asoka, a celebrated Buddhist layman.
(A) Nguyên nhân đưa đến Hội Nghị—Reasons for the Third Concil:
a) Một nhà sư thuộc thành Hoa Thị tên là Đại Thiên đưa ra luận
điểm cho rằng một vị A La Hán có thể để cho mình bị cám dỗ, nghĩa là có những
sự xuất tinh ban đêm và không trừ bỏ được sự ngu si cũng như những nghi ngờ về
giáo thuyết. Cuối cùng A La Hán có thể tiến bước theo con đường giải thoát,
theo Đại Thiên, nhờ ở một sự giúp đở bên ngoài và nhờ gia tăng khả năng tập
trung, do đó những cơ may cứu rỗi của người đó là nhờ ở việc lặp đi lặp lai một
số âm thanh. Những ý kiến khác nhau về những luận điểm ấy dẫn tới sự phân chia
các sư thành hai phe: A monk from Pataliputra, Mahadeva, put forward the
following position: An arhat is still subject to temptation, that is, he can
have nocturnal emissions. He is not yet free from ignorance. In addition, he is
still subject to doubts concerning the teaching. Moreover, according to
according to Mahadeva’s view, an arhat can make progress on the path to
enlightenment through the helpof others and, through the utterance of certain
sounds, he can further his concentration and thus advance on the path.
Differing views on these points led to division of the monks into two camps.
b) Tự cho mình đông hơn, những người bảo vệ những luận điểm của
Đại Thiên tự gọi mình bằng cái tên Mahasanghika hay cộng đồng lớn, còn những
đối thủ của họ, do những người “Cũ” đại diện, đó là những vị nổi bậc về đại trí
và đại đức, thì tự gọi mình là “Sthavira”: Those who affirmed these points of
Mahadeva’s, and who believed themselves to be in the majority, called
themselves Mahasanghika or Great Community. Their opponents, represented by the
“elders,” who were distinguished by outstanding wisdom and virtue, called
themselves Sthavira.
c) Với việc vua A Dục đi theo đạo Phật, nhiều tu viện nhanh
chóng phát triển về mặt vật chất và các tu sĩ có một đời sống đầy đủ dễ chịu
hơn. Nhiều nhóm dị giáo đã bị mất nguồn thu nhập nên ngã theo Phật giáo. Tuy
nhiên, dù theo đạo Phật, nhưng họ vẫn giữ tín ngưỡng, cách hành trì, cũng như
thuyết giảng giáo lý của họ thay vì giáo lý đạo Phật. Điều nầy khiến cho trưởng
lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đau buồn vô cùng, nên ông lui về ở ẩn một nơi hẻo
lánh trong núi A Phù suốt bảy năm. Số người dị giáo và tu sĩ giả hiệu ngày một
đông hơn những tín đồ chân chánh. Kết quả là trong suốt bảy năm chẳng có một tự
viện nào tổ chức lễ Bố Tát hay tự tứ. Cộng đồng tu sĩ sùng đạo từ chối không
chịu làm lễ nầy với những người dị giáo. Vua A Dục rất lo lắng về sự xao lãng
nầy của Tăng chúng nên phải ra lệnh thực hiện lễ Bố Tát. Tuy nhiên, vị đại thần
được nhà vua giao phó nhiệm vụ nầy đã gây ra một vụ thảm sát đau lòng. Ông ta
hiểu sai mệnh lệnh nhà vua nên đã chặt đầu những tu sĩ không chịu thực hiện
lệnh vua. Hay tin nầy, vua rất đau lòng. Ngài đã cho thỉnh trưởng lão Mục Kiền
Liên Tư Đế Tu về để tổ chức hội nghị: With the conversion of King Asoka, the
material prosperity of the monasteries grew by leaps and bounds and the monks
lived in ease and comfort. The heretics who had lost their income were
attracted by these prospects to enter the Buddhist Order. They continued,
however, to adhere to their old faiths and practices and preached their doctrines
instead of the doctrines of the Buddha. This caused extreme distress to Thera
Moggaliputta-Tissa who retired to a secluded retreat on Mount Ahoganga and
stayed there for seven years. The number of heretics and false monks became far
larger than that of the true believers. The result was that for seven years no
Uposatha or retreat (Pavarana) ceremony was held in any of the monasteries. The
community of the faithful monks refused to observed these festivals with the
heretics. King Asoka was filled with distress at this failure of the Sangha and
sent commands for the observance of the Uposatha. However, a grievous blunder
was committed by the Minister who was entrusted with this task. His
misunderstood the command and beheaded several monks for their refusal to carry
out the King’s order. When this sad news reported to Asoka, he was seized with
grief and apologized for this misdeed. He then invited Maggaliputta Tissa to
hold the Third Council.
d) Do đó mà Hội Nghị thứ ba được tiến hành với nhu cầu thanh
khiết hóa Phật pháp đang lâm nguy do sự xuất hiện của nhiều hệ phái khác nhau
với những luận điệu, giáo lý và cách hành trì đối nghịch nhau: Thus the Third
Council was held by the need to establish the purity of the Canon which had
been imperilled by the rise of different sects and their rival claims,
teachings and practices.
(B) Thấy thế vua A Dục cho tổ chức Đại Hội kết tập kinh điển lần
thứ ba tại thành Ba Tra Lợi Phất (Hoa Thị Thành, thủ đô cổ của Tích Lan),
khoảng vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch. Vua A Dục đã đích thân chọn 60.000 vị
Tỳ Kheo tham dự Hội Nghị. Trong khi đó trưởng lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đã
phụng mệnh vua A Dục chọn ra một ngàn vị Tăng tinh thông tam tạng kinh điển kết
tập chánh pháp. Hội nghị đã bàn thảo trong chín tháng về những ý kiến dị biệt
giữa những Tỳ Kheo của nhiều phái khác nhau. Tại Đại Hội nầy, sự khác biệt
không chỉ hạn hẹp trong Giới Luật, mà cũng liên quan đến Giáo Pháp nữa. Đây
không phải là một hội nghị toàn thể mà chỉ là một cuộc nhóm họp nhỏ thôi. Lúc
kết thúc Hội Nghị, ngài Mục Kiền Liên Tư Đế Tu (see Mục Kiền Liên Tư Đế Tu), đã
tổng hợp vào một cuốn sách gọi là Thuyết Sự Luận (Kathavatthupakarana), bác bỏ
những quan điểm và lý thuyết dị giáo cũng như những sai lầm của một số giáo
phái. Giáo lý được phê chuẩn và chấp thuận bởi Đại Hội được biết là Theravada
hay Nguyên Thủy. Vi Diệu Pháp được bao gồm trong Đại Hội nầy—Seeing this
division, King Asoka organized the Third Council (in the Third Century B.C.) at
Pataliputra, the old capital of Ceylon. King Asoka himself assigned 60,000
monks to participate in this Council. To obey the order of king Asoka,
Thera Tissa thereafter elected a thousand monks who were well versed in the
three Pitakas to make a compilation of the true doctrine. The Council lasted
for nine months to discuss the different opinion among the Bhiksus of
different sects. At this Council the differences were not confined to the
Vinaya but also connected with the Dharma. This was not a general Council, but
rather a party meeting. At the end of this Council, the President of the
Council, Moggaliputtra-Tissa, compiled a book called the Kathavatthu refuting
the heretical, false views and theories held by some sects. The teaching
approved and accepted by this Council was known as Theravada. The Abhidharma
Pitaka was included at this Council.
· Bố Tát Thuyết Giới: Upavasatha-Sila.
· Kết Tập Tam Tạng Kinh, Luật, Luận:
Tripitaka, Sutra, Vinaya, and Abhidharma.
(C) Một trong những thành quả quan trọng của Hội Nghị lần thứ ba
là nhiều phái đoàn truyền giáo đã được gởi đi khắp các xứ để hoằng dương Phật
pháp. Sau Đại Hội kết tập lần thứ ba, người con của Vua A Dục, ngài Hòa Thượng
Mahinda,và người con gái tên Tăng Già Mật Đa, đã mang Tam Tạng Kinh Điển đến
Sri-Lanka, cùng với những lời bình luận của Hội Nghị nầy. Họ đã đạt được thành
công rực rỡ tại đảo quốc nầy. Những kinh điển được mang về Sri-Lanka vẫn được
giữ gìn cho đến ngày nay không mất một trang nào. Những kinh điển nầy được viết
bằng chữ Pali, căn cứ vào ngôn ngữ của xứ Ma Kiệt Đà là ngôn ngữ của Đức Phật.
Chưa có gì gọi là Đại Thừa vào thời bấy giờ. Ngoài ra, qua những chỉ dụ của vua
A Dục, chúng ta được biết thêm về những phái đoàn truyền giáo Phật giáo được
nhà vua cử đi đến các nước xa xôi ở Á Châu, Phi Châu và Âu Châu. Phật giáo đã
trở thành một tôn giáo quan trọng của nhân loại phần lớn là nhờ ở các
hoạt động của phái đoàn nầy—One of the important results of thei Council was
the dispatch of missionaries to different countries of the world for the
propagation of Buddhism. After the Third Council, Asoka’s son, Venerable
Mahinda, and the king’s daughter, Sanghamitta, brought the Tripitaka to
Sri-Lanka, along with the commentaries that were recited at the Third Council.
They were extraordinarily successful in this island. The texts brought to
Sri-Lanka were preserved until today without losing a page. The text were
written in Pali which was based on the Magadhi language spoken by the Buddha.
There was nothing known as Mahayana at that time. Besides, from the edicts of king
Asoka, we know of various Buddhist missions he sent to far-off countries in
Asia, Afirca, and Europe. It is to a large extent due to these missionary
activities that Buddhism became one of the most important religions of
mankind.
(D) Sự xuất hiện của Đại Thừa—Coming of Mahayana: Giữa thế kỷ
thứ nhất trước Tây Lịch và thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch, hai từ Đại Thừa và Tiểu
Thừa xuất hiện trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Vào thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch,
Đại Thừa được định nghĩa rõ ràng. Ngài Long Thọ triển khai triết học “Tánh
Không” của Đại Thừa và chứng minh tất cả mọi thứ đều là “Không” trong một bộ
luận ngắn gọi là Trung Quán Luận. Vào khoảng thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch, hai
ngài Vô Trước và Thế Thân viết nhiều tác phẩm về Đại Thừa. Sau thế kỷ thứ nhất
sau Tây Lịch, những nhà Phật giáo Đại Thừa giữ vững lập trường rõ ràng nầy, từ
đó hai từ Đại Thừa và Tiểu Thừa được nói đến. Chúng ta không nên lẫn lộn Tiểu
Thừa với Nguyên Thủy, vì hai từ nầy hoàn toàn khác nhau. Nguyên Thủy Phật Giáo
nhập vào Sri-Lanka vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, lúc chưa có Đại Thừa xuất
hiện. Phái Tiểu Thừa xuất hiện tại Ấn Độ, có một bộ phận độc lập với dạng thức
Phật Giáo tại Sri-Lanka—Between the First Century B.C. to the First Century
A.D., the two terms Mahayna and Hinayana appeared in the Saddharma Pundarika
Sutra or the Sutra of the Lotus of Good Law. About the Second Century A.D.
Mahayana became clearly defined. Nagajuna developed the Mahayana philosophy of
Sunyata and proved that everything is void in a small text called Madhyamika-karika.
About the Fourth Century, there were Asanga and Vasubandhu who wrote enormous
amount of works on Mahayana. After the First Century A.D., the Mahayanists took
a definite stand and only then the terms of Mahayana and Hinayana were introduced.
We must not confuse Hinayana with Theravada because the terms are not
synonymous. Theravada Buddhism went to Sri-Lanka during the Third Century B.C.
when there was no Mahayana at all. Hinayana sects developed in India and had an
existent independent from the form of Buddhism existing in Sri-Lanka.
(IV) Hội Nghị lần thứ tư—The Fourth
Council:
(A) Hội
nghị nầy dường như chỉ là hội nghị của một phái, phái Sarvastivadin, hơn là một
hội nghị chung thật sự—The fourth council seems also to have been the synod of
a particular school, the Sarvastivadins, more than a general council.
(B) Đại
hội kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp Di La (Kashmir)
khoảng năm 70 trước Tây Lịch, dưới sự tổ chức của Vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka), nhưng lần nầy chỉ có sự tham dự bởi phái Nhất Thiết Hữu Bộ, chứ
không được phái Nguyên Thủy thừa nhận (Sau thời vua A Dục khoảng 300 năm tức là
vào khoảng năm 70 trước Tây Lịch, miền tây bắc Ấn Độ có vua Ca Nị Sắc Ca
(Kanishka), rất kính tin Phật pháp, thường thỉnh chư Tăng vào triều thuyết
pháp. Vì thấy pháp không đồng và luật lệ của nhóm nầy khác với nhóm kia, nên
vua bèn chọn 500 Tăng sĩ kiến thức uyên bác, và triệu thỉnh ngài Hiếp Tôn Giả
(Parsvika) tổ chức hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư. Hội nghị đề cử Thượng
Tọa Thế Hữu (Vasumitra) làm chủ tọa, còn ngài Mã Minh được mời từ Saketa đến để
soạn thảo Luận Thư (commentaries) đồng thời là Phó chủ tọa, địa điểm là tịnh xá
Kỳ Hoàn ở Ca Thấp Di La (Kashmir). Mục đích kỳ kết tập nầy là giải thích rõ ràng
ba tạng kinh điển, gồm 300.000 bài tụng. Sau đó chế ra bản đồng, đúc chữ in lại
tất cả, cho xây bửu tháp để tàng trử kinh điển. Không phải như ba lần kết tập
trước, lần nầy nghĩa lý kinh điển được giải thích rõ ràng. Tuy nhiên, ngài Hiếp
Tôn Giả Parsvika) là một vị đại học giả về Hữu Bộ, vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka)
cũng tin theo Hữu Bộ, nên sự giải thích trong lần kết tập nầy đều y cứ vào
“Nhất Thế Hữu Bộ (Sarvastivadah).” Chủ đích của Hội Nghị là phân tích lại một
phần Vi Diệu Pháp nhằm ngăn ngừa một số khuynh hướng cải cách bên trong cộng
đồng. Nhiều nguồn tin cho biết có sự tham dự của 500 vị A La Hán và 600 vị Bồ
Tát tại hội nghị nầy. Nghị Hội được triệu tập theo sự đề xuất của một cao tăng
uyên thâm Phật pháp là Hiếp Tôn Giả. Ngài Thế Hữu (Vasumitra) làm chủ tịch Hội
Nghị, trong khi ngài Mã Minh được mời đến từ Saketa, làm Phó chủ tọa, và cũng
là người lo biên soạn quyển Mahavibhasa, một quyển bình giải về Vi Diệu
Pháp. Hội Nghị nầy chỉ giới hạn trong việc kết tập những lời bình. Có vẻ như là
chủ thuyết nào tranh thủ được sự đồng ý rộng rãi nhất thì được chú ý nhất. Mà
dường như các tu sĩ của trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ chiếm đa số. Và rất có
thể là các chi nhánh quan trọng của trường phái Sarvastivada gồm những hệ phái
không chính thống cũng đã tham dự với số lượng khá đông. Không có chứng cớ là
Phật giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy đã tham dự. Tuy nhiên, do sự bành trướng quan
trọng sau đó của phong trào Sarvastivadin, người ta thừa nhận hội nghị nầy có
tầm quan trọng chung như một Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Phật Giáo—The fourth
Great Council was held around 70 B.C. in Kashmir under the patronage of King
Kanishka, but as the doctrine promulgated were exclusively Sarvastivada school.
It is not recognized by the Theravada. The Council was held to discuss new interpretation
of part of the Abhidharma that was intended to forestall reformatory
tendencies. According to various sources, this Council was attended by 500
arhats as well as 600 Bodhisattvas. King Kanishka summoned this Council at the
instigation of an old and learned monk named Parsva. The principal role is
ascribed to Vasumitra, while Asvaghosa, who was invited from Saketa to
help supervised the writing of the Mahavibhasa, a commentary on the
Abhidharma. There is no evidence that Mahayana Buddhism was represented in this
Council. However, because of the great importance later attained by the
Sarvastivadins, this synod came to be evaluated as a Council having general
authority.
· Mười muôn (100.000) bài tụng để giải
thích Kinh Tạng: Sutra Pitaka.
· Mười muôn bài tụng để giải thích
Luật Tạng: Vinaya Pitaka.
· Mười muôn bài tụng để giải thích
Luận Tạng: Hiện nay vẫn còn 200 quyển A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận do Ngài
Huyền Trang dịch—Abhidharma Pitaka.
· See Ca Ni Sắc Ca in
Vietnamese-English Section.
(V) Đại hội kết tập kinh điển lần thứ năm được vua Mindon của
Miến Điện tổ chức năm 1871 (Buddhist year 2414). Người ta nói có khoảng 2.400
tu sĩ có học vấn cùng các giáo sư tham dự. Các trưởng lão Jagarabhivamsa,
Nirindabhidhaja và Sumangala Sami luân phiên chủ trì hội nghị. Công việc kết
tập và ghi lại Tam Tạng kép dài trên năm tháng trong hoàng cung và kinh điển
được khắc vào 729 bản đá cẩm thạch và lưu trữ tại Mandalay. Điều đáng chú ý là
nhiều ấn bản khác nhau đã được xử dụng để đối chiếu trong hội nghị nầy: The
fifth council was held in 1871 at the instance of King Mindon of Burma. It is
said that about 2,400 learned monks and teachers participated in the Council.
The elders Jagarabhivamsa, Narindabhidhaja and Sumangala Sami presided in turn.
The recitation and recording of the Tripitaka on marble continued for about
five months in the royal palce and the Tipitika was carved on 729 marble slabs
and preserved at Mandalay. It should be noted that various available editions
of the Tripitaka were used for comparison and references in this Council.
(VI) Đại hội kết tập kinh điển lần thứ
sáu được tổ chức tại Ngưỡng Quang, thủ đô của Miến Điện vào năm 1954. Có khoảng
2500 Tỳ Kheo uyên bác trên khắp thế giới (từ Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan, Népal,
Cam Bốt, Thái Lan, Lào, và Pakistan) tham dự, trong đó có khoảng năm trăm Tỳ
Kheo Miến Điện, uyên thâm trong việc nghiên cứu và hành trì giáo lý của Đức
Phật, được mời đảm nhận việc kiểm lại văn bản tam tạng kinh điển Pali. Hội nghị
khai mạc năm 1954, và hoạt động liên tục đến ngày trăng tròn Vaisakha năm 1956,
nghĩa là trong dịp kỷ niệm 2.500 năm ngày Đức Phật nhập Niết Bàn: The sixth
Great Council was held in Rangoon in 1954. About 2,500 learned bhikkhus of the
various countries of the world (from India, Burma, Ceylon, Nepal, Cambodia,
Thailand, Laos, and Pakistan), among which 500 bhikshus from Burma, who were
well versed in the study and practice of the teachings of the Buddha, were
invited to take the responsibility for re-examining the text of the entire Pali
canon. The Great Council was inaugurated in 1954, was to go on till the
completion of its task at the full moon of Vaiskha in 1956, that is, 2,500th
anniversary of the Buddha’s mahaparinirvana.
** Nhiều người cho rằng Đại
Hội Kết Tập lần thứ năm và sáu là không cần thiết vì Kinh Điển đã hoàn chỉnh mỹ
mãn sau lần kết tập thứ tư. Ngoài ra, còn có nhiều Hội Nghị khác ở Thái Lan và
Tích Lan, nhưng không được coi như là Nghị Hội đúng nghĩa—Many people believed
that the fifth and the sixth councils were not necessary because after the
Fourth Council, all Tripitaka scriptures were collected satisfactorily.
Besides, there were many other Councils in Thailand and Ceylon, but they were
not considered Councils in the true sense of the term.
· Hội nghị được triệu tập dưới triều
vua Devanampiya Tissa (247-207 trước Tây Lịch). Hội nghị được chủ tọa bởi tôn
giả Arittha. Hội nghị nầy được tổ chức sau khi phái đoàn truyền giáo của Hòa
Thượng Ma Thẩn Đà, con vua A Dục, đến Tích Lan. Theo lời kể thì có sáu vạn A La
Hán tham dự. Thượng Tọa Arittha (người Tích Lan, đại đệ tử của Ma Thẩn Đà thuộc
dòng Thera Simhala) tuyên đọc Pháp điển: A Council was held during the reign of
King Devanampiya Tissa (247-207 B.C.) under the presidentship of Venerable
Arittha Thera. This Council was held after the arrival in the island of
Buddhist missionaries, headed by Thera Mahinda, a son of Emperor Ashoka.
According to tradition, sixty thousand Arhats took part in the assembly. Venerable
Thera Arittha, a Simhalese Bhikshu, a great disciple of Thera Mahinda in the
line of Simhalese Theras, recited the Canon.
· Theo Sangitisamva thì một Hội Nghị
được triệu tập dưới triều vua Mahanama vào năm 516 Phật Lịch. Trong hội nghị
nầy chỉ có các bài luận giải được dịch từ tiếng Simhala (Tích Lan) ra tiếng Ma
Kiệt Đà (pali) bởi tôn giả Bhadhanta Busshaghosa: As mentioned in the
Sangitivamsa, another Council was held during the reign of King Mahanama in 516
Buddhist calendar in which only the commentaries were translated from Sinhalese
into Magadhi (Pali) by Bhadanta Buddhaghosa.
· Một hội nghị khác diễn ra tại
Sri-Lanka vào năm Phật Lịch 1587 dưới triều vua Parakramabahu. Hội nghị nầy
diễn ra trong hoàng cung và kéo dài một năm. Các đại trưởng lão tuyên tụng lại
luận tạng của các Đại Trưởng Lão dưới sự chủ trì của tôn giả Đại Ca Diếp:
Another Council was held in 1587 Buddhist Calendar in the reign of King
Parakramabahu. The conference took place in the royal palce and lasted for one
year. The Council was presided by Venerable Mahakapsyapa, and it is said to
have revised only the commentaries of the tripitaka of the Mahatheras.
· Một Hội Nghị khác đã diễn ra tại
Thái Lan trong khoảng những năm 2000 hay 2026 Phật Lịch, và kéo dài một
năm. Nhằm xây dựng Phật giáo trên một nền tảng vững chắc, vua
Sridharmacakravarti Tilaka Rajadhiraja, vị vua trị vì miền Bắc Thái Lan, đã
triệu tập hội nghị nầy tại Chieng-Mai, lúc đó là kinh đô nước này: Another
Council took place in Thailand either in 2,000 or in 2,026 Buddhist
Calendar, and it lasted for one year. In order to establish Buddhism on a firm
basis, King Sridharmacakravarti Tilaka Rajadhiraja, the ruler of Northern
Thailand called this Council in Chieng-Mai, his capital.
· Một hội nghị khác ở Thái Lan, diễn
ra vào năm 2331 Phật Lịch, sau một cuộc chiến tranh giữa Thái Lan và một nước
láng giềng. Kinh đô cũ của Thái là Ayuthia bị thiêu rụi và nhiều bộ sách cùng
tam tạng cũng ra tro. Lại thêm Tăng chúng bị rối loạn và đạo đức sa sút vì tình
trạng thù địch kéo dài. Thế nên vua Rama I cùng hoàng đệ của ông triệu tập hội
nghị để lấy lại niềm tin của mọi người. Dưới sự bảo trợ của vương triều, có 218
trưởng lão và 32 học giả cư sĩ họp lại làm việc liên tục trong một năm để kết
tập bộ tam tạng: Another Council was held in Thailand in 2331 Buddhist
Calendar. After a war with its neighboring country, the old capital Ayuthia was
destroyed by fire and many books and manuscripts of the Tripitaka were reduced
to ashes. Moreover, the Sangha was disorganized and morally weakened by reason
of prolonged hostility. Thus, King Rama I and his brother called for a Buddhist
Council to restore the faith from everyone. Under the royal patronage, 218
elders and 32 lay scholars assembled together and continued the recitation of
the Tripitaka for about a year.
Kết Thán: Tán thán phần kết của bài kinh hay đoạn kinh—A sigh of
praise at the close of a passage of a sutra.
Kết Thân: To join by marriage.
Kết Thúc: See Kết luận.
Kết Tóc Xe Tơ: To get married.
Kết Trụ: Làm dấu kim cang ái trụ, như dấu hiệu của Đức Tỳ Lô Giá Na
để kiểm soát quỷ thần—Đây là một phương pháp của Mật Tông—To make the sign of
the Vajra armour and helmet, i.e. of Vairocana, in order to control the
spirits—A method of the esoteric sects.
Kêu Án: To convict—To sentence—To condemn.
Kêu Ca: To complain.
Kêu Cứu: To call (cry) for help.
Kêu La: To yell—To shout.
Kêu Na: To beseech.
Kêu Oan: To claim one’s innocence.
Kêu Rêu: To backbite.
Kêu Van: See Kêu nài.
Kích Bác: To criticize—To find fault with.
Kiêm: Cả hai—Both—Also.
Kiêm Đản Đối Đới: Bốn thời kỳ đầu của giáo thuyết Phật Đà được tông Thiên
Thai định nghĩa là Kim Đản Đối Đới (bốn thời kỳ nầy đều nói về tướng)—The first
four of the five periods of Buddha’s teaching defined by the T’ien-T’ai sect.
1) Kim: Thời Hoa Nghiêm nói về Viên Giáo và Biệt Giáo—Combined
teaching, including the complete and differentiating doctrines, the period of
Avatamsaka Sutra.
2) Đản: Thời A Hàm chỉ nói về Tạng Giáo Tiểu Thừa—Sole, i.e.
Hinayana only, that of Agamas.
3) Đối: Thời Phương Đẳng, bốn giáo Tạng Thông Biệt Viên được
thuyết giảng đối chiếu với nhau—Comparative, all four forms of doctrines being
compared, the period of the Vaipulya Sutras.
4) Đới: Thời Bát Nhã Viên giáo được hé mở để hoàn thiện những
giáo thuyết ở Tạng Thông Biệt—Inclusive, that of the Prajna, when the perfect
teaching was revealed as the fulfilment of the rest.
Kiêm Lợi: Cả hai cùng có lợi (cả mình lẫn người đều được lợi lạc)—Mutual
benefit; to benefit self and others.
Kiếm:
1) Lưỡi Kiếm: A sword (a two-edged sword).
2) Tìm kiếm: To search for—To look for.
Kiếm Ba: Kampa or Bhukampa (skt)—Chấn Địa Thiên—Deva of
earthquakes.
Kiếm Chác: To make profit
Kiếm Chuyện: To find fault with—To seek/pick a quarrel with.
Kiếm Lâm Địa Ngục: Asipattra (skt)—Một trong mười sáu tiểu địa ngục, địa ngục
rùng kiếm—One of the sixteen small hells, the hell of the forest of swords, or
sword-leaf trees.
Kiếm Luân Pháp: Một hệ thống kiếm xoay để hàng phục ma quân—A system of
revolving swords for subduing demons.
Kiếm Ma Xá Đề: Kiếm Ma Xá Đế.
1) Ma quân: A spirit or demon.
2) Con đẻ của dục vọng không kềm chế được: The ungovernable,
son of Kama (Love and Lust).
Kiếm Sơn: Kiếm Lâm Địa Ngục, and Địa Ngục in Vietnamese-English
Section.
Kiếm Thụ Địa Ngục: See Kiếm Lâm Địa Ngục.
Kiềm Chế: To subdue—To master one’s passions—To overcome.
Kiềm Chế Dục Vọng: To dominate one’s passions.
Kiềm Hãm: To check—To control.
Kiềm Tỏa: To restrain—To bind.
Kiểm: To check—To revise.
Kiểm Duyệt: To censor—Censorship.
Kiểm Soát: Samyama or Sannama (p)—Control—Restraint—Self-control.
Kiểm Soát Các Căn: Samyatendriyah (p)—Control of senses.
Kiểm Soát Và Quân Bình: Checks and balances
Kiểm Tra: To examine—To inspect.
Kiên:
1) Vai: Shoulder.
2) Kiên định: Drdha (skt)—Firm—Firmly fixed—Reliable.
Kiên Chí: Persevering—Constant—Patient
Kiên Cố: Vững chắc không thay đổi hay không bị lay chuyển—Firm and
sure.
Kiên Cố Huệ: Trí huệ không gì lay chuyển được—Strong in wisdom.
Kiên Cố Lâm: Rừng cây Sa La nơi Đức Phật nhập diệt (vì rừng cây Sa La
không hề tàn dù hạ hay dù đông nên gọi là Kiên Cố Lâm)—The grove of Sala trees,
in which Sakyamuni died.
Kiên Cố Ý: Ý chí vững chắc không gì lay chuyển được—Firm-willed.
Kiên Cố Ý Bồ Tát: Kiên Cố Ý Bồ Tát trong Thai Tạng Giới—Firm-Willed
Bodhisattva in the Garbhadhatu.
Kiên Định: To be determined.
Kiên Gan: Persevering—Patient.
Kiên Hạ: Vai kề vai—Shoulder by shoulder—One next to another.
Kiên Lao: Chỉ sự vững chắc của đất—Firm and stable; that which is
stable, the earth.
Kiên Lao Địa Thần: Còn gọi là Kiên Lao Địa Thiên, hay Kiên Lao Địa Kỳ, tên
của vị Nữ Thần Đại Địa, tức là đất vững bền và Thần kiên cố—The earth-goddess,
or deity, or spirit.
Kiên Mãn Bồ Tát: Dhrtiparipurna (skt)—Vị Bồ Tát kiên cố viên mãn, về sau
thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Phật—The firm and complete bodhisattva, who
is to be Buddha Padma-vrsabha-vikramin, attending on Padmaprabha.
Kiên Nhẫn: Persevering—Patient.
Kiên Pháp: Ba việc bảo đảm cho những người tín tâm vào tái sanh (ý
nói nếu quên đi thân mệnh, vứt bỏ của cải thế tục mà tu đạo thì sẽ có được cái
thân vô cực, cái mệnh vô cùng, và cái tài vô tận)—The three things assured to
the faithful in reincarnation.
1) Thân tướng hảo: Người tu đạo sẽ được cái thân vô cực—A good
body.
2) Trường Thọ: Mệnh vô cùng—A long life.
3) Tài sản vô biên: Tài vô tận—Boundless wealth.
Kiên Quyết: Firm—Determined.
Kiên Thân: See Kim Cang Thân.
Kiên Thệ Sư Tử: Sư Tử Kiên Thệ, hay thệ nguyện xả thân của sư tử khi đã
ngộ đạo. Đức Thích Ca Mâu Ni trong tiền kiếp khi còn ở nhân vị đã nói về công
đức của áo cà sa cho sư tử Kiên Thệ lông vàng nghe. Nghe xong sư tử bèn thể
nguyện xả thân—The firmly vowing lion, i.e. Sakyamuni in a previous
incarnation.
Kiên Thực: Kiên thật—Firm and solid.
Kiên Thực Tâm: Tâm kiên thật không gì có thể thay đổi hay lay chuyển
được—Firm heart.
Kiên Trí:
1) Trí huệ không có gì có thể thay đổi hay lay chuyển được:
Firm knowledge or wisdom.
2) Tên của Kim Cang Thần: Name of Vajrapani—See Vajrapani in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kiên Trì: To persevere.
Kiên Tuệ: See Kiên Ý.
Kiên Ý: Sthiramati (skt)—Còn gọi là Kiên Tuệ—Firm mind, also
called firm wisdom.
1) Tâm ý hay trí tuệ kiên cố không gì có thể thay đổi hay lay
chuyển được: Firm mind or wisdom.
2) Bồ Tát Sa La Mạt Để, thuộc Phật Giáo Đại Thừa, xuất hiện sau
khi Đức Phật nhập diệt khoảng 700 năm: Name of Sthramati Bodhisattva, an early
Indian monk of the Mahayana, about 700 years after the Buddha’s nirvana.
3) Bồ Tát Tất Xỉ La Mạt Để, soạn bộ Nhập Đại Thừa Luận:
Sthiramati Bodhisattva who composed The Commentaries on Entering Mahayana.
Kiến:
(A) Nghĩa của Kiến—The meanings of “Kiến.”
1) Giáo lý: Theory—Doctrine.
2) Kiến lập:
· Kiến lập cơ sở: To found—To set
up—To establish—To build a school, a market, a house, etc.
· Kiến lập môn phái: To found or to
set up a school of thought or practice.
3) Kiến Giải (thấy): Darsana (skt)—Nại Lạt Xả Nang—Suy nghĩ tìm
tòi để hiểu rõ mà chọn lựa (khẳng định sự lý, kể cả ý nghĩa chính đáng và không
chính
đáng)—Seeing—Discerning—Views—Opinions—Judgment—Thinking—Reasoning—Discriminating—Selecting
truth.
4) Niềm tin: Belief.
5) Thấy: Seeing—Thấy bằng—Seeing by:
a) Cái thấy của phàm phu—The seeing of ordinary people:
Dassanam (p)—Darsana (skt).
· Quan sát: Observing.
· Chú ý: Noticing.
· Khảo sát: Examining.
· Trầm ngâm suy tưởng: Contemplating.
b) Cái thấy của bậc Thánh nhân—The seeing of saintly people:
Darsayati (p)—Drisdarsam (skt).
· Thấy bằng trực tâm: Seeing with the
mind.
· Thấy bằng trực giác: Seeing by
divine intuition.
(B) Phân Loại Kiến—Categories of “Kiến.”—For more information,
please see Nhị Kiến, Ngũ Kiến Thô Thiển, Ngũ Kiến Vi Tế, Tà Kiến and Hữu Kiến.
Kiến Ái: Tất cả mọi mê hoặc về lý như ngã kiến tà kiến, cũng như
tất cả mọi mê hoặc về tham, sân, si đều là gốc rễ của khổ đau phiền não—Views
and desires are the root of all suffering, i.e. the illusion that the ego is a
reality and the consequent desires and passions.
**
For more information, please see Kiến
Hoặc Tư Hoặc and Tam Hoặc.
Kiến Chánh:
1) Thấy đúng theo Chánh Pháp: Seeing correctly.
2) Tên của một đệ tử Đức Phật, nghi ngờ về hậu thế: Name of a
disciple of the Buddha who doubted a future life.
Kiến Chánh Kinh: Một vị đệ tử của Phật tên là Kiến Chánh, nghi ngờ về hậu
thế. Nhân đó Phật đã đưa ra nhiều thí dụ để bác bỏ những thiên kiến mê chấp
(đoạn kiến và thường kiến) của Tỳ Kheo Chánh Kiến—A Bodhisattva name “Correct
Vision,” a disciple of the Buddha who doubted a future life, to whom the Buddha
is said to have delivered the contents of the Correct Vision Sutra.
Kiến Chân: Tattva-dris (skt)—Perceiving truth—Thấy được chân tánh
tuyệt đối của vạn hữu—To behold truth or ultimate reality.
Kiến Chấp: View-attachment.
Kiến Chí Bộ La: Kancipura (skt)—Kiến Chí Thành—Kinh đô của Dravida, bây
giờ là Conjevaram, khoảng chừng 48 dậm về phía tây nam Madras—Capital of
Dravida, the modern Conjevaram, about 48 miles south-west of Madras.
Kiến Chính: See Kiến Chánh.
Kiến Chướng: Các loại tà kiến dấy lên gây chướng ngại cho Bồ Đề Tâm—The
obstruction of heterodox views to enlightenment.
Kiến Đà Ca: Kanthaka (skt)—Ngựa “kiền trắc” mà Thái tử Tất Đạt Đa đã
cỡi ra khỏi kinh thành để xuất gia (người ta nói con ngựa nầy là hóa thân của
Đế Thích)—The horse on which Sakyamuni rode when he left home.
Kiến Đại: Kiến tính bao trùm khắp pháp giới, một trong thất đại như
sắc tính bao trùm khắp pháp giới—Visibility or perceptibility as one of the
seven elements of the universe.
Kiến Đạo:
1) Con đường của sự thấy biết chân lý: Darsanamarga
(skt)—Ditthimagga (p)—The path of insight.
2) Ditthapada (p)—Thấy được chân lý chấm dứt luân hồi sanh tử,
như các bậc Thanh Văn và Sơ Địa Bồ Tát (bậc đã thấy được chân lý)—Theory, the
way or stage of beholding the truth, i.e. that of the Sravakas and the first
stage of Bodhisattva (one who has seen the Truth).
** For more information, please see Tam Đạo
Kiến Đế: Chứng ngộ chân lý—The realization of correct views.
1) Bậc Thánh chứng quả Dự Lưu trong Tiểu Thừa: The Hinayana
stage of one who entered the stream of holy living.
2) Bồ Tát Kiến Địa trong Đại Thừa (trên bậc sơ địa): The
Mahayana stage after the first Bodhisattva stage.
Kiến Địa: Thấy được chân lý Tứ Đế, vị thứ tư trong thập địa, tương
đương với quả vị “Dự Lưu” trong Tiểu Thừa—The stage of insight—The discernment
of reality of the four Noble Truths, the fourth in the ten stages of progress
toward Buddhahood, agreeing with the fruit of stream-entry of Hinayana.
**
For more information, please see Thập Địa
Kiến Điên Đảo: Mắt nhận biết ngoại cảnh điên đảo hư ảo mà cho là thực,
một trong ba điên đảo—To see things upside down—To regard illusion as reality,
one of the three subversions (subverters).
**
For more information, please see Tam Điên
Kiến Độc: Chất độc hay sự độc hại của tà kiến—The poison of wrong
views.
Kiến Giải: Samakhya (skt)—Comprehension—Understanding.
Kiến Hành: Rational behaviour—See Ái Hành.
Kiến Hiệu: Effective.
Kiến Hoặc: Các loại phiền não và cám dỗ khởi lên từ tà
kiến—Perplexities or illusions and temptations arise from false views or
theories—Delusive views—Delusions of views.
Kiến Hoặc Tư hoặc: Ảo tưởng đưa đến tà kiến—Illusory or misleading views and
thoughts:
1) Kiến Hoặc: Các loại vọng kiến, phân biệt tà vạy, gây ra
những mê hoặc—Delusions in the visible world.
2) Tư Hoặc: Lấy tình cảm mê chấp tham, sân, si, mà nghĩ cảm về
vạn hữu trên thế gian—Illusions in the mental or moral world.
** For more information, please see Tam
Kiến Huệ: Do sự tu tập thiền định mà được phát trí tuệ về các thứ
kiến chấp—The wisdom of right views, arising from dhyana meditation.
Kiến Kết: Phiền não do tà kiến gây ra khiến chúng sanh lăn trôi
trong luân hồi sanh tử, một trong cửu kết—The bond of heterodox views, which
fastens the individual to the chain of transmigration, one of the nine
attachments.
**
For more information, please see Cửu Kết
Kiến Lập: Samaropa (skt).
· Xây dựng—Thành lập—Sáng lập—To
build—To establish—To errect—To set up—To found a school, sect, thought or
practice.
· Sự khẳng định hay sự thiết lập lý
trí, trái lại với đối lập: Assertion, or theory-making. Samaropa stands against
refutation (apavada).
Kiến Lập Trí: Pratishthapikabuddhi (skt)—Cái trí nhờ đó một mệnh đề được
thiết lập—The intelligence whereby a proposition is set up.
Kiến Lậu: Ảo tưởng tà kiến cho rằng những thứ giả hợp là có thật—The
illusion of viewing the seeming as real.
Kiến Nghị: Motion.
Kiến Phân Biệt: Drishtivikalpa (skt)—Các thứ kiến giải dựa vào sự phân
biệt nhị biên về hiện hữu –Views based on the dualistic discrimination of
existence.
Kiến Phật: Thấy báo thân và ứng thân của Phật—Beholding Buddha—To see
Buddha.
1) Hàng phàm phu và nhị thừa, do cái biết phân biệt nên chỉ
thấy được ứng thân của Phật: Due to clinging to discrimination, ordinary people
and Hinayana see only the nirmanakaya or body of incarnation of the Buddha.
2) Bồ Tát và Đại Thừa, không còn phân biệt nên thấy cả ứng thân
và báo thân Phật: Bodhisattvas and Mahayana, without clinging to
discrimination, see both the body of incarnation (nirmanakaya) and the
spiritual body or body in bliss (sambhogakaya) of the Buddha.
3) Những người không có duyên lành (không trồng căn lành) ở
kiếp trước không thấy cả hai thứ ứng thân và báo thân: Those who did not
cultivate good roots in their past lives, see neither nirmanakaya nor
sambhogakaya of the Buddha.
Kiến Phi Kiến: Những cái dễ thấy dễ biết và những điều sâu sắc huyền
diệu—The visible and the invisible—Phenomenal and noumenal.
Kiến Phược: Phiền não do tà kiến (cho những thứ giả hợp là có thật)
gây ra, trói buộc con nguời vào vòng sanh tử—The bond of the illusion of
heterodox opinions which binds men and robs them of freedom (mistaking the
seeming for the real).
**
For more information, please see Cửu Kết
Kiến Quốc: To found (build up) a state.
Kiến Sơ: Tên của một ngôi chùa tọa lạc tại làng Phù Đổng, huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội, Bắc Việt Nam. Theo Thiền Uyển Tập Anh và Đại Nam Thiền
Uyển Truyền Đăng Lục, chùa được xây vào trước năm 820 bởi Thiền Sư Cẩm Thành
người huyện Tiên Du. Trước kia sư tu ở chùa Phật Tích, sau được một ông phú hộ
họ Nguyễn mời về Kiến Sơ lập chùa. Đến năm 820, bên Tàu là đời nhà Đường, có
Thiền Sư Vô Ngôn Thông, trụ trì chùa Hòa An, thuộc tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc,
sang nước ta, đến làng Phù Đổng, được Thiền Sư Cảm Thành tôn làm Thầy, mời ở
lại trụ trì chùa Kiến Sơ. Từ đó Kiến Sơ trở thành trung tâm của Thiền Phái Vô
Ngôn Thông. Hiện tại trong chùa vẫn còn tượng Lý Công Uẩn và mẹ ông ở hai bên
điện thờ Tam Bảo. Trong điện thờ Tổ có gác chuông với kiến trúc nổi bậc và
chiếc khánh bằng đá cổ, đường kính 2 mét 3, chiếu cao sáu tấc, bề dầy 17 phân.
Kiến Sơ là một trong những ngôi chùa cổ của Việt Nam được xây cất trước thế kỷ
thứ 5, chùa đã được trùng tu nhiều lần—Name of a temple, located in Phù Đổng
village, Gia Lâm district, Hà Nội province, North Vietnam. According to Thiền
Uyển Tập Anh and Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, the temple was built
before 820 by Ch’an Master Cẩm Thành from Tiên Du district. He previously
practised Buddhism at Phật Tích Pagoda, then was requested by a rich landlord,
whose last name was Nguyễn, to move to Kiến Sơ temple and built it. In 820,
during the T’ang dynasty, Ch’an Master Wu Yun T’ung, Head of Hòa An Temple in
Kuang-Chou province, in China, arrived in Vietnam. He went to Phù Đổng village
and later became Ch’an Master Cẩm Thành’s teacher. He, then, was invited to
stay and appointed to be head of Kiến Sơ Temple. Since then, the temple has
become the center of the Wu-Yun-T’ung Sect. At present, the statues of Lý Công
Uẩn and his mother are placed on the left and right sides of the temple’s
Buddhist Trinity. Inside the Patriarch Hall is a remarkably architectural bell
tower and an old stone gong, 2.3 meters wide, 0.60 meter high, 0.17 meter
thick, has still been kept in the temple. Kiến Sơ is one of the most ancient
temples in Vietnam which was constructed before the fifth century. It has been
rebuilt many times—See Cảm Thành.
Kiến Tâm Kiến Tánh: Seeing (beholding) the Mind, beholding the Nature.
Kiến Tánh: Nhìn thấy được Phật tánh hay nhìn thấy bản tánh thật của
chính mình. Về mặt từ nghĩa, “kiến tánh” và “ngộ” có cùng một ý nghĩa và chúng
thường được dùng lẫn lộn với nhau. Tuy nhiên khi nói về sự giác ngộ của Phật và
chư tổ, người ta thường dùng chữ “ngộ” hơn là “kiến tánh” vì ngộ ám chỉ một
kinh nghiệm sâu hơn. Đây là một câu nói thông dụng trong nhà Thiền—To behold
the Buddha-nature within oneself or to see into one’s own nature. Semantically
“Beholding the Buddha-nature” and “Enlightenment” have virtually the same
meaning and are often used interchangeably. In describing the enlightenment of
the Buddha and the patriarchs, however, it is often used the word
“Enlightenment” rather than “Beholding the Buddha-nature.” The term
“enlightenment” implies a deeper experience. This is a common saying of the
Ch’an (Zen) or Intuitive School.
Kiến Tánh Thành Phật: Thấy được tự tánh và thành Phật—To see one’s own nature
and become a Buddha—To behold the Buddha-nature to reach the Buddhahood or to
attain enlightenment.
Kiến Tạo: To build—To errect—To construct.
Kiến Thiết: See Kiến Tạo.
Kiến Thủ: Kiến chấp tà vạy, một trong tứ thủ—Clinging to heterodox
views, one of the four kinds of clinging.
**
For more information, please see Tứ Thủ.
Kiến Thủ Kiến: Drstiparamasra (skt).
· Những tranh cãi do chấp vào ý kiến
cố chấp vào thiên kiến của mình, một trong ngũ Kiến—Wrong views caused by
attachment to one’s own erroneous understandings—To hold heterodox doctrines
and be obsessed with the sense of the self.
· Kiến thủ kiến (khư khư bảo thủ ý
kiến của mình)—Conservative standpoint: Lối nầy là khuynh hướng của những người
giữ lấy ý mình và chống lại sự thay đổi. Không ý thức được sự sai quấy, mà vẫn
giữ ý, không thèm nghe người khác; hoặc vì tự ái hay vì cứng đầu ngang
ngạnh cứ tiếp tục giữ cái sai cái dở của mình. Chẳng hạn như ở Việt Nam người
ta có thói quen đốt giấy vàng mã theo phong tục của Trung Hoa trong đám tang.
Kỳ thật, đám tang theo nghi thức Phật giáo thật đơn giản. Thân bằng quyến thuộc
tề tựu về tụng Kinh A Di Đà để hộ niệm cho người chết thoát khổ. Phật tử, nhất
là chư Tăng Ni thích được hỏa táng hơn là địa táng vì cách nầy vừa đở tốn kém
lại vừa hợp vệ sinh hơn. Hơn nữa, theo thời gian đất chôn sẽ tăng một cách đáng
kể làm giảm đi đất dành cho sự canh tác và xây cất các công thự tiện ích
khác—That is the tendency of those who maintain their point of view or resist
and oppose change. For example, there are some out-dated customs still practiced
in Vietnam such as using Chinese money papers and burning them at funeral
ceremonies. In fact, Buddhist funeral rites are simple. Relatives and friends
recite the Amitabha Sutra to help free the dead from suffering. Buddhists,
especially monks and nuns, prefer cremation to burial, since the first
mode is more economic, and hygienic than the second one. Moreover, with time,
the burial grounds would extend considerably, reducing thus the land reserved
for cultivation and other utilities.
**
For more information, please see Ngũ Kiến
Kiến Thủ Sứ: The trials of delusion and suffering from holding
heterodox doctrines.
Kiến Thức: Learning—Knowledge.
Kiến Thức Phàm Phu: Worldly knowledge.
Kiến Thức Phân Biệt Của Phàm Phu: Kiến thức biện biệt của phàm phu, phân biệt ta và người,
đúng và sai—Differentiating knowledge—For ordinary beings, it is the everyday
mind continually making distinction between self and others, right and
wrong—Provisional wisdom.
Kiến Thức Rộng: Wide knowledge.
Kiến Tính: See Kiến Tánh.
Kiến Tranh: Cố chấp nơi ý kiến sai lầm của mình mà tranh cãi—Wrangling
on behalf of heterodox views; striving to prove them.
Kiến Trọc: See Kiến Trược.
Kiến Trược: Drsti-kasaya (skt)—Tà kiến khởi lên làm vẩn đục Chánh
Pháp, một trong ngũ trược—Wrong views which cause corruption of doctrinal
views, one of the five corruptions.
**
For more information, please see Ngũ
Kiến Tu: Kiến hoặc và tu hoặc (kiến hoặc là mê hoặc về nghĩa lý mà
bậc kiến đạo phải dứt bỏ; tu hoặc là mê hoặc về sự việc mà người tu phải loại
trừ)—Wrong views and wrong views in practice (heterodoxy).
Kiến Tuệ: See Kiến Huệ.
Kiến Tư: Views and thoughts—See Kiến Hoặc and Tư Hoặc.
Kiến Tư Giới: The realm of view and thought.
Kiến Tướng: Chuyển Tướng—Theo Khởi Tín Luận, do cái nghiệp tướng thứ
nhất mà chuyển hóa thành các tướng có thể thấy được—The state or condition of
visibility, which according to the Awakening of Faith, arises from motion.
Kiến Văn:
1) Thấy và nghe—Experience—Knowledge—Learning—Seeing and
hearing.
2) Thấy Phật bằng mắt và nghe Phật pháp bằng chính tai của
mình—Beholding the Buddha with the eyes and hearing his truth with the ears.
Kiến Võng: Lưới bủa của tà kiến (trói buộc không cho thân tâm ta giải
thoát khỏi luân hồi sanh tử)—The net of heterodox views, or doctrines, which
binds men and rob them of freedom.
Kiến Vương Trai: Lễ cúng Trai Tăng ba ngày sau khi có người chết, khi mà
vong linh người chết đang chầu Diêm Vương (Lễ Kiến Diêm Vương)—The
service on the third day when the deceased goes to see King Yama.
Kiến Xứ: Ngay nơi tà kiến khởi sanh luân hồi—The state of wrong
views—The state of wrong views gives rise to transmigration.
Kiền Đạt Bà: Càn Thát Bà—See Gandharva in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Kiền Trắc: Kanthaka (skt & p)—Tên con ngựa mà Đức Phật đã dùng để
cỡi khi Ngài rời bỏ cung điện để đi xuất gia—The name of the steed (horse) on
which Sakyamuni Buddha was mounted when he left his palace to renounce the world
(rode away from home).
Kiện:
1) Bò thiến: A gelded bull, an ox.
2) Chốt khóa hay chốt bánh xe: The bolt of a lock.
3) Khóa lại: To lock.
4) Kiện cáo: To sue—To have a law-suit against someone.
5) Mạnh mẽ: Strong—Sturdy—Hard—Unwearied.
6) Một loại động vật nửa người nửa báo: A creature half man,
half leopard.
Kiện Cáo: Law suit—Case.
Kiện Dũng Tọa: Cách ngồi kiết già của Đức Phật, hai bàn chân tréo lên hai
đùi—The heoric posture of the Buddha with his feet on his thighs soles upward.
Kiện Đà La: Gandhara (skt)—Tên vương quốc cổ Kiện Đà La ở vùng bắc Ấn
Độ—Name of an ancient kingdom, north of India.
Kiện Đà Lê: Gandhara (skt)—Loại mật chú cho ta khả năng bay được—A
spell that gives power to fly.
Kiện Đạt: Gandha (skt).
1) Hương thơm: Smell—Scent.
2) Một loại cây làm nhang thơm: A tree producing incense.
Kiện Địa: Khanda (skt)—See Kiện Độ.
Kiện Độ: Khanda (skt).
1) Một miếng, một mảnh, một phần, một chương sách—A piece, a
fragment, a portion, a section, a chapter.
2) Quy luật tự viện: Monastic rules.
Kiện Đức: See Kiền Trắc.
Kiện Hoàng Môn: Cung điện của quan thái giám—Palace eunuchs.
Kiện Khang: To be in good health—See Kiện (4).
Kiện Nam:
1) Người bị thiến: Pandaka (skt)—A eunuch by castration
(deprive of testes, or ovaries; render impotent).
2) Thời kỳ thứ tư trong năm thời kỳ của bào thai, tức là 47
ngày sau khi thọ thai (thời kỳ kiên hậu): Ghana (skt)—The fourth in the five
periods of a foetus, a foetus of forty-seven days.
3) Vững chắc: Solid—Compact—Firm.
Kiện Từ: Kiến Chi—Kiến Từ—Kiền Từ—Thiển Thiết Bát hay chiếc bát cạn
bằng sắt, loại bát sắt nhỏ, một trong 8 vật cần có của một vị Tỳ Kheo—A bowl,
small almsbowl, one of the eight requisites of monks and nuns
(attha-parikkhara).
**
For more information, please see Tám Món
Kiêng: To abstain from—To forbear—To be on a diet.
Kiêng Cữ: Abstinence—Forbearance—Abstention---To abstain.
Kiêng Dè: To economize—To save.
Kiêng Nể: To have regard and consideration for—To respect.
Kiêng Thịt: To abstain from eating meat.
Kiêng Tránh: To abstain
Kiếp: Kalpa (skt).
(I) Nghĩa của Kiếp—The meanings of Kalpa:
1) Một khoảng thời gian rất dài: Aeon—Life—An infinitely long
time.
2) Khoảng thời gian một ngày một đêm trên cõi Trời Phạm Thiên
(tương đương với 4 tỷ 320 triệu năm): The length of a day and night of Brahma
(4.320.000.000 years).
3) Khoảng thời gian từ lúc vũ trụ được thành lập, đến hoại diệt
rồi lại được thành lập: A period of time between the creation and recreation of
a world or universe.
4) Lấy áo trời vỗ vào một tảng đá dài 40 dậm, cứ mỗi trăm năm
lại vỗ một lần, cứ thế cho đến khi áo trời rách nát, tiểu kiếp vẫn chưa hết—To
pass a heaven cloth over a solid rock 40 li in size once in a hundred years,
when finally the rock has been thus worn away a kalpa will not yet have passed.
(II) Phân loại Kiếp—Categories of Kalpas:
(A) Phân loại theo Phương cách, có ba loại—Methodologically
speaking, there are three types of kalpas:
1) Tiểu Kiếp: Small kalpa—See Tiểu Kiếp.
2) Trung Kiếp: Middling Kalpa—See Trung Kiếp.
3) Đại Kiếp: Mahakalpa—See Đại Kiếp.
(B) Phân loại theo sự cấu tạo vụ trụ—Có bốn loại kiếp—Categories
based on the formation of the universe—The kalpa is divided into four parts:
1) Thành Kiếp: The period of world formation.
2) Trụ Kiếp: The period of world-continuation (stability or
development).
3) Hoại Kiếp: The period of the world-dissolution.
4) Không Kiếp: The period of void.
Kiếp Ba: Kalpa (skt)—See Kiếp.
Kiếp Bất Hạnh: A wretched life
Kiếp Bố Đảm: Kapotana or Kebudhana (skt)—Vương quốc cổ, bây giờ là
Kebud, về phía Bắc của Samarkand—An ancient kingdom, the modern Kebud, north of
Samarkand.
Kiếp Bố La: Karpura (skt)—Hương long não—Camphor, described as
dragon-brain scent.
Kiếp Con Người Ngắn Ngủi: The shortness of our lifespan on earth.
Kiếp Diệm: Kalpa-flames—See Kiếp Hỏa.
Kiếp Độc: Kiếp bất tịnh, khi mà tuổi thọ giảm và bệnh hoạn hoành
hành chúng sanh—The impure or turbid kalpa, when the age of life is decreasing
and all kinds of diseases afflict men.
Kiếp Hải: Số lượng kiếp rất nhiều, ví như lượng nước biển—The ocean
of kalpas, great in number.
Kiếp Hỏa: Kiếp Diệm—Kiếp Tận Hỏa—Kiếp Thiêu—Hỏa tai trong thời hoại
kiếp, một trong đại tam tai (kiếp hỏa tai sẽ đốt hết từ mặt đất cho đến cõi sơ
thiền)—The fire in the kalpa destruction, one of the three great calamities.
Kiếp Hôi: Kiếp tro, thời kỳ chỉ toàn những tro, ngay sau sự tàn phá
của kiếp hỏa—Kalpa-ash, the ash after the fire kalpa of destruction.
Kiếp Kiếp: Generations after generations.
Kiếp Luân Hồi: In Samsara.
Kiếp Nầy Và Nhơn Quả: Kiếp nầy và nhơn quả theo Kinh Nhân Quả—Present life and
cause and effect according to Cause and Effect Sutra.
1) Kiếp Nầy Canh Cô Quạnh Quẻ Cũng Vì Kiếp Trước Hay Hãm Hại Người Khác: Being all alone in this life is the consequence of harming
other people with a wicked mind in previous life.
2) Kiếp Nầy Câm, Điếc, Đui Mù Cũng Vì Kiếp Trước Hay Phỉ Báng (Người Tụng Đọc)
Kinh Điển Đại Thừa: Being dumb, deaf, or blind in this
life is the consequence of slandering (people who read or recite) Mahayana
sutras in previous life.
3) Kiếp Nầy Chẳng Tu Còn Đợi Đến Kiếp Nào ?
If we do not cultivate in this life, then when will we do so ?
4) Kiếp
Nầy Có Xe Có Ngựa Vì Tiền Kiếp Hay Sửa Cầu Vá Lộ:
Having the previlege to ride on a horse or travel in luxurous sedan cars in
this life is the consequence of one’s contribution made to public welfare by
building the bridges and repairing the roads in his previous life.
5) Kiếp
Nầy Con Cháu Đầy Đàn Cũng Nhờ Tiền Kiếp Hay Phóng Sanh Lợi Vật: Having so many children and grandchildren in this life is
the consequence of setting free birds, animals as well as doing good deeds to
other beings in previous life.
6) Kiếp
Nầy Được Kính Trọng Nể Vì Cũng Nhờ Tiền Kiếp Hay Kính Trọng Nể Vì Người Khác: Being respectful in this life is the consequence of paying
respect to other people in previous life.
7) Kiếp
Nầy Hay Gây Hờn Chuốc Não Cho Người, Kiếp Sau Sẽ Bị Cọp Beo Rắn Hãm Hại: To create hatred and afflictions to other people in this
life, next life will be harmed by tigers, bears or snakes.
8) Kiếp
Nầy Hay Nói Thị Phi, Kiếp Sau Câm Điếc Không Ra Một Lời: Frequent gossip in this life, will be born dumb and deaf
in the next life.
9) Kiếp
Nầy Giàu Có Với Quần Là Áo Lụa Cũng Vì Tiền Kiếp Hay Cúng Dường Vải Và Áo Cho
Chư Tăng Ni: Being so rich as to wear in silk
fabrics or in satin dress in this life is the consequence of one’s offerings of
robes to the monks and nuns in his previous life.
10) Kiếp
Nầy Hại Người Để Hưởng Lợi Thì Kiếp Sau Làm Thân Trâu Ngựa Để Đền Trả Và Cuối
Cùng Bị Giết Làm Thịt: To benefit oneself by bringing
harm to others, next life will become a buffalo or a horse to pay retribution
and at the end of the life will be killed for meat.
10)
Kiếp Nầy Hạnh Phúc Vì Kiếp Trước Không Làm Khổ Người Khác: Being happy in this life is the consequence of not causing
physical or mental harm or damage to any being in previous life.
11) Kiếp
Nầy Hay Khinh Miệt Người, Kiếp Sau Sanh Vào Chỗ Hạ Tiện Cho Người Miệt Khinh: To look down upon other people in this life, will be
reborn in the mean and poor family and looked down by other people in the next
life.
12) Kiếp
Nầy Hay Ly Gián Đố Kỵ Kẻ Khác, Kiếp Sau Hôi Thúi Không Ai Tới Gần: To be jealous of others or to cause disputes among other
people, will have a body with bad odour (nobody dares to come near) in the next
life.
13) Kiếp
Nầy Không Đau Ốm Bịnh Hoạn Cũng Nhờ Kiếp Trước Hay Giúp Đở Thuốc Men Cho Người
Nghèo: Being free from illness in this
life is the consequence of donating medicines to the poor in previous life.
14) Kiếp
Nầy Không Tin Phật Pháp, Kiếp Sau Câm Điếc Để Không Nghe Gì: Don’t believe in the Buddhist doctrines in this life, will
be dumb and deaf (not be able to read and hear) in the next life.
15) Kiếp
Nầy Làm Thân Làm Tôi Tớ Người Cũng Vì Kiếp Trước Hay Hành Hạ Tôi Tớ Hay Nợ Nần
Không Trả: Working as a servant in this life
is the consequence of ill-treating servants or not paying debts in previous
life.
16) Kiếp Nầy Làm Thân Trâu Ngựa Cũng Vì Kiếp Trước Ác Độc Và Giựt Nợ: Becoming a cow or horse in this life is the consequence of
wicked deeds and not paying debts in previous life.
16) Kiếp
Nầy Lường Gạt Giựt Tiền Chùa, Kiếp Sau Phải Làm Thân Trâu, Bò, Heo Chó Để Đền
Trả: To deceive the monks and nuns to
get the money from the temple in this life, will become a buffalo, a cow, a pig
or even a dog to pay retribution in the next life.
17) Kiếp
Nầy Ngược Đãi Súc Vật, Kiếp Sau Sanh Thân Súc Vật Đền Trả: To maltreat animals, will be reborn as animals to pay
retribution in the next life.
18) Kiếp
Nầy Nhà Cao Cửa Rộng Nhờ Tiền Kiếp Hay Cúng Dường Gạo Thóc Cho Chùa: Being so rich as to be able to live in luxurious life is
the consequence of offerings rice to the temples in previous life.
19) Kiếp
Nầy No Cơm Ấm Áo Vì Tiền Kiếp Hay Giúp Đở Người Nghèo: Being sufficient with food and dress in this life is the
consequence of giving alms to the poor in one’s previous life.
20)
Kiếp Nầy Nói Xấu Người Tu, Kiếp Sau Mang Thân Làm Thằn Lằn Tắc Lưỡi Mỗi Đêm: To slander the monks and nuns (not to slander the
Triratna) in this life, will be reborn as a lizard to click the tongue every
night.
20) Kiếp
Nầy Phú Quí Thịnh Vượng Vì Tiền Kiếp Hay Xây Chùa Cất Miễu Cũng Như Dựng Nhà
Chẩn Tế: Being sufficient with luck,
nobility and prosperity in this life is the consequence of one’s generous
offerings made in the construction of the temples and monasteries as well as
building of the shelters for the needy in previous life.
21) Kiếp
Nầy Thấy Nạn Mà Cười, Kiếp Sau Hoạn Nạn Triền Miên Một Đời: To feel happy when seeing the misfortunes of others in
this life, will be in constant troubles and sicknesses in the next life.
22) Kiếp
Nầy Thấy Nguy Không Cứu, Kiếp Sau Phải Mang Thân Tù Đày: To refuse to rescue others when they are in danger, will
have the bad fate of staying in prison in the next life.
23) Kiếp
Nầy Thông Minh Đại Trí Cũng Nhờ Tiền Kiếp Hay Tụng Kinh Niệm Phật: Being full of great intelligence and wisdom in this life
is the consequence of praying and reciting Amitabha Buddha’s name in previous
life.
24) Kiếp
Nầy Trường Thọ Cũng Nhờ Kiếp Trước Hay Phóng Sanh Lợi Vật: Enjoying longevity in this life is the consequence of
setting free animals as well doing good deeds to other people in previous life.
25) Kiếp
Nầy Tướng Mạo Khôi Ngô Cũng Nhờ Kiếp Trước Hay Thành Tâm Dâng Hoa Cúng Phật: Being so beautiful and dignified in outer aspects in this
life is the consequence of sincere offerings flowers to the Buddha (statue or
image) in previous life.
26) Kiếp
Nầy Vinh Hiển Làm Quan Cũng Vì Tiền Kiếp Đắp Vàng Tượng Phật: Holding the position of high ranking officer in this life
is the consequence of one’s decorating the statue of the Buddha with gold leaf
in his previous life.
27) Kiếp
Nầy Vu Oan Giá Họa Cho Người, Kiếp Sau Sẽ Bị Người Vu Oan Giá Họa Để Hãm Hại: To bring harm to others by spreading false rumours, will
be harmed by false rumours in the next life.
Kiếp Người: Human life (condition).
Những
lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on Human Life in the
Dharmapada Sutra:
1) Được sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe
Chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời là khó—It is difficult to obtain birth
as a human being; it is difficult to have a life of mortals; it is difficult to
hear the Correct Law; it is even rare to meet the Buddha (Dharmapada 182).
2) “Mùa mưa ta ở đây, đông hạ ta cũng ở đây,” đấy là tâm tưởng
của hạng người ngu si, không tự giác những gì nguy hiểm—Here I shall live in
the rainy season, here in the winter and the summer. These are the words of the
fool. He fails to realize the danger (of his final destination) (Dharmapada
286).
3) Người đắm yêu con cái và súc vật thì tâm thường mê hoặc, nên
bị tử thần bắt đi như xóm làng đang say ngủ bị cơn nước lũ lôi cuốn mà không
hay—Death descends and carries away that man of drowsy mind greedy for children
and cattle, just like flood sweeps away a sleeping village (Dharmapada 287).
4) Một khi tử thần đã đến, chẳng có thân thuộc nào có thể thế
thay, dù cha con thân thích chẳng làm sao cứu hộ—Nothing can be saved, nor
sons, nor a father, nor even relatives; there is no help from kinsmen can save
a man from death (Dharmapada 288).
Kiếp Người Hữu Hạn: Human life is limited.
Kiếp Người Mong Manh Ngắn Ngủi: Human life is uncertain and ephemeral.
Kiếp Sau: Future life.
Kiếp Sơ: Thời kỳ đầu của Thành Kiếp hay lúc mới hình thành của thế
giới—The beginning of the kalpa of formation.
Kiếp Tai: Những thời kỳ tai họa của lửa, gió, nước trong thời hoại
kiếp (sau thành kiếp là hoại kiếp, cuối hoại kiếp có ba tai nạn hỏa tai, phong
tai, và thủy tai lan tràn phá hoại hết thế giới)—The calamity of fire, wind and
water during the kalpa of destruction.
Kiếp Tân Na: Kapphina (skt)—Kiếp Thí Na—Kiếp Tỷ Na—Kiếp Tỳ Nô—Một đệ tử
của Phật Thích Ca, tên trong Tăng đoàn là Đại Kiếp Tân Na. Ngài rất giỏi về
tinh tú, sau nầy sẽ thành Phật danh hiệu Phổ Minh Như Lai—A disciple of
Sakyamuni, whose monastic name was Mahakappina. He was very good at astronomy
and constellations. He is to be reborn as Samantaprabhasa Buddha.
Kiếp Tận Hỏa: See Kiếp Hỏa.
Kiếp Thiêu: See Kiếp Hỏa.
Kiếp Thủy: Đại thủy tai sanh ra vào thời hoại kiếp, một trong tam đại
tai—The flood in the kalpa of destruction, one of the three great calamities.
Kiếp Trước: Past life.
Kiếp Tỳ La: Kapila (skt).
1) Hoàng xích: Màu vàng đỏ hay nâu—Brown.
2) Vị Thánh Kiếp Tỳ La, người sáng lập ra Số Luận và trường
phái Số Luận: The sage Kapila, founder of the classical Samkhya
philosophy and the school of that name.
Kiếp Tỳ La Phạt Thốt Đổ: Kapilavastu (skt)—Nước Kiếp Tỳ La Phạt Thốt Đô hay Kiếp Tỳ
La Quốc, trước kia là Ca Tỳ La Vệ hay Ca La, đây là xứ sở của vua cha Tịnh Phạn
của Đức Phật Thích Ca. Đất nước nầy bị tiêu diệt ngay khi Đức Phật còn tại thế.
Theo truyền thuyết thì xứ nầy khoảng 100 dậm về phía Bắc của thành Ba La Nại,
tây bắc của Gorakhpur bây giờ—Capital of the principality occupied by the Sakya
clan; destroyed during Sakyamuni’s life, according to legend; about 100 miles
due north of Benares, northwest of present Gorakhpur.
Kiếp Tỳ La Thiên: Tên của một loại chư thiên hay một loại quỷ—Deva or demon,
called Kapila, or Kumbhira, or Kubera.
Kiếp Tỳ Tha: Kapittha (skt).
1) Tăng Khư Thi: Một vương quốc cổ ở Trung Ấn—An ancient
kingdom of Central India.
2) Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, đây là một vị
Bà La Môn đối xử tệ với Phật tử, sau đó tái sanh làm một loài cá, và cuối cùng
được Đức Thích Ca chuyển hóa: According to Eitel in The Dictionary of
Chinese-English Buddhist Terms, this is a Brahman of Vrji who ill-treated the Budhists of his time, was reborn as a fish, and was finally converted by
Sakyamuni.
Kiếp Tỳ Xá Dã: Nơi mà bây giờ người ta gọi là Kashmir—Said to be
presently Kashmir.
Kiết:
1) Da dê—Deer-skin.
2) Thiến: To castrate.
3) Tốt: Sri (skt)—Auspicious—Lucky—Fortunate.
Kiết Ấn: Phép truyền trao của Mật Giáo (người nhận Kết Ấn phải phát
Bồ Đề Tâm và phải thụ nhận phép quán đảnh)—A binding agreement sealed as
a contract, employed by the esoteric sects.
Kiết Bệnh: See Kết Bệnh.
Kiết Bố La: Karpura (skt)—Long não—Dragon-brain scent—Camphor.
Kiết Địa Lạc Ca: Khadiraka (skt)—Vòng thứ ba trong bảy vòng quanh núi
Tu-Di—The third of the seven circles or concentric mountains around Meru
(Sumeru).
Kiết Già: Padmasana (skt)—Thế ngồi hoa sen, theo kiểu ngồi của Phật
Tổ Thích Ca, hai chân tréo nhau, bàn chân ngửa lên—The Buddha’s sitting posture
with legs crossed and soles upward—To sit cross-legged.
a) Hàng Ma Kiết Già: Chân trái tréo lên chân phải—The left leg
is over right, the left hand is over the right hand for being subduing of
demons.
b) Cát Tường Kiết Già: Chân
phải tréo lên chân trái, bàn tay phải đặt trên bàn tay trái—The right leg is
over left for blessing, the right hand is being placed over the left one.
Kiết Già Bà Sa: Khadga-visana (skt)—Kiết Già Tỳ Sa Nã—Sừng tê giác—A
rhinoceros’ horn.
Kiết Già Phu Tọa: See Kiết Già.
Kiết Giới:
1) Kết thành giới luật để hộ trì—Bound
by the commandments.
2) Bàn thờ Phật được đặt tại một nơi cố
định, hay một vùng cố định trong tự viện: A fixed place, or territory; a
definite area; to fix a place for a monastery, or an altar;
3) Một số nhất định cho buổi họp chúng
Tăng: A determined number, e.g. for an assembly of monks.
4) Kiết Giới Ngũ Tướng: It is a term
specially used by the esoteric sects for an altar and its area, altar being of
five different shapes.
· Phương Tướng: A square shape.
· Viên Tướng: A round shape.
· Cổ Tướng: Rectangular shape.
· Bán Nguyệt Tướng: Semi-circle.
· Tam Giác: Triangle.
Kiết Giới Ngũ Tướng: The five different shapes of an altar—See Kiết Giới
(4).
Kiết Giới Nhị Bất Định: Aniyata (skt)—Hai giới quan hệ tới vấn đề tình dục, nhưng
sự vi phạm lại mơ hồ không rõ—Two offences which are connected with activities
of sex, but the violation is not clear—See Nhị Bất Định Giới.
Kiết Giới Thập Tam Tăng Tàn: Sanghadisesa (skt)—Mười ba giới Tổn Hại Tăng Tàn khiến cho
Tăng Ni phạm phải bị tạm thời trục xuất khỏi giáo đoàn—Thirteen offences which
entail upon a monk temporary expulsion from the Order—See Thập Tam Giới Tăng
Tàn.
Kiết Giới Tứ Ba La Di: Parajika (skt)—See Tứ Đọa.
Kiết
Hà: A river of bondage (suffering or
illusion).
Kiết
Hạ: Chấm dứt kỳ an cư kiết hạ—The end
of the summer retreat.
Kiết
Kinh: Chấm dứt bài—The end of a sutra.
Kiết
La Nã Tô Phạt Lạt Na: Karnasuvarna (skt)—See Yết La Nã
Tô Phạt Lạt Na.
Kiết
Lật Đà: Grdhra
(skt)—Linh thứu (kênh kênh)—Vulture.
Kiết
Lợi La: Một trong những vị Thế Tôn trong
nhóm Kim Cang giới—One of the honourable ones in the Vajra-dhatu groups.
Kiết
Lợi Vương: Kaliraja (skt)—Tiền kiếp của Kiều
Trần Như, khi còn làm quốc vương ông đã cắt tay chân của Ksanti-rsi vì những
thê thiếp của ông đã lạc vào thiền thất của vị nầy. Do sự tự tại của vị ẩn sĩ
nầy mà ông đã cải đổi và người ta đoán rằng về sau nầy ông sẽ là đệ tử của Phật
Thích Ca—A former incarnation of Kaundinya, when as king he cut off the hands
and feet of Ksanti-rsi because his concubines had strayed to the hermit hut. He
was converted by the hermit’s indifference, it was predicted that he would
become a disciple of Buddha.
Kiết
Ma: Karma (skt)—See Yết Ma.
Kiết
Nghiệp: See Kết Nghiệp.
Kiết
Nhật: A good or an auspicious day.
Kiết
Ni Ca: Kanaka (skt).
1) Tên của một vài loại cây màu vàng:
Name of several yellow plants.
2) Táo gai: Thorn apple.
3) Một loại đàn hương: A species of sandalwood.
Kiết
Nô Bộc: Kanabhuj or Kanada
(skt)—Người sáng lập trường phái Triết Lý Ấn Độ Vaisasika—Founder of Vaisesika
school of Indian philosophy.
Kiết
Phược: See Kết Phược.
Kiết
Sử: Fetters.
1) Kiết và sử, hai tên gọi khác nhau
của phiền não, kiết là trói buộc thân tâm kết thành quả khổ, sử là theo đuổi và
sai sử chúng sanh—The bondage and instigators of the passions, two other names
for afflictions.
2) Theo Thanh Tịnh Đạo, kiết sử là mười
pháp khởi từ sắc tham; gọi là kiết sử vì chúng trói buộc các uẩn trong đời nầy
với các uẩn đời kế tiếp, hoặc trói buộc nghiệp với quả, hoặc trói buộc hữu tình
vào đau khổ. Vì bao lâu cái nầy còn hiện hữu thì cái kia không chấm dứt: The
fetters are the ten states beginning with greed for the fine-material, so
called because they fetter aggregates in this life to aggregates of the next,
or karma to its fruit, or beings to suffering. For as so long the ones exist there
is no cessation of the others—See Ngũ Hạ Phần Kết, and Ngũ Thượng Phần Kết in
Vietnamese-English Section.
** For more information, please see Sử (3).
Kiết
Tặc: See Kết Tặc.
Kiết
Tập: The collecting and fixing of the
Buddhist canon. The first assembly was presided by Kasyapa (Ca Diếp), Ananda
for the Sutras (Kinh) and the Adhidharma , and Upali for the Vinaya
(Luật)—See Kết Tập.
Kiết Thán: See Kết Thán.
Kiết Thất: Retreats.
Kiết Thất Định Kỳ: Periodic retreats.
Kiết Tra Bố Đảm Na: See Yết Tra Bố Đảm Na.
Kiết Tường: See Cát Tường.
Kiết Xác: Very poor.
Kiệt:
1) Đơn vị tương đương với một phần 32.000 do tuần—A unit
equivalent to the 32,000th part of a yojana.
2) Kiệt sức: Exhausted—Used up—Finished.
3) Kiệt xuất: Utmost.
Kiệt Chi: See Tăng Kỳ Chi.
Kiệt Đà La: Khadira or Karavira (skt)—Loại gỗ cứng—Hard wood.
Kiệt Liệt:Very famous.
Kiệt Lực: To be exhausted.
Kiệt Quệ: Exhausted.
Kiệt Sức: To be burned out—To be worn out—To be exhausted.
Kiệt Tác: Masterpiece.
Kiệt Xoa: Một nơi trên núi Karakoram mà theo ngài Pháp Hiền, nơi đây
các vương triều đã từng tổ chức những cuộc cúng dường Trai Tăng hay những chúng
hội thật vĩ đại. Theo Eitel trong trung Anh Phật Học Từ Điển, thì đây là vùng
Khasa, nơi trú ngụ của một bộ tộc cổ Kasioi trong vùng Paropamisus; trong khi
những học giả khác thì cho rằng đây có lẽ là những vùng bây giờ là Kashmir,
Iskardu, hay Kartchou—A place said to be in Karakoram mountains, where
according to Fa-Hsien formerly great assemblies were held under royal patronage
and with royal treatment. Eitel, in The Dictionary of Chinese-English Buddhist
Terms, gives it as Khasa, and says an ancient tribe on the Paropamisus, the
Kasioi of Plotemy; others give different places, i.e. Kashmir, Iskardu,
Kartchou.
Kiệt Xuất: Outstanding
Kiêu:
1) Sự kiêu ngạo (cậy vào sự việc trôi chảy hay tài của mình mà
sanh lòng kiêu ngạo):
Arrogant—Haughty—Proud—Boastful—Bragging—Self-indulgent—Indulgent.
2) Tưới nước: To sprinkle—To water.
Kiêu Đàm Di: Gautami (skt)—See Ma Ha Ba Xà Ba Đề in Vietnamese-English
Section.
Kiêu Khang: Hầm hố của ngã mạn cống cao—The pit of pride and
arrogance.
Kiêu Mạn: Kiêu mạn là tên một loại phiền não, một trong ngũ thượng
phần kết—Arrogance and pride, a kind of klesa, one of the five higher bonds of
desire—See Ngũ Thượng Phần Kết.
Kiêu Ngạo: See Kiêu.
Kiêu Phạm Ba Đề: Gavampati (skt)—Còn gọi là Ca Phạm Ba Đề, Cấp Phòng Bát
Để, Kiêu Phạm Bát Đề, Kiều Phạm Ba Đề, hay Kíp Phòng Bát Để, dịch là Ngưu Thi
hay Ngưu Vương, là tên một vị Tỳ Kheo có cái miệng cứ nhai tới nhai lui như
trâu nhai lại vì tội của đời quá khứ (theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa, tiếng Phạn
Gavampati dịch là Ngưu Vương. Ngài do ở đời quá khứ có ngắt một nhánh lúa ném
xuống đất, nên trong 500 đời phải làm kiếp trâu để đền bù, nay tuy mang thân
người, nhưng có hình tướng và tiếng nói giống như loài trâu)—Interpreted as
chewing the cud; lord of cattle, etc. (with the feet and cud-chewing
characteristic of an ox) A man who became a monk, born with a mouth always
ruminating like a cow because of former oral sins; he had spilled some grains
from an ear of corn he plucked in a former life.
Kiêu Tát La: Kosala (skt)—See Kiều Tát La
Kiêu Thi: See Kiêu Thi Ca.
Kiêu Thi Ca: Kausika or Kusika (skt).
1) Còn gọi là Kiêu Chi Ca, họ của Đế Thích (trong Đại Trí Độ
Luận, theo Kinh Tạp A Hàm: “Vị Tỳ Kheo lại bạch với Đức Phật rằng: Bạch Thế
Tôn, do duyên gì mà ngài Đế Thích Đề Hoàn lại có tên là Kiêu Thi Ca? Đức Phật
nói với vị Tỳ Kheo rằng: Ngài Thích Đề Hoàn ấy khi còn là người có họ là Kiêu
Thi Ca. Vì nhơn duyên ấy mà ngài có tên là Kiêu Thi Ca.”)—Kausika, of the
family of Kusika, family name of Indra. This story is mentioned in the
Maha-Prajna Sastra.
2) Có người cho rằng Đức Phật A Di Đà cũng có họ Kiêu Thi Ca:
One account says Amitabha was of the same family name.
Kiêu Thưởng Di: Kausambi (skt)—Một thành phố cổ nằm bên bờ sông Hằng, nằm
bên dưới Doab. Có nhiều người cho rằng đây là vùng Kusia gần Kurrah, nhưng
Kusia bây giờ là làng Kosam nằm bên bờ nhánh sông Jumna, khoảng 30 dậm bên trên
vùng Allahabad—An ancient city on the Ganges, in the lower part of Doab. It has
been identified by some with Kusia near Kurrah, but is the village of Kosam, on
the Jumna, 30 miles above Allahabad.
Kiêu Trần Na: Kaundinya (skt)—See Kiều Trần Như.
Kiêu Trần Như: Kaundinya (skt)—See Kiều Trần Như.
Kiêu Xa: Proud and luxurious
Kiêu Xa Da: Kauseya (skt)—Cao Thế Da—Kiêu Xá—Vải làm bằng lụa
thô—Cloth made of wild silk.
Kiếu Hoán: See Khiếu Hoán.
Kiều:
1) Cầu: Bridge—Cross-beam.
2) Kiều Diễm: Beautiful.
Kiều Diễm: Charming—Graceful.
Kiều Đàm Ni: Gautami (skt)—See Ma Ha Ba Xà Ba Đề in Vietnamese-English
Section.
Kiều Lương: Nhẫn nại—A bridge, trampled on by all but patiently
bearing them, a synonym for patience, or endurance.
Kiều Mỵ: Beautiful.
Kiều Nhi: Beloved daughter.
Kiều Nữ: See Kiều Nhi.
Kiều Phạm Ba Đề: Gavampati (skt)—See Kiêu Phạm Ba Đề.
Kiều Tát La: Kosala (skt)—Còn gọi là Câu Sa La, Câu Tát La, hay Cư Tát
La.
1) Bắc Kiều Tát La: Uttarakosala (skt)—Một vương quốc cổ mà bây
giờ là vùng Oude, nằm về miền Trung Ấn Độ (theo Truyện Pháp Hiển, Bắc Kiều Tát
La là tên một vương quốc cổ ở miền Trung Ấn, khác với nước Nam Kiều Tát La. Đây
là một trong 16 vương quốc lớn thời Đức Phật còn tại thế, thủ phủ là thành Xá
Vệ, nơi Đức Phật đã lưu trú trong một thời kỳ dài)—Northern Kosala—An ancient
kingdom in Central India, the modern Oude. Its capital is Sravasti, where
the Buddha and his order stayed for a long period of time—See Xá Vệ Quốc.
2) Nam Kiều Tát La: Daksinakosala (skt)—Vương quốc cổ mà bây
giờ thuộc về các tỉnh trung tâm Ấn Độ (theo Tây Vực Ký thì ngài Huyền Trang cho
rằng vùng nầy là vùng Trung Ấn. Theo Truyện Pháp Hiển, đây là nước Đạt Thân hay
Nam Kiều Tát La, để phân biệt với Bắc Kiều Tát La, còn gọi là Đại Kiều Tát La.
Đây là nơi mà ngài Long Thọ đã từng lưu trú, được vua Sa Đa Bà Ha rất kính
trọng. Nhà vua đã cho xây một ngôi chùa lớn năm tầng tại Bạt La Vị La. Vị trí
thủ phủ của nước nầy ngày nay chưa ai định rõ)—Southern Kosala—An ancient
kingdom, also in Central India, part of the present Central Provinces.
Kiều Trần Như: Kaundinya (skt).
1) Ajnata-Kaundinya (skt)—Kondanna (p)—Tên của một trong năm vị
đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Ông là người trẻ tuổi nhất trong tám vị Bà
La Môn được vua Tịnh Phạn thỉnh đến lễ quán đảnh Thái Tử sơ sinh. Ông nguyên là
thái tử xứ Ma Kiệt Đà, là cậu của Đức Phật, và cũng là bạn cùng tu khổ hạnh với
Đức Phật khi Ngài mới xuất gia (Nhóm ông Kiều Trần Như có năm người, trước kia
theo làm bạn tu khổ hạnh với Đức Phật. Sau khi thấy Đức Phật thọ nhận bát sữa
của nàng Mục Nữ cúng dường, cho rằng Đức Phật đã thối tâm trên đường tìm đạo
giải thoát nên họ đã ly khai với Phật. Sau khi Đức Phật thành đạo, năm vị nầy
lại gặp Đức Phật tại vườn Lộc Uyển/Mrgadava trong thành Ba La Nại/Varanasi,
được Phật thuyết giảng về Tứ Diệu Đế để độ họ trở thành những vị Tỳ Kheo đầu
tiên. Đây là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật)—Name a prince of Magadha,
uncle and one of the first five disciples of Sakyamuni. He was the youngest and
cleverst of the eight brahmins who were summoned by King Suddhodana to name the
infant prince. He used to practise ascetic practices with Prince Siddhartha
when he just left home.
2) Vyakarana-Kaundinya (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật
Học Từ Điển, thì Vyakarana-Kaundinya là vị tôn giả, xuất thân từ một gia đình
Bà La Môn giàu có trong thành Ca Tỳ La Vệ, sanh ra trước Đức Phật. Người đã
được Đức Phật bảo rằng một Đức Phật quả là quá thiêng liêng để mà để lại bất cứ
xá lợi nào trên trần thế nầy—According to Eitel in The Dictionary of
Chinese-English Buddhist Terms, Vyakarana-Kaundinya, son of a very wealthy
Brahman family near Kapilavastu, and was born before the Buddha. He was the
one, who was told by the Buddha that a Buddha is too spiritual to leave any
relics behind.
Kim:
1) Kim Tinh: Sukra (skt)—Venus.
2) Vàng hay quý kim: Hiranya (skt)—Y Lại Nã—Gold or any
precious metal.
3) Bây giờ: Now—The present—At present.
4) Màu sặc sỡ: Suvarna (skt)—Tô Phạt Thích—Of a good or
beautiful colour—Golden—Yellow.
Kim Ba: The moonlight.
Kim Cang: Vajra (skt)—Diamond or adamantine—Biểu tượng năng lực tâm
linh vô thượng được so sánh với viên ngọc quý nhất, kim cương với sự trong suốt
và sáng ngời của nó, các màu khác được phản chiếu trong ấy, mà nó vẫn giữ được
tính không màu sắc của nó. Nó có thể cắt đứt được mọi vật rắn khác, trong khi
một một thứ gì có thể cắt đứt được nó—The symbol of the highest spiritual
power, which is compared with the gem of supreme value, the diamond, in whose
purity and radiance other hues are reflected while it remains colorless, and
which can cut every other material, itself is being cut by nothing.
(A) Nghĩa của Kim Cang—The meanings of Vajra:
1) Kim Cang chùy của vua Trời Đế Thích: The thunderbolt of
Indra, often called the diamond club.
2) Biểu tượng của mặt trời: A sun symbol.
3) Một trong thất bảo: One of the seven precious stones
(saptaratna).
(B) Ba đặc tánh của Kim Cang—Three special natures of diamond:
1) Cứng rắn: Solid—Firm.
2) Chiếu sáng: Bright—It has brilliance.
3) Sắc bén: Sharp—It is piercing—Trong Phật giáo, kim cang có
thể cắt đứt mọi phiền não, khiến cho chúng sanh có được đại trí để tiến đến tâm
Bồ đề—In Buddism, vajra can cut off all afflictions of living beings so that
they can open great wisdom and advance to bodhi-mind.
Kim Cang Bảo Giới: Nhất Tâm Kim Cang Bảo Giới hay Đại Thừa giới trình bày
trong Kinh Phạm Võng—The Mahayana rules according to the Brahma Net sutra.
**
For more information, please see Bốn Mươi
Tám Giới Khinh.
Kim Cang Bảo Tạng: Theo Kinh Niết Bàn, Bảo Tạng Kim Cang gồm Niết Bàn và Bồ
Đề tâm, là nguồn tâm của mọi chúng sanh—According to the Nirvana Sutra, the
“Diamond” treasury, i.e. nirvana and the pure bodhi-mind, as the source of the
mind of all sentient beings.
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa: Vajracchedika Prajnaparamita—See Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba
La Mật Đa in Appendix A (6).
Kim Cang Bất Hoại:
1) Tánh chất bất hoại của kim cương: The indestructibility of
the diamond.
2) Kim Cang thân bất hoại của Đức Phật: The diamond
indestructible body of the Buddha.
Kim Cang Bồ Tát: There are several Vajra-bodhisattvas:
1) Kim Cang Nhân Bồ Tát: Vajrahetu bodhisattva.
2) Kim cang Thủ Bồ Tát: Vajrapani bodhisattva.
3) Kim Cang Bảo Bồ Tát: Vajraratna bodhisattva.
4) Kim Cang Tạng Bồ Tát: Vajragarbha bodhisattva.
5) Kim Cang Châm Bồ Tát: Vajrasuci bodhisattva.
6) Kim Cang Tướng Bồ Tát: Vajrasena bodhisattva.
7) Kim Cang Tác Bồ Tát: Vajrapasa bodhisattva.
8) Kim Cang Câu Bồ Tát: Vajrankusa bodhisattva.
9) Kim Cang Hương Bồ Tát: Vajradhupa bohisattva.
10) Kim Cang Quang Bồ Tát: Vajratejah bodhisattva.
11) Kim Cang Pháp Bồ Tát: Vajradharma bodhisattva.
12) Kim Cang Lợi Bồ Tát: Vajratiksna bodhisattva.
Kim Cang Bộ: Vajrapani (skt)—Nhóm Kim Cang trong Kim Cang Giới hay Thai
Tạng Giới (các vị tôn tay cầm chày Kim Cang nêu cao trí của Đức Như Lai, 13 vị
tôn trong Kim Cang Thủ bên trái của Đức Đại Nhật Như Lai) —Groups of the same
in the Vajradhatu or Garbhadhatu mandalas.
Kim Cang Bộ Bồ Tát: Vajrapani-bodhisattva (skt)—Kim Cang Bộ Tát Đỏa—Vị Bồ Tát
trong Kim Cang Bộ như Bồ tát Phổ Hiền—Vajrapani-bodhisattva, especially
P’u-Hsien (Samantabhadra).
Kim Cang Câu Vương: The Vajra Hook King.
Kim Cang Châm: Vajrasena (skt)—Kim kim cang—The straight vajra.
Kim Cang Chúng: Quyến thuộc của chư Kim Cang Thần—The retinue of the
Vajradevas.
Kim Cang Chử: Chày Kim Cang rất bén—The Vajra or thunderbolt. It is
generally sharp as such, but has various other forms.
1) Một loại vũ khí của binh lính Ấn Độ: The Vajra is also
interpreted as a weapon of Indian soldier.
2) Mật giáo và những tông phái khác dùng Kim Cang Chử như một
biểu tượng của trí tuệ và sức mạnh để chặt đứt phiền não và khắc phục ma
chướng: It is employed by the esoteric sects, and others, as a symbol of wisdom
and power over illusion and evil spirits.
3) Độc Cổ Kim Cang Chữ: Khi thẳng thì Kim Cang Chử được gọi là
“Độc Cổ”—When straight as a sceptre it is one limbed vajra.
4) Tam Cổ Kim Cang Chử: Khi có ba chia thì gọi là “tam cổ”—When
it has three prongs, it is called “three-pronged” vajra.
5) Ngũ Cổ Kim Cang Chử: Khi có năm chia thì gọi là “ngũ
cổ”—When it has five prongs, it is called “five-pronged” vajra.
6) Cửu Cổ Kim Cang Chử: Khi có chín chia thì gọi là “cửu
cổ”—When it has nine prongs, it is called “nine-pronged” vajra.
Kim Cang Dạ Xoa: Vajrayaksa (skt).
1) Vị Thần Hộ Pháp thường được đặt ngay cổng của các chùa. Kim
Cang Dạ Xoa hay Phẫn nộ Minh Vương, là một trong năm vị Minh Vương, người hộ
trì Phật pháp, nhưng lại là kẻ thù của ma quỷ. Vị nầy có ba mặt sáu tay hay một
mặt bốn tay, trụ tại phương Bắc, là vị Phẫn Nộ Tôn Bất Không Thành Tựu Như Lai
ở phương Bắc trong ngũ trí Như Lai (ngũ Phật) của Kim Cang Giới—The guardian
spirits represented on the temple gates. One of the five kings of hells or
messengers and manifestation of Vairocana. The fierce maharaja as an opponent
of evil, he is one of the guardians of Buddhism. He has either three
faces and six arms, or one face and four arms. He is a fierce guardian of the
north in the region of Amoghasiddhi in the Vajradhatu—See Ngũ Phật.
2) Vị Bồ Tát có răng nanh: A Bodhisattva with the fangs.
Kim Cang Diệt Định: Kim cang diệt định là giai đoạn sau cùng của Bồ Tát với
trí tuệ bất hoại—Diamond meditation, the last stage of a bodhisattva,
characterized by firm and indestructible knowledge, penetrating all reality.
Kim Cang Dụ Định: Vajra-meditation—See Kim Cang Định and Kim Cang Tam
Muội.
Kim Cang Đài: Diamond Lotus.
Kim Cang Đàm: Hỏa Viện—Giới Ấn—Mật Phong Ấn—Vòng tròn lửa ngăn cấm sự
xâm nhập của ma quỷ—Diamond-blaze, acircle of fire to forbid the entry of evil
spirits.
**
For more information, please see Hỏa Ấn,
Hỏa Giới, and Hỏa Viện.
Kim Cang Đảnh:
1) Vương miện Kim Cang: The vajra (diamond) apex or crown.
2) Tên gọi chung các kinh của Mật Giáo: A general name of the
esoteric doctrine and sutras of Vairocana.
Kim Cang Đảnh Kinh: Kim Cang Đảnh Kinh là kinh chính của Kim cang Đảnh Tông,
một trong ba bộ kinh chính của Chân Ngôn Giáo—Vajra-crown sutra, the authority
for the Vajra-Crown sect, one of the three main sutras of the Shingon.
Kim Cang Định: Vajrasamadhi (skt)—Kim Cang Dụ Định—Kim Cang Tam
Muội—Thiền định của Bồ tát ở ngôi tối hậu. Người tu hành và đắc phép thiền định
nầy sẽ được trí bền vững, sắc bén và bất hoại như kim cương, có thể cắt đứt tất
cả phiền não và tà kiến thiên lệch—Vajra-meditation—Samadhi as a state of great
stability, that of the last stage of the Bodhisattva, characterized by firm,
indestructible knowledge, penetrating all reality; attained after all remains
of illusion and wrong views have been cut off.
**
For more information, please see Kim Cang
Kim Cang Đoạn: Vajracchedika (skt)—Cắt đứt Kim Cang, một đoạn văn ngắn
trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa—Diamond cutter, a short paragraph in the Perfection
of Wisdom Sutra (Prajnaparamita Sutra)—See Kinh Kim Cang in Appendix G.
Kim Cang Đồng Tử: Vajrakumara (skt).
1) Kim Cang Sứ Giả của chư Phật và chư Bồ Tát: A
Vajra-messenger of the Buddhas or Bodhisattvas.
2) Hóa thân của Đức Phật A Di Đà thành một đứa trẻ tay cầm kim
cương chùy, mặt có vẻ phẫn nộ: An incarnation of Amitabha in the form of a
youth with fierce looks holding a vajra.
Kim Cang Giới: Vajradhatu (skt).
· Kim Cang giới là một phần tử của vũ
trụ; nó là TRÍ ĐỨC bất hoại của Đức Tỳ Lô Giá Na; nó khởi lên từ trong Thai
Tạng Giới—The Diamond or Vajra realm, element of the universe; it is the wisdom
of Vairocana in its indestructibility and activity; it arises from the
Garbhadhatu (the womb of all things).
· Kim Cang Giới được diễn dịch là
“Trí” giới—Vajradhatu is interpreted as the realm of intellection.
· Kim cang giới tiêu biểu cho thế giới
tâm linh của sự toàn giác: The Vajradhatu represents the spiritual world of
complete enlightenment.
· Mật Giáo coi Kim Cang Giới là Pháp
Thân, trong khi Hiển Giáo thì coi nó như là Hóa Thân: The esoteric Dharmakaya
doctrine as contrasted with the exoteric Nirnamakaya.
· Kimg Cang Giới là yếu tố thứ sáu của
tâm, nó biểu hiệu bằng một hình tam giác mũi chúi xuống và mặt trăng tròn tượng
trưng cho trí tuệ hay sự hiểu biết—It is the sixth element of “Conscious mind,”
and is symbolized by a triangle with the point downwards and by the full moon,
which represents “wisdom” or “understanding.”
· Kim Cang Giới tương ứng với
“quả.”—Vajradhatu corresponds to fruit or effect.
· Kim Cang giới là vũ trụ được nhìn
như là sự thể hiện của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na mà hình ảnh của Ngài được phản
chiếu trong tâm của mọi chúng sanh: Vajradhatu is the universe viewed as the
manifestation of Vairocana Buddha whose image is reflected in the heart of
every being.
Kim Cang Giới Ngũ Bộ: Five divisions of the Vajradhatu represented by five
Dhyani-Buddhas:
1) Trung Đài Đại Nhựt Như Lai: Vairocana in the center.
2) Đông Độ A Súc Bệ Phật: Aksobhya in the east.
3) Nam Phương Bảo Sanh Phật: Ratnasambhava in the south.
4) Tây Phương A Di Đà Phật: Amitabha in the west.
5) Bắc Phương Bất Không Thành Tựu: Amoghasiddhi or Sakyamuni in
the north.
** For more information, please see Ngũ Phật
Kim Cang Giới Thai Tạng Giới: Vajradhatu and Garbhadhatu (skt).
(I) Kim Cang Giới: Vajradhatu (skt)—See Kim Cang Giới.
(II) Thai Tạng Giới: Garbhadhatu (skt).
1) Thai Tạng Giới là kho chứa mọi lý luận của trí: Garbhadhatu
is the womb or store of the Vairocana reason or principles of the wisdom.
2) Nơi tồn chứa tất cả mọi LÝ LUẬN của Tỳ Lô Giá Na bất hoại
trí—The womb or store of the Vairocana reason or principles of the Vairocana’s
indestructible wisdom—The womb or store of all things.
3) Thai Tạng Giới được diễn dịch như là chất liệu căn bản của
Kim Cang Giới—Garbhadhatu is interpreted as the substance underlying the
Vajradhatu (realm of intellection).
4) Thai Tạng Giới tương ứng với nhân: Garbhadhatu corresponds
to the cause.
Kim Cang Hộ Bồ Tát: Vị Bồ Tát bảo hộ che chở cho con người với lòng đại bi như
một chiếc nón sắt bao bọc—The Bodhisattva Vajra pala, who protects men like a
helmet and surrounds them like mail by his great pity.
Kim Cang Huệ: Trí tuệ thấu rõ lý của thực tướng mà phá vỡ chư tướng hay
trí tuệ ảo giác—Diamond-wisdom, which by its reality overcomes all illusory
knowledge.
Kim Cang Khẩu: Lời nói hay giáo thuyết xuất ra từ kim khẩu của Phật bền
vững như kim cương bất hoại—Diamond mouth (of a Buddha)—The diamond-like
firmness of the Buddha doctrine.
Kim Cang Kinh: Vajracchedika-prajnaparamita-sutra—Kim cang Năng Đoạn Bát
Nhã Ba La Mật Kinh, tóm lược cô đọng của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, trước
tiên được dịch sang Hoa ngữ bởi ngài Cưu Ma La Thập, sau đó có nhiều bản dịch
khác—The Diamond Sutra, a condensation of the Prajnaparamita; first translated
into Chinese Kumarjiva, later by others.
**
For more information, please see Kinh Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Kim Cang Linh: Chuông Kim Cang có công dụng làm tăng sự chú tâm và phấn
chấn người nghe—The diamond or vajra bell for attracting the attention of the
objects of worship, and stimulating all who hear it.
Kim Cang Linh Bồ Tát: Vajra-ghanta (skt)—Vị Bồ Tát tay cầm chuông trong Kim Cang
Mạn Đồ La—A Bodhisattva holding a bell in the Vajradhatu mandala.
Kim Cang Luân:
1) Kim Cang Pháp Luân: Bánh xe Pháp Kim cang—The diamond or
vajra wheel.
2) Kim Cang Thừa: Vajrayana (skt)—Symbolical of the esoteric sects.
3) Kim luân của tầng đất thấp nhất: The lowest of the circles
beneath the earth.
Kim Cang Luân Sơn: See Kim Cang Vi Sơn.
Kim Cang Luân Tọa: See Đại Nhân Đà La Tọa.
Kim Cang Lực: Sức mạnh như kim cương, sức mạnh không ai chống
nổi—Vajra-power—Irresistible strength.
Kim Cang Lực Sĩ: See Kim Cang Thần, Kim Cang Dạ Xoa, and Kim Cang Mật Tích.
Kim Cang Mạn Đồ La: See Kim Cang Giới, and Kim cang Giới Ngũ Bộ.
Kim Cang Mật Tích: Mật Tích Kim Cang—Mật Tích Lực Sĩ—Kim Cang Lực Sĩ—Kim Cang
Thủ—Chấp Kim Cang—Những vị tay cầm chày kim cang thể hiện đại uy ủng hộ Phật
pháp. Đức Đại Nhật Như Lai lấy các vị Kim Cang Mật Tích nầy làm nội quyến; lấy
các vị Phổ Hiền, Văn Thù làm đại quyến hay ngoại quyến. Cũng như Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni lấy các vị Thanh Văn như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…, làm nội quyến,
lấy các vị Bồ Tát làm đại quyến—The deva-guardians of the secrets of Vairocana,
his inner or personal group of guardians in contrast with the outer or major group
of P’u-Hsien, Manjusri, etc. Similarly, Sariputra, or Maudgalyayana, the
sravakas, etc., are the inner guardians of Sakyamuni, the Bodhisattvas being
the major group.
Kim Cang Môn: Cổng Kim Cang trong Thai Tạng Mạn Đồ La—The diamond door
of the Garbhadhatu mandala.
Kim Cang Ngữ Ngôn: See Kim Cang Niệm Tụng.
Kim Cang Niệm Tụng: Kim cang Ngữ Ngôn—Niệm thầm—Silent repetition.
Kim Cang Phan: Vajraketu (skt)—Cờ treo trên cột đầu rồng—A flag hung to a
pole with a dragon’s head.
Kim Cang Phan Bồ Tát: Vajraketu Bodhisattva (skt)—Vị Bồ Tát cầm cờ, một trong 16
vị Bồ Tát trong nhóm Kim Cang Giới—The flag-bearer, one of the sixteen in the
Vajradhatu group.
Kim Cang Pháp Giới Cung: Cung điện của Thai Tạng Giới, nơi trụ của Đức Đại Nhật Như
Lai (kim cương là thực tướng của Như Lai, pháp giới là trí thể của thực tướng.
Pháp thân của Đức Đại Nhật Như Lai trụ ở trí thể của thực tướng)—The palace or
shrine of Vairocana in the Garbhadhatu.
Kim Cang Phật: Vajra-buddha (skt)—Đức Đại Nhật Như Lai, có lúc chỉ Đức
Thích Ca Mâu Ni như là hóa thân của chân lý, trí tuệ và thanh tịnh—Vairocana,
the Sun-Buddha; sometimes applied to Sakyamuni as embodiment of the Truth, of
Wisdom, and of Purity.
Kim Cang Phật Tử: Con của Kim Cang Phật hay con của Đức Đại Nhật Như Lai, từ
dùng để chỉ những người mới được làm phép gia nhập vào Mật Giáo—Son of the
Vajra-buddha, i.e. of Vairocana, a term applied to those newly baptized into
the esoteric sect.
Kim Cang Quán: Phép Kim Cang quán là phép quán xuyên qua chân lý—The
diamond insight or vision which penetrates into reality.
Kim Cang Quyền: Nắm tay Kim Cang hay hai tay nắm lại và để ngay trước ngực
(có bốn loại quyền: nắm tay thông thường, để ngón cái nằm thẳng, đặt ngón cái
vào lòng bàn tay, nắm tay lại với nhau)—Vajra-fist—The hands doubled together
on the breast.
Kim Cang Quyền Bồ Tát: Một trong những vị Bồ Tát trong nhóm Kim Cang—One of the
Bodhisattvas in the Diamond group.
Kim Cang Sát: Vajraksetra (skt)—Tên gọi các chùa hay tự viện—Buddhist
monastery or building.
Kim Cang Tác: Vajrapasa (skt)—Dây thòng lọng kim cang trong tay của Bất
Động Minh Vương—The diamond lasso or noose in the hand of the subduer of demons
(Arya-achlanatha-raja) and others.
Kim Cang Tác Bồ Tát: Kim Cang Tác Bồ Tát trong Kim cang Giới Mạn Đồ La, người
mang lưới từ bi quấn lấy tâm hồn của chúng sanh hữu tình—Vajrapasa-bodhisattva
in the Vajradhatu mandala, who carries the snare of compassion to bind the
souls of the living.
Kim Cang Tam Muội: Vajravimbopama (skt)—Tam muội thông suốt các pháp giống
như Phật tánh chân như. Đây là loại tam muội cao nhất mà người tu Phật có thể
đạt được. Nhờ tam muội nầy mà người tu có thể đoạn diệt cái hình thức vi tế
nhất của phiền não—A samadhi on the idea that all things are of the same
Buddha-nature. This is the highest samadhi attainable by the Buddhist yogin who
by this destroys the subtlest form of the klesa.
**
For more information, please see Kim Cang
Kim Cang Tạng: Vajragarbha (skt).
1) Kho Tạng Kim Cang: The Diamond treasury.
2) Vị Bồ Tát trong Kinh Lăng Già: The Bodhisattva in the
Lankavatara sutra.
Kim Cang Tạng Bồ Tát: Vajra Treasury Bodhisatva.
Kim Cang Tạng Vương:
1) Kiếp kế tiếp của Kim cang Tạng Bồ Tát: A form of the next
entry of the Vajra Treasury Bodhisattva.
2) Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Sakyamuni Buddha.
Kim Cang Tát Đỏa: Vajrasattva-mahasattva (skt)—Kim Cang Thủ.
1) Bí Mật Chủ Phổ Hiền, vị tổ thứ hai trong tám vị tổ Chân
Ngôn, vị tổ thứ nhất là Đức Đại Nhật Như Lai: A form of P’u-Hsien
(Samantabhadra), reckoned as the second of the eight patriarchs of the Shingon,
Vairocana was the first.
2) Các vị Chấp Kim Cang Thần, hay các vị Bồ Tát, đặc biệt chỉ
ngài Kim Cang Nguyệt Luân ở Đông độ của Kim Cang Mạn Đồ La: All vajra-beings,
or vajra-bodhisattvas; especially those in the moon circle in the east of the
Diamond mandala.
3) Ngài Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Bồ tát (tiền thân của Đức
Phật Thích Ca): Sakyamuni in a previous incarnation as a vajrasattva.
4) Tất cả chúng hữu tình đều là “Kim cang Tát Đỏa” vì tất cả
đều có Phật tính: All beings are vajrasattva, because of their Buddha-nature.
5) Tất cả những người sơ cơ tín hành đều là Kim Cang tát Đỏa:
All beginners in the faith and practice are vajrasattva.
6) Tất cả quyến thuộc của Ngài A Súc Bệ Phật đều là Kim Cang
Tát Đỏa: All the retinue of Aksobhya are vajrasattva.
7) Bất cứ vị Đại Phổ Hiền (bất cứ ai thành tựu mười thệ nguyện
lớn đều là trưởng tử Như Lai, và đều được gọi là Phổ Hiền) nào cũng đều là Kim
Cang Tát Đỏa: Any Great P’u-Hsien is a vajrasattva.
Kim Cang Tâm: Cái tâm lớn của Bồ Tát bền vững và bất hoại như kim
cương—Diamond heart, that of a bodhisattva, i.e. infrangible, unmoved by
illusion.
Kim Cang Tâm Điện: Bất Hoại Kim Cang Quang Minh Tâm Điện hay Kim Cang Giới
Mạn Đà La, nơi trụ của Phật Tỳ Lô Giá Na—The shrine of the indestructible
diamond-brillant heart—The Vajradhatu (mandala) in which Vairocana dwells.
Kim Cang Thân: Kiên Thân (thân kiên cố)—Chân Thân (thân chân thật)—Thân
kim cang bất hoại của Phật—Golden body—The diamond body, the indestructible
body of Buddha.
Kim Cang Thần:
1) Vị Thần hộ pháp (bảo hộ chư Tăng)—The guardian spirits
of the Buddhist order.
2) Tượng hộ pháp lớn nơi cổng các tự viện: The large idols at
the gate (entrance) of Buddhist monasteries.
** For more information, please see Kim Cang Thủ, Kim Cang Dạ Xoa, and Kim
Kim Cang Thể: Thân thể bền vững như kim cương, nói về công đức của Phật
thân (thân của Như Lai là thể kim cương. Mọi thứ ác đều đã cắt đứt, mọi điều
vui sướng đều đã huân tập)—The diamond body, that of Buddha and his merit.
Kim Cang Thiên: Vị Trời hộ pháp trong nhóm Kim Cang Giới—The vajra-deva in
the Vajradhatu group.
Kim Cang Thủ: Vajrapani (skt)—
1) Vị Thần tay cầm Kim Cang Chùy: A holder (protector) of the
vajra.
2) Hình ảnh hay dấu hiệu Kim Cang Chùy: Any image or symbol of
a Vajra.
** For more information, please see Đại
Kim Cang Thủy: Nước Kim Cương, tên một thứ nước mà người thọ giới phải
uống khi làm nghi thức quán đảnh trong Mật Giáo—Diamond or Vajra-water, drunk
by a person who receives the esoteric baptismal rite.
Kim Cang Thừa:Vajrayana (skt)—Tên khác của tông phái Chân Ngôn, giáo pháp
sắc bén như kim cương. Kim Cang Thừa thường được gọi đơn giản là Phật Giáo Tây
Tạng và nó được chia ra làm bốn tông phái chính: Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa và
Gelugpa—The Diamond Vehicle, another name of the Shingon. The Vajrayana is
simply often called Tibetan Buddhism, and it is divided into four main sects:
Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa and Gelugpa.
1) Nyingmapa: Giáo phái Nyingmapa là giáo phái cổ nhất của Phật
giáo Tây Tạng, được ngài Liên Hoa Sinh hay Đạo sư Rinpoche sáng lập vào thế kỷ
thứ 8 dưới triều vua Trisong Detsen: The Nyingmapa sect is the oldest Tibetan
Buddhism, founded by Padmasambhava or Guru Rinpoche in the 8th century under
the reign of King Trisong Detsen (742-797).
2) Kagyupa: Phái Kagyupa được thành lập bởi Marpa Chokyi Lodoe,
một dịch giả Tây Tạng nổi tiếng vào thế kỷ 11 và vị đại đệ tử của ngài là ngài
Milarepa vào thế kỷ thứ 12: The Kagyupa sect was founded by Marpa Chokyi Lodoe
(1012-1099), a famous Tibetan translator in the 11th century and his
outstanding disciple Milarepa (1040-1123) in the 12th century.
3) Sakyapa: Phái Sakyapa được vị dịch giả Tây Tạng là Drogmi
Sakya Yeshe sáng lập vào thế kỷ thứ 11: The Sakyapa sect was founded by the
Tibetan translator Drogmi Sakya Yeshe (992-1074) in the 11th century.
4) Gelugpa: Phái Gelugpa là phái trẻ nhất và đông nhất trong
các phái Tây Tạng, được ngài Tông Khách Ba hay Je Rinpoche sáng lập vào thế kỷ
thứ 14: The Gelugpa sect, the youngest and largest among the schools of Tibetan
Buddhism, was founded by Thongkhapa (1357-1419) or Je Rinpoche in the 14th
century.
Kim Cang Tọa: Vajrasana (skt).
1) Kim Cang Tòa nơi Đức Phật ngồi khi đắc Chánh Đẳng Chánh
Giác—Bodhimanda—Buddha’s seat on attaining enlightenment—The Diamond throne.
2) Dáng vẻ lúc ngồi: The posture or manner of sitting.
Kim Cang Trí:
1) For more information, please see Tự Giác
3) Kim Cang Trí Pháp Sư—Dharma Master
Vajrabodhi:
· Tên của một vị sư người Tây Ấn,
đến Trung Quốc vào khoảng năm
619 sau Tây Lịch, dưới thời nhà Đường; người ta nói ông chính là người đầu tiên
giới thiệu Du Già Luận và là sơ tổ của Mật Tông tại Trung Quốc, nhưng có thuyết
lại cho rằng chính A Mục Khư Bạt Triết La mới chính là Sơ Tổ Mật Tông Trung
Quốc—Name of an Indian monk who came to China around 619 A.D., during the T’ang
dynasty; he is said to have introduced the Yogacara system and founded the
esoteric school, but this is attributed to Amoghavajra.
· Kim Cương Trí (Vajrabodhi 663-723):
Ông là người Nam Ấn, học đạo tại Na Lan Đà. Năm 15 tuổi ông sang Tây Ấn và học
tập Nhân Minh Luận trong bốn năm với Pháp Xứng (Dharmakirti), nhưng trở về Na
Lan Đà để thọ đại giới. Trong sáu năm, ông chuyên học Luật (Vinaya) và trung
Quán Luận (Madhyamika) với Santabodhi, ba năm kế đó ông nghiên cứu Du Già Luận
(Yogacara) của Vô Trước, Duy Thức Luận (Vijnaptimatra) của Thế Thân và Biện
Trung Biên Luận (Madhyanta-vibhanga) của An Huệ (Sthiramati) với Jinabhadra
tati Ca Tỳ La Vệ, vùng Bắc Ấn. Rồi bảy năm sau nghiên cứu Kim Cang Đảnh
(Vajra-sekhara) và các kinh Mật giáo khác với Long Trí (Nagabodhi) ở Nam Ấn.
Sau cùng, ông đáp thuyền theo đường Nam Hải đến Lạc Dương vào năm 720. Ông dịch
thuật nhiều kinh điển quan trọng của Mật giáo, như Kim Cang Đảnh, vân
vân. Năm 741, trong lúc ở Trường An, ông được phép trở về Ấn Độ nhưng mất trên
đường về Lạc Dương: Vajrabodhi came from South India, became a novice at
Nalanda. At the age of fifteen he went to West India and studied logic for four
years under Dharmakirti, but came again to Nalanda where he received full
ordination at twenty. For six years he devoted himself to the study of Discipline (Vinaya) text and the Middle Doctrine (Madhyamika) under Santabodhi;
for three years he studied the Yogacara by Asanga, the Vijnaptimatra by
Vasubandhu and the Madhyanta-vibhanga by Sthiramati under Jinabhadra, at
Kapilavastu, North India; and for seven years he studied the Diamond Head
(Vajra-sekhara) and other mystical texts under Nagabodhi, in South India. At
last, he sailed to the southern sea and reached Lo-Yang, China, in 720. He
translated several important mystical texts, such as the Vajra-sekhara. In 741,
while in Ch’ang-An, he obtained permission to return to India, but on his
way he died in Lo-Yang.
Kim Cang Trí Tam Tạng: Vajrabodhi (skt)—Bạt Viết La Bồ Đề—See Kim Cang Trí (2).
Kim Cang Trượng: See Kim Cang Chử.
Kim Cang Tuệ: Diamond wisdom—See Kim Cang Huệ.
Kim Cang Tử: Rudraksa (skt)—Hạt kim cang để làm chuỗi—A seed similar to
a peachstone used for beads.
**
For more information, please see Ác Xoa,
Kim Cang Tự: Tên của một ngôi chùa tọa lạc trong ấp Bình Cang, xã Bình
Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, Nam Việt Nam. Chùa Kim cang được dựng lên
vào giữa thế kỷ thứ 17 và đã được trùng tu nhiều lần. Trong chùa hiện còn bản
Kinh Kim Cang bằng chữ Hán được khắc trên gỗ—Name of a pagoda located in Bình
Cang hamlet, Bình Thạnh village, Thủ Thừa district, Long An province, South
Vietnam. Kim Cang Pagoda was built in the middle of the nineteenth century and
has been rebuilt many times. The copies of the Diamond Sutra in Chinese
character, engraved in wood, has still been kept in the pagoda.
Kim Cang Vi Sơn:
1) Núi Thiết Vi bao quanh thế giới: The concentric iron
mountains about the world.
2) Núi Tu Di: The Sumeru.
3) Kim Sơn, tên của một ngọn núi trong huyền thoại: Golden
Mountain, name of a fabulous mountain.
Kim Cang Viêm: See Hỏa Giới and Hỏa Viện.
Kim Cang Vương: Cái thù thắng (mạnh nhất và tốt nhất) của kim cang—The
Vajra-king, i.e. the strongest, or finest, e.g. a powerful bull.
Kim Cang Vương Bảo Giác: Ngọc Ma Ni nẩy nở trong Vô Thượng Giác, đức hiệu của Như
Lai Chánh Giác—The diamond royal-gem enlightenment, i.e. that of the Buddha.
Kim Cang Vương Bồ Tát: Một trong 16 vị Bồ Tát trong Kim Cang Giới—The Diamond King
Bodhisattva, one of the sixteen bodhisattvas in the Diamond realm.
Kim Chi Ngọc Diệp: Gold branches and jade leaves—Noble.
Kim Cốt: Xá lợi của Đức Phật—Golden bons, i.e. Buddha’s relics.
Kim Cương: See Kim Cang.
Kim Đại Vương: Vị Thần bảo hộ khách lữ hành, Thiên Thủ Quán Âm—Protector
of travellers, shown in the train of the 1,000-hand Kuan-Yin.
Kim Đề: Kanthaka-asvaraja (skt)—Tên của con ngựa Kiến Trắc mà Đức
Phật đã cỡi đi trong đêm xuất gia—Name of the steed on which Sakyamuni left his
home.
Kim Địa: Kim Điền—Tự viện Phật giáo (do tích trưởng giả Tu Đạt lấy
vàng mua Kỳ Viên)—A Buddhist monastery.
Kim Địa Quốc: Suvarnabhumi (skt)—Một nước về phía nam thành Hoa Tử, vua
A Dục đã gửi đoàn truyền giáo Phật giáo đến hoằng pháp tại đây—A country south
of Sravasti, to which Akosa sent missionaries.
Kim Gia: Trường phái mà mình đang theo—The present school—My school
or sect.
Kim Hà: See Kim Sa Hà.
Kim Kê: Gà vàng và hạt thóc trong miệng. Đem gà vàng ví với lời
sấm của Tổ Bồ Đề Đạt Ma—The golden cock or fowl, with a grain of millet in its
beak, a name for Bodhidharma.
Kim Khẩu: The golden mouth of the Buddha.
Kim Khẩu Quỷ: Châm khẩu quỷ—Quỷ có cổ nhỏ như cây kim—Needle-mouth
ghosts, with mouth so small that they cannot satisfy their hunger or thurst.
Kim Khu: See Kim Thân.
Kim Lai: The present and the future.
Kim Lan Cà Sa: See Kim Lan Y.
Kim Lan Y: Kim Sắc Y—Kim Lan Cà Sa—Áo cà sa dệt bằng sợi vàng—A
kasaya or robe embroidered with gold; a golden robe.
Kim Liên:
1) Hoa sen vàng: Golden lotus bloom.
2) Tên của một ngôi chùa cổ, tọa lạc trong làng Nghi Tàm, xã
Quảng An, huyện Từ Liên, Hà Nội, Bắc Việt Nam. Nguyên xưa là chùa Đống Long,
dựng từ thời nhà Trần (1225-1413) trên một nền nhà cũ, nơi công chúa Từ Hoa,
con gái vua Lý Thần Tông ra đời. Về sau chỗ nầy lập trại trồng dâu nuôi tằm nên
gọi là làng Nghi Tàm. Năm 1639, chùa được tu sử lại, gọi là chùa Đại Bi, đến
năm Lê Cảnh Hưng thứ 32 (1771), lại được trùng tu, và chùa được mang tên Kim
Liên từ đó. Vào năm 1792, chùa lại được trùng tu và nhiều lần về sau nầy nữa.
Chùa hiện nay được coi như là di sản kiến trúc thời Tây Sơn. Cổng tam quan của
chùa có kiến trúc gỗ độc đáo, đượm dáng vẻ cung đình. Nổi bậc còn có những bức
chạm trỗ hình rồng và hoa nổi trên mặt gỗ hết sức tinh xảo: Name of an ancient
temple, located in Nghi Tàm hamlet, Quảng An village, Từ Liêm disrict, Hanoi,
North Vietnam. Its old name was Đống Long Temple, built in the Trần dynasty
(1225-1413) on an old floor of a house where Princess Từ Hoa, King Lý Thần
Tông’s daughter, was born. The house was once turned into a plantation for
growing mulberry and silk worms. This is why the village is called Nghi Tàm. In
1639, the temple was repaired and renamed Đại Bi. In the thirty-second Lê
Cảnh Hưng year (1771), it was rebuilt again, and given the present name, Kim
Lien Temple. In 1792, it was restored on the larger scale and has been
resconstructed many times. At present, Kim Liên Temple is an architectural
artistic vestige of the Tây Sơn dynasty. The three-entrance gate is of distinctive
wooden structure styled Vietnamese royal palace. Distinguished from the
three-entrance structure are the skillfully carved wooden bas-reliefs
representing the image of flowers and dragons.
Kim Liên Tịch Truyền: Zen Master Kim Liên Tịch Truyền (1745-1816)—Thiền sư Kim
Liên, người Việt Nam, quê ở Thượng Phước, Bắc Việt. Ngài xuất gia từ thuở bé
tại chùa Vân Trai. Sau dó ngài đến chùa Liên Tông và trở thành đệ tử của ngài
Từ Phong Hải Quýnh. Hầu hết cuộc đời ngài hoằng pháp tại miền Bắc Việt Nam. Ngài
thị tịch năm 1816, thọ 70 tuổi—A Vietnamese Zen master from Thượng Phước, North
Vietnam. He left home and stayed at Vân Trai Temple when he was very young.
Later he went to Liên Tông Temple and became a disciple of Zen Master Từ Phong
Hải Quýnh. He spent most of his life to expand the Buddha Dharma in North
Vietnam. He passed away in 1816, at the age of 70.
Kim Luân:
1) Nơi thấp nhất của thế giới là phong luân; phong luân dựa vào
hư không (bề dầy là 16 ức do tuần, bền vững như kim cương). Trên phong luân có
thủy luân (sâu 8 ức do tuần). Trên thủy luân có kim luân (dầy 3 ức 2 vạn do
tuần do có hình bánh xe nên gọi là kim luân). Trên kim luân là địa luân (gồm 9
núi 8 biển)—The metal circle on which the earth rests, above the water circle
which is above the wind or air circle which rests on space.
2) Kim Luân là một trong bảy báu vật của Chuyển Luân Thánh
Vương—The cakra or wheel or disc, emblem of sovereignty, one of the seven
precious possessions of a Cakra-King—See Tứ Luân (D).
Kim Luân Phật Đảnh: See Đại Thắng Kim Cang.
Kim Luân Phật Đảnh Tôn: Đại Xí Thạnh Quang—The Great Blazing Perfect Light.
Kim Luân Vương: A Golden-wheel (cakra) king—See Tứ Luân (D).
Kim Mao Quỷ: Ghosts with needle hair, distressing to themselves and
others.
Kim Mao Sư Tử:
1) Sư tử lông vàng mà ngài Văn Thù Sư Lợi cỡi—The lion with
golden hair on which Manjusri rides.
2) Sư Tử lông vàng cũng là tiền thân của Đức Phật: A previous
incarnation of the Buddha.
Kim Môn: Golden door (gate).
Kim Ngân: Gold and silver.
Kim Ngọc: Gold and jade.
Kim Ngôn: Lời vàng của Phật—Golden words, i.e. those of Buddha.
Kim Nhân: Tượng Phật bằng kim loại hay bằng vàng—A image of Buddha
of metal or gold.
Kim Ô: The sun.
Kim Phật: See Kim Nhân.
Kim Quang: Golden light.
Kim Quang Đồng Tử: Kim Quang Minh Cổ—Người trẻ tuổi dòng Thích Ca trong thành
Ca Tỳ La Vệ, có thân hình đẹp đẽ như ánh kim quang, xuất gia và gia nhập Tăng
đoàn của Đức Phật—Golden Light Drum—A youth of the Sakya tribe in Kapilavastu,
who had a beautiful golden light body, left home and joined the Order.
Kim Quang Minh: Ánh sáng vàng chói sáng—The golden light.
Kim Quang Minh Kinh: Suvarna-prabhasa-uttamaraja (skt)—Kim Quang Minh Kinh được
dịch sang Hoa ngữ vào thế kỷ thứ sáu và hai bản dịch khác về sau nầy (có 3 bản
dịch: Đàm Vô Sám đời Bắc Lương, Nghĩa Tịnh đời Đường, Thiên Thai Trí Giả). Kinh
được sơ tổ tông Thiên Thai là ngài Trí Giả dịch và dùng cho tông phái
mình—Golden Light Sutra, translated in the sixth century and twice later, used
by the founder of T’ien-T’ai.
Kim Quang Minh Nữ: Phu nhân của Kim Quang Đồng Tử—Wife of Golden Light
Drum—See Kim Quang Đồng Tử.
Kim Quang Phật Sát: Cảnh giới thấp nhất của Phật Giới—The lowest of the
Buddha-ksetra.
Kim Quang Tự: Tên của một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Kim Quang ban
đầu có tên là Tường Quang, là một ngôi chùa do dì của Vua Thành Thái là
bà Nguyễn Thị Lựu xây dựng năm 1871. Bốn năm sau khi lên ngôi, vua Thành
Thái đã sắc tứ biển ngạch đổi tên là Kim Quang Tự, và cấp tiền để phụng
thờ tiên tổ. Hoàng Thái Hậu Từ Minh, thân mẫu của vua Thành Thái ban tiền để
thếp vàng tượng Phật và mở rộng nhà Tăng cũng như hậu liêu. Sau cơn bão lịch sử
năm 1904, chùa bị hư hại nặng, nên nhà vua cấp tiền trùng tu, qui mô chùa lại
một lần nữa đổi mới. Năm 1962, sư Bích Phong chùa Qui Thiện đôn đốc trùng tu.
Năm 1963 sư Toàn Lạc xây cổng tam quan, trùng tu bình phong, làm cho cảnh chùa
trở nên uy nghi hơn. Chùa Kim Quang gắn liền với họ ngoại của vua Thành Thái.
Ảnh của hai vị vua Thành Thái và Duy Tân đã được thờ trên án thờ phía sau chùa.
Chùa Kim Quang là nơi lưu niệm của hai vì vua yêu nước—Name of an ancient
temple in Huế, Central Vietnam. The temple’s original name was Tường Quang. It
was built in 1871 by one of king Thành Thái’s aunts, Mrs. Nguyễn Thị Lựu. In 1892, four years after he came to the throne, king Thành Thái officially
recognized the temple and renamed it Kim Quang, and allotted land for the use
of the temple to keep up worship services. The Từ Minh, the king’s mother,
granted money for the statues to be gilted and the staff house as well as the
house enlarged. After the historic storm in 1904, the temple was badly damaged,
so the king granted money for an overall reconstruction. The structure of the
temple once more changed for the better. In 1962, Venerable Bich Phong from Qui
Thiện temple supervised the reconstruction of the temple. In 1963,
Venerable Toàn Lạc built the three-entrance gate, restored the screen wall,
giving the temple a more impressive appearance. Kim Quang temple was closely
linked with the maternal family of king Thành Thái. Portraits of king Thành
Thái and king Duy Tân were positioned on the altar in the back room of the
temple. Kim Quang temple is also a souvenir to the above two patriotic kings.
Kim Quy: Con rùa vàng mà cả thế giới phải tựa vào—The golden
tortoise on which the world rests.
**
For more information, please see Kim
Kim Sa: Cát vàng—Golden sand.
Kim Sa Hà: Một dòng sông tưởng tượng ở Niết Bàn—An imaginary river in
the Nirvana.
Kim Sát:
1) Kim Tháp: A golden pagoda.
2) Cửu Kim Luân đặt trên đỉnh tháp: The nine golden circles on
top of a pagoda.
Kim Sắc: Có màu vàng—Golden coloured.
Kim Sắc Ca Diếp: Tên của Ngài Đại Ca Diếp. Ngài có tên Kim Sắc Ca Diếp do
bởi tương truyền ngài nuốt ánh sáng, nên thân tỏa ra kim sắc—Name of
Mahakasyapa, as he is said to have swallowed light, hence his golden hue.
Kim Sắc Khổng Tước Vương: Vị Thiên Thần hỗ trợ người tu hành, là quyến thuộc của
Thiên Thủ Quán Âm—The golden-hued peacock king, protector of travellers, in the
retinue of the 1,000-hand Kuan-Yin.
Kim Sắc Nữ: Công chúa Kim Sắc Nữ, người mà người ta nói rằng đã ưng
chịu Thái Tử Tất Đạt Đa vì màu da của Ngài giống màu da “kim sắc” của bà—The
princess of Varanasi, who is said to have ben offered in marriage to Sakyamuni
because he was of the same colour as herself.
Kim Sắc Thế Giới: Cõi trời Kim Sắc hay cõi Tịnh Độ của ngài Văn Thù Sư
Lợi—The golden coloured heaven of Manjusri.
Kim Sắc Vương: Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni—A previous
incarnation of the Buddha.
Kim Sắc Y: See Kim Lan Y.
Kim Sơn:
1) Núi Thiết Vi hay Tu Di: Metal or golden mountain or Sumeru.
2) Thân Phật: The Buddha’s body.
**
For more information, please see Thất Kim
3) Tên một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Kim Sơn trước đây
tên là Bửu Sơn, rồi Ngọc Sơn. Không ai biết chùa được xây dựng từ đời nào,
nhưng hiện nay tại sân Bảo Tàng Cổ Vật Huế vẫn còn một tấm bia đá chùa Bửu Sơn
đề năm 1667. Năm 1904, cơn bão lớn đã làm cho chùa sụp đổ. Qua năm 1908, vua
Duy Tân cho đem tượng Phật và pháp khí về chùa Thiên Mụ. Trên nền cũ chỉ dựng
lại một nhà từ đường để thờ những vị Tăng quá cố. Vào khoảng cuối thập niên
1970s, chùa được tái thiết, vẫn tọa lạc trên ngọn đồi tròn thuộc làng Bảo Hựu,
cuối một dãy đồi thấp về phía tây của Huế—Name of an ancient temple in Huế,
Central Vietnam. The temple was first named Bửu Sơn, then Ngọc Sơn. No one
knows when the temple was built; however, there is still a stele of the temple
positioned in the yard of the Museum of Historic Antiques of Huế which dated
1667. In 1904, a big storm badly damaged the temple. In 1908, king Duy
Tân ordered to dismantle the temple and to transfer Buddha statues and
ritual instruments to Thiên Mụ temple. On the old side, only a worhsip house
was built for the worship of the dead monks. In the 1970s, the temple was
rebuilt on the the round hill at Bảo Hựu village, at one end of a range of low
hills west of Huế.
Kim Sơn Vương: Phật, đặc biệt là Phật A Di Đà—Buddha, especially
Amitabha.
Kim Tạng: Kim Tạng là tạng chứa châu báu vàng bạc, như là Phật tánh
trong mỗi chúng sanh—Golden treasury, i.e. the Buddha-natue in all the living.
Kim Tạng Vân: Khi Hiền Kiếp mới hình thành, giữa bầu trời Quang Âm đầy
mây kim sắc (sắc vàng), mang lại trận mưa đầu tiên—The first golden treasury
cloud when a new world is completed, arising in the abhasvara heaven and
bringing the first rain.
Kim Thai: See Kim Cang Giới Thai Tạng Giới.
Kim Thân: Thân Kim Sắc của Đức Phật—The golden body or person, that
of Buddha—The whole body of the Buddha.
Kim Thóc Như Lai:
1) Kim Thóc Như Lai: Hạt thóc vàng Như Lai—The golden grain
Tathagata.
2) Danh hiệu của Duy Ma Cật trong một tiền kiếp: A title
of Vimalakirti in a previous incarnation.
Kim Thời: Present time.
Kim Thủy: Nước vàng, ám chỉ trí tuệ—Golden water, i.e. wisdom.
Kim Tiên:
1) Thần Tiên: Golden rsi or immortal.
2) Người tu Tiên (đạo Lão): Taoist genii.
3) Tiếng tôn xưng để gọi Đức Phật: A venerable term for
Buddha.
4) Tên của một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Tuy không phải
là tổ đình của một hệ phái nào nhưng chùa Kim Tiên là một ngôi chùa được xây
dựng rất sớm ở Huế. Hòa Thượng Bích Phong là vị sư đầu tiên trùng tu chùa Kim
Tiên vào khoảng thế kỷ 17. Sau đó chùa trở thành phế tích, chỉ còn là một mái
thảo am. Đến khoảng giữa triều Gia Long, Hòa Thượng Đức Hóa tái thiết lại mái
thảo am. Mấy mươi năm sau, dưới triều Tự Đức, chùa được Hòa Thượng Thánh Thông
Nhất Trí, một Tăng Cang của triều đình tại chùa Thiên Mụ trùng tu chùa trên qui
mô rộng lớn hơn, và giao cho Hòa Thượng Tâm Chính Hải Từ trụ trì. Năm 1888, Hòa
Thượng Hải Từ với sự trợ giúp của Hòa Thượng Diệu Giác đã tái thiết ngôi chùa
lần nữa. Năm 1930, chùa được Hòa Thượng Thanh Đức Tâm Khoan, Tăng Cang chùa
Diệu Đế trùng tu lần nữa. Sau đó Hòa Thượng Hưng Mãn Trừng Gia trùng tu lại
chánh điện, tái thiết phương trượng, xây dựng lại Tăng xá, hậu liêu. Ngày nay, dù
chùa đã trải qua nhiều cuộc trùng tu nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc cổ
kính—Name od an old temple in Huế, Central Vietnam. Though it is not a temple
that has relations with a certain venerable patriarch of a Buddhist sect, Kim
Tiên was one of the oldest temples in Huế. Most Venerable Bích Phong was
the first monk who rebuilt the temple in the seventeenth century. Sometime
later, the temple became a ruin, only a thatched small temple survived. In the
middle of King Gia Long'’ reign, Most Venerable Đức Hóa Đạo Thành rehabilitated
the thatched temple in a small structure. Several decades later, during the
reign of king Tự Đức, the temple was rebuilt on a larger scale by Most
Venerable Tánh Thông Nhất Trí, who was a royal-recognized monk of Thiên Mụ Temple.
In 1888, with the help of Most Venerable Diệu Giác, Most venerable Tâm Chính
Hải Từ rebuilt the temple again. In 1930, Most Venerable Thanh Đức Tâm Khoan, a
royal-recognized monk from Diệu Đế temple rebuilt the temple again. Though it
has been rebuilt so many times, it still maintains its ancient architectural
style.
Kim Tinh:
1) Sukra (skt)—The planet Venus.
2) Tóc của Phật: The Buddha’s hair.
Kim Trượng: Đức Phật lấy cây gậy và mảnh áo xé (thụ ký việc chia thành
18 bộ Tiểu Thừa trong giấc mơ của vua Tần Bà Sa La thấy một chiếc áo bị xé làm
18 mảnh, một cây gậy vàng gẫy thành 18 đoạn. Ông lo sợ bèn hỏi Đức Phật. Đức
Phật nói: “Sau khi ta diệt độ hơn 100 năm sẽ có vị vua tên A Dục uy danh lẫy
lừng. Lúc ấy về Luật thì chia làm 18 môn phái khác nhau, nhưng cứu cánh vẫn là
tu giải thoát)—The golden staff broken into eighteen pieces and the skirt
similarly torn, seen in a dream by king Bimbisara (eighteen divisions of
Hinayana as in a dream of King Bimbisara).
Kim Tự Tháp: Pyramid.
Kim Tỳ La: Kumbhira (skt)—Kim Ba La-Cấm Tỳ La.
1) Cá Sấu—A crocodile—Alligator.
2) Vua Dạ Xoa, quy-y và trở thành vị hộ pháp: A Yaksa-king, who
was converted and became a guardian of Buddhism.
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La: Kampilla (skt)—Kim Tỳ La Thần—Kim Tỳ La Đại Tướng.
1) Quyến thuộc của Thiên Thủ Quán Âm: The retinue of 1,000-hand
Kuan-Yin.
2) Kim Tỳ La Tỳ Kheo: Một vị sư Ấn Độ: An Indian monk.
Kim Văn: Modern literature.
Kim Viên: Thuật ngữ mà tông Thiên Thai dùng để chỉ “viên giáo” của
Pháp Hoa, so với Tích Viên trước đó—A T’ien-T’ai term indicating the “perfect”
teaching, that of the Lotus, as compared with the old “perfect” teaching which
preceded it.
Kim Xí Điểu Vương: Garuda-raja (skt)—Ca Lâu La Vương.
1) Vua của loài chim Kim Xí (Loài chim thù thắng nhất trong các
loài chim Kim Xí), bạn đồng hành của thần Visnu—The king of birds, with golden
wings, companion of Visnu.
2) Kim Xí Điểu Vương còn được dùng để ví với các bậc đại nhân,
trong khi tiểu nhân được ví với loài quạ: Garuda-raja or king of birds are used
to compare with the great people, while the crow are used to compare with the
wicked people.
3) Kim Xí Điểu Vương còn để chỉ Đức Phật: The king of birds is
a symbol of the Buddha.
Kín: Secret.
Kinh:
1) Gai: Thorns.
2) Sutras (skt)—Sutta (p)—Prayer book—Nghĩa đen của tiếng Phạn
là “sợi chỉ xâu các hạt châu.” Kinh là Thánh Thư của Phật giáo, tức là những
cuộc đối thoại có định hướng, những bài thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Người ta nói có hơn vạn quyển, nhưng chỉ một phần nhỏ được dịch ra Anh ngữ. Các
kinh Tiểu Thừa được ghi lại bằng tiếng Pali hay Nam Phạn, và các kinh Đại Thừa
được ghi lại bằng tiếng Sanskrit hay Bắc Phạn. Đa số các tông phái Phật giáo
được sáng lập theo một kinh riêng từ đó họ rút ra uy lực cho tông phái mình.
Phái Thiên Thai và Pháp Hoa (Nhật Liên Tông ở Nhật—Nichiren in Japan) thì dùng
Kinh Pháp Hoa; Tông Hoa Nghiêm thì dùng Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, Thiền Tông
không liên hệ với kinh nào cả, điều nầy cho phép các thiền sư tự do sử dụng các
kinh tùy ý khi các thầy thấy thích hợp, hoặc có khi các thầy không dùng bộ kinh
nào cả. Có một câu quen thuộc trong nhà Thiền là “Bất lập văn tự, giáo ngoại
biệt truyền,” nghĩa là không theo ngôn ngữ văn tự, giáo lý biệt truyền ngoài
kinh điển. Điều nầy chỉ có nghĩa là với Thiền Tông, chân lý phải được
lãnh hội trực tiếp và không theo uy thế của bất cứ thứ gì ngay cả uy thế của
kinh điển—Literally sutra means a thread on which jewles are strung. The sutras
are Buddhist scriptures, that is, the purported dialogues and sermons of
sakyamuni Buddha. There are said to be over ten thousand, only a fraction of
which have been translated into English. The so-called Hinayana were originally
recorded in Pali, the Mahayana in Sanskrit. Most Buddhist sects are founded
upon one particular sutra from which they derive their authority. The
T’ien-T’ai and Lotus Sects from the Lotus sutra; the Hua-yen from the
Avatamsaka Sutra. The Zen sects, however, is associated with no sutra, and this
gives Zen masters freedom to use the scriptures as and when they see fit or to
ignore them entirely. There is a familiar statement that Zen is a special
transmission outside the scriptures, with no dependence upon words and letters.
This only means that for the Zen sect, truth must be directly grasped and not
taken on the authoriry of any thing, even the sutras.
Kinh A Di Đà: Sukhavati Vyuha Sutra—Một trong ba bộ kinh chủ yếu của
trường phái Tịnh Độ. Kinh được Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hán tự—Sutra of
Amitabha—Short form of Amitabha Sutra. One of the three basic sutras of the
Pure Land sect. It was translated into Chinese by Kumarajiva. This is the short
form of Amitabha Sutra.
** See Kinh A Di Đà trong phần
Appendix A.
Kinh A Di Đà Bổn Nguyện: Longer Sukhavativyuha Sutra—Longer Amitabha Sutra—See Tây
Phương Cực Lạc và Kinh A Di Đà.
Kinh A Di Đà Tiểu Bổn: Sukhavati-vyuha (skt)—Kinh A Di Đà Tiểu Bổn là một bản
toát yếu hay trích yếu của Đại phẩm Đại Vô Lượng Thọ Kinh (Sukhavati-Vyuha). Bộ
chót trong số ba kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh (Amitayr-dhyana-sutra) cho chúng
ta biết nguyên lai của giáo lý Tịnh Độ do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết.
Nguyên do Đức Phật thuyết Kinh A Di Đà là khi thái tử A Xà Thế nổi loạn
chống lại vua cha là Tần Bà Sa La và hạ ngục nhà vua nầy. Hoàng hậu Vi Đề Ha
cũng bị giam vào một nơi. Sau đó Hoàng Hậu thỉnh Đức Phật chỉ cho bà một
chỗ tốt đẹp hơn, nơi không có những tai biến xãy ra như vậy. Đức Thế Tôn liền
hiện thân trước mặt bà và thị hiện cho thấy tất cả các Phật độ, và bà chọn quốc
độ của Đức Phật A Di Đà coi như là tối hảo. Phật bèn dạy bà cách tụng niệm về
quốc độ nầy để sau cùng được thác sanh vào đó. Ngài dạy bà bằng giáo pháp riêng
của Ngài, và đồng thời giảng giáo pháp của Phật A Di Đà. Đức Phật đã căn dặn
ngài A Nan như sau: “Này A Nan! Hãy ghi nhớ bài thuyết pháp nầy và lặp lại cho
đại chúng ở Kỳ Xà Quật nghe. Thuyết giáo nầy, ta gọi đấy là Kinh A Di Đà.” Đối
tượng của bài thuyết pháp nầy của Phật là sự tôn thờ Phật A Di Đà, và từ đó
chúng ta cũng thấy rằng giáo thuyết của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cuối cùng cũng
không khác với giáo thuyết của Phật A Di Đà. Kinh A Di Đà Tiểu Bổn là giáo tụng
chính yếu của tông Tịnh Độ. Theo Tịnh Độ tông, việc chuyên tâm niệm Phật là cần
thiết để đào sâu đức tin, vì nếu không có đức tin nầy thì không bao giờ có sự
cứu độ trọn vẹn—The smaller text of Sukhavati-vyuha is a résumé or abridged
text of the larger one. The last of the three texts, the Amitayur-dhyana Sutra,
tells us the origin of the Pure Land doctrine taught by Sakyamuni Buddha. The
reason for the Buddha to preach this sutra was from the following story,
Ajatasatru, the prince heir-apparent of Rajagriha, revolted against his father,
King Bimbisara, and imprisoned him. His consort, Vaidehi, toow was confined to
a room. Thereupon the Queen asked the Buddha to show her a better place where
no such calamities could be encountered. The World-Honored One appeared
before her and showed all the Buddha lands and she chose the Land of Amitabha
as the best of all. The Buddha then taught her how to meditate upon it and
finally to be admitted there. He instructed her by his own way of teaching and
at the same time by the special teaching of Amitabha. That both teachings were
one in the end could be seen from the words he spoke to Ananda at the
conclusion of his sermons. “Oh Ananda! Remember this sermon and rehearse it to
the assembly on the Vulture Peak. By this sermon, I mean the name of
Amitabha." ” From this we can see that the object of the sermon was the
adoration of Amitabha. Thus, we see that Sakyamuni Buddha’s teaching was after
all not different from that of Amitabha. The smaller Sakhavati-vyuha is the
main text for reciting of the Pure Land Sect. With the Pure Land, the
devotional repetition of the Buddha's name is a necessary action of the pious to
deepen the faith, without which salvation will never be complete.
**
For more information, please see Kinh A Di
Kinh A Dục Vương: Asokaraja Sutra (skt)—Kinh nói về vua A Dục, vị vua thứ ba
của triều đại Mauryan của xứ Ma Kiệt Đà, thuộc Trung Ấn. Một quân vương Phật tử
đã cải từ Ấn giáo sang đạo Phật sau cuộc trường chinh—The sutra written
about the life of King Asoka, a Buddhist ruler and the third king of the Maurya
Dynasty of Magadha, in central India. He converted from Hinduism to Buddhism
after a long period of war and conquest.
Kinh A Hàm: Agamas (for Hinayana).
Kinh Bát Châu Tam Muội: Pratyutpannabuddhasammukha-Vasthitasamadhi-Sutra—Kinh nói
về trạng thái tâm linh được dùng để quán tưởng các vị Phật hay quán chư Phật
hiện tiền Tam muội. Kinh được Ngài Chi Lô Ca Sám dịch sanh Hán tự—The sutra
shows ways of contemplations of any Buddhas. The sutra was translated into
Chinese by Lokaksema.
Kinh Bát Đại Nhân Giác: Sutra on the Eight Awakenings of Great People.
(A) Lịch sử và công năng của Kinh Bát Đại Nhân Giác—History and
usage of the Sutra on the Eight Awakenings of Great People:
a) Sa môn An Thế Cao, người Parthia, dịch từ Phạn sang Hán vào
khoảng năm 150 sau Tây Lịch (đời Hậu Hán) tại Trung Tâm Phật Giáo Lạc Dương .
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch từ Hán sang Việt vào khoảng thập niên 70s.
Nguyên văn bản kinh bằng Phạn ngữ không biết còn lưu truyền tới ngày nay hay
không. Kinh nầy thích hợp với cả hai truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy và Đại
Thừa—Shramana An Shi Kao, a Partian monk, translated from Sanskrit into Chinese
in about 150 A.D. (during the Later Han Dynasty). Most Venerable Thích Thanh Từ
translated from Chinese into Vietnamese in the 1970s. The original text of this
sutra in Sanskrit is still extant to this day. This sutra is entirely in
accord with both the Theravada and Mahayana traditions.
b) Kỳ thật, từng điều trong tám điều giác ngộ của các bậc vĩ
nhân trong kinh nầy có thể được coi như là đề tài thiền quán mà hàng Phật tử
chúng ta, đêm lẫn ngày hằng giữ thọ trì, chí thành tụng niệm ghi nhớ, tám điều
giác ngộ của các bậc vĩ nhân—In fact, each of the eight items in this sutra can
be considered as a subject of meditation which Buddhist disciples should at all
times, by day and by night, with a sincere attitude, recite and keep in mind
eight truths that all great people awaken to.
c) Tám Chơn Lý mà chư Phật, chư Bồ Tát và các bật vĩ nhân đã
từng giác ngộ. Sau khi giác ngộ, các vị ấy lại tiến tu vô ngần từ bi đạo hạnh
để tăng trưởng trí huệ. Dùng thuyền Pháp Thân thong dong dạo chơi cõi Niết Bàn,
chỉ trở vào biển sanh tử theo đại nguyện cứu độ chúng sanh. Các bậc nầy lại
dùng tám Điều Giác Ngộ để khai lối dắt dìu chúng sanh, khiến cho ai nấy đều
biết rành sự khổ não của tử sanh sanh tử, để từ đó can đảm xa lìa ngũ dục bợn
nhơ mà quyết tâm tu theo Đạo Thánh—Eight Truths that all Buddhas, Bodhisattvas
and great people awaken to. After awakening, they then energetically cultivate
the Way. By steeping themselves in kindness and compassion, they grow wisdom.
They sail the Dharma-body ship all the way across to Nirvana’s other shore,
only to re-enter the sea of death and rebirth to rescue all living beings. They
use these Eight Truths to point out the right road to all beings and in this way,
help them to recognize the anguish of death and rebirth. They inspire all to
cast off and forsake the Five Desires, and instead to cultivate their minds in
the way of all Sages.
d) Nếu là Phật tử phải nên luôn trì tụng kinh nầy, hằng đêm
thường trì tụng và nghĩ tưởng đến tám điều nầy trong mỗi niệm, thì bao nhiêu
tội lỗi thảy đều tiêu sạch, thong dong tiến vào nẻo Bồ Đề, nhanh chóng giác
ngộ, mãi mãi thoát ly sanh tử, và thường trụ nơi an lạc vĩnh cửu—If Buddhist
disciples recite this Sutra on the Eight Awakenings, and constantly ponder its
meaning, they will certainly eradicate boundless offenses, advance toward
Bodhi, quickly realize Proper Enlightenment, forever be free of death and
rebirth, and eternally abide in joy.
(B) Hình thức của kinh—The form of the sutra: Xét về phương diện
hình thức thì kinh văn rất đơn giản. Kinh văn rất cổ, văn thể của kinh thuộc
loại kết tập như Kinh Tứ Thập Nhị Chương và Kinh Lục Độ Tập. Tuy nhiên, nội
dung của kinh rất sâu sắc nhiệm mầu—The form of the sutra is very simple. The
text form is ancient, just like the Forty-Two Chapters and the Sutra on the Six
Paramitas. However, its content is extremely profound and marvelous.
(C) Nội dung của kinh—The content of the Sutra:
1) Điều Giác Ngộ thứ nhất—The First Awakening:
· Đời vô thường quốc độ bở dòn—The
world is impermanent, countries are perilous and fragile.
· Tứ đại khổ không—The body’s four
elements are a source of pain; ultimately, they are empty.
· Năm ấm vô ngã có còn chi đâu—The Five
Aggregates (Skandhas) are not me.
· Đổi đời sanh diệt chẳng lâu—Death
and rebirth are simply a series of transformations.
· Giả dối không chủ lý mầu khó
tin—Misleading, unreal, and uncontrollable.
· Tâm là nguồn ác xuất sanh—The mind
is the wellspring of evil.
· Thân hình rừng tội mà mình chẳng
hay—The body is the breeding ground of offenses.
· Người nào quán sát thế nầy—Whoever
can investigate and contemplate these truths,
· Lần hồi sanh tử sớm chầy thoát
ra—Will gradually break free of death and rebirth.
2) Điều Giác Ngộ thứ hai—The Second Awakening:
· Tham dục nhiều, khổ thiệt thêm
nhiều—Too much desire brings pain.
· Nhọc nhằn sanh tử bao nhiêu—Death
and rebirth are tiresome ordeals.
· Bởi do tham dục, mà chiêu khổ
nầy—They stem from our thoughts of greed and desire.
· Bớt lòng tham dục chẳng gây—By
reducing desires.
· Thân tâm tụ tại vui nầy ai hơn—We
can realize absolute truth and enjoy independence and well-being in both body
and mind.
3) Điều Giác Ngộ thứ ba—The Third
Awakening:
· Đắm mê trần mải miết chẳng dừng—Our
minds are never satisfied or content with just enough.
· Một bề cầu được vô chừng—The more we
obtain, the more we want.
· Tội kia thêm lớn có ngừng được
đâu—Thus we create offenses and do evil deeds.
· Những hàng Bồ Tát hiểu
sâu—Bodhisattvas do not make mistakes.
· Nhớ cầu tri túc chẳng lâu chẳng
sờn—Instead, they are always content.
· Cam nghèo giữ đạo là hơn—Nurture the
way by living a quiet life in humble surroundings.
· Lầu cao trí huệ chẳng khờn dựng
lên—Their sole occupation is cultivating wisdom.
4) Điều Giác Ngộ thứ tư—The Fourth
Awakening:
· Kẻ biếng lười hạ liệt trầm
luân—Idleness and self-indulgence will be our downfall.
· Thường tu tinh tấn vui mừng—With
unflagging vigor,
· Dẹp trừ phiền não ác quân nhiều
đời—Great people break through their afflictions and baseness.
· Bốn ma hàng phục như chơi—They
vanquish and humble the Four Kinds of Demons.
· Ngục tù ấm giới thảnh thơi ra
ngoài—And they escape from the prison of the Five Skandhas.
5) Điều Giác Ngộ thứ năm—The Fifth
Awakening:
· Ngu si là gốc khổ luân hồi—Stupidity
and ignorance are the cause of death and rebirth.
· Bồ Tát thường nhớ không
ngơi—Bodhisattvas are always attentive to.
· Nghe nhiều học rộng chẳng lơi chút
nào—And appreciative of extensive study and erudition.
· Vun bồi trí tuệ càng cao—They strive
to expand their wisdom.
· Biện tài đầy đủ công lao chóng
thành—And refine their eloquence.
· Đặng đem giáo hóa chúng
sanh—Teaching and transfoming living beings.
· Niết bàn an lạc còn lành nào
hơn—Nothing brings them greater joy than this.
6) Điều Giác Ngộ thứ sáu—The Sixth
Awakening:
· Người khổ nghèo lắm kết oán hờn—The
suffering of poverty breeds deep resentment.
· Không duyên tạo tác ác đâu
sờn—Wealth unfairly distributed creates ill-will and conflict among people.
· Bồ Tát bố thí, ai hơn kẻ nầy, lòng
không còn thấy kia đây—So, Bodhisattvas practice giving and treat friend and
foe alike.
· Ít khi nhớ đến buồn gây thuở nào. Dù
nguời làm ác biết bao, một lòng thương xót khổ đau cứu giùm—They neither harbor
grudges nor despite evil-natured poeple.
7) Điều Giác Ngộ Thứ Bảy—The Seventh Awakening:
· Năm dục gây lầm lỗi ngất trời. Tuy
người thế tục ngoài đời—Great people, even as laity, are not blightly by
worldly pleasures.
· Mà lòng không nhiễm vui chơi thế
tình, ba y thường nhớ của mình, ngày nào sẽ được ôm bình ngao du—Instead, they
constantly aspire to take up the three precepts-robes and blessing-bowl of the
monastic life.
· Chí mong lìa tục đi tu, đạo gìn
trong sạch chẳng lu không mờ—Their ideal and ambition is to leave the household
and family life to cultivate the way in immaculate purity.
· Hạnh lành cao vút kính thờ, thương
yêu tất cả không bờ bến đâu—Their virtuous qualities are lofty and sublime;
their attitudes toward all creatures are kind and compassionate.
8) Điều Giác Ngộ Thứ Tám—The Eighth Awakening:
· Tử sanh hoài đau khổ vô cùng—Rebirth
and death are beset with measureless suffering and afflictions, like a blazing
fire.
· Phát tâm dõng mãnh đại hùng—Thus,
great people make the resolve to cultivate the Great Vehicle.
· Quyết lòng độ hết đồng chung Niết
bàn—To rescue all beings.
· Thà mình chịu khổ muôn vàn, thay cho
tất cả an nhàn thảnh thơi—To endure endless hardship while standing in for
others.
· Mọi người đều được vui tươi, đến bờ
giác ngộ rạng ngời hào quang—To lead everyone to ultimate happiness.
** For more information, please see Bát Đại
Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh: Prajnaparamitahrdaya-Sutra—Bát Nhã Ba La Mât Đa Tâm Kinh
hay gọi tắt là Tâm Kinh, là phần kinh ngắn nhất trong 40 kinh tạo thành Đại Bát
Nhã Ba La Mật Đa Kinh. Đây là một trong những kinh văn quan trọng nhất trong
Phật giáo Đại thừa. Kinh được nhấn mạnh về tánh không. Kinh thường được các
Phật tử tụng thuộc lào trong các tự viện. Một trong những câu nổi tiếng trong
kinh là “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” (hình thức chỉ là hư không, hư
không chỉ là hình thức), một công thức được lập đi lập lại trong nhà thiền.
Toàn bộ văn kinh của Bát Nhã Ba La Mật có nghĩa là “trí huệ đáo bỉ ngạn.” Kinh
được Ngài Huyền Trang dịch sang Hán tự—The Heart of the Prajna-Paramita-Sutra
or Heart Sutra, the shortest of the forty sutras that constitute the
Prajanparamita-sutra. It is one of the most important sutras of Mahayana
Buddhism. The sutra is especially emphasized on emptiness (Shunyata). It is
recited so frequently in the temple that most Buddhists chant it from memory.
One of the most famous sentences in the sutra is “Form is no other than
emptiness; emptiness is no other than form,” an affirmation that is frequently
referred to in Zen. The Prajna-Paramita Heart Sutra literally means “the wisdom
that leads to the other shore.” The sutra was translated into Chinese by
Hsuan-Tsang.
**
See Bát Nhã Tâm Kinh trong phần Appendix A.
Kinh Biệt Giải Thoát: Pratimoksa sutra (skt)—Kinh Biệt Giải Thoát là cốt lõi của
Tạng Luật. Đây là phần cổ xưa nhất của Luật Tạng bằng tiếng Ba Li—Pratimoksa
sutra is the nucleus of the Vinaya-pitaka. It is the oldest part of the Pali
Pitaka—See Cụ Túc Giới Tỳ Kheo in Vietnamese-English Section, and Pratimoksa
and Pratimoksa-sutra in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kinh Bồ Đề Hành Kinh: Bodhicaryavatara Sutra—Kinh nói về “Đi vào con đường Giác
Ngộ” được Ngài Long Thọ soạn—Entering the Path of Enlightenment, composed by
Nagarjuna.
Kinh Bổn: Sutra (skt)—Kinh điển trong Tam Tạng được Đức Phật thuyết
giảng—The sutras in the Tripitaka are the sermons attributed to the Buddha.
**For
more information, please see Kinh.
Kinh Bổn Sanh: Jataka—Kinh nói chi tiết về tiền thân Đức Phật, các đệ tử
cũng như những kẻ chống phá Ngài. Kinh chỉ bày những hành động trong tiền kiếp
ảnh hưởng thế nào đến những hoàn cảnh của cuộc sống hiện tại theo đúng luật
nghiệp quả—Narratives of birth stories detail past (previous) lives of the
Buddha and of his followers and foes. The sutra shows how the acts of previous
lives influence the circumstances of the present life according to the law of
karma.
Kinh Bổn Sự: Itvritaka—Narratives of past lives of the Buddha’s
disciples.
Kinh Chúng Tập: Sangiti Sutta (p).
Kinh Cô Khởi: Phúng Tụng—Gatha—Verses containing ideas not expressed in
prose.
Kinh Di Bộ Tông Luân Luận: Samayabhedo Sutra—Kinh được soạn bởi Ngài Thế Hữu vào
khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, sau được Ngài Huyền Trang dịch ra Hoa
ngữ, nói về thời kỳ phân rẽ thành hai phái của Phật giáo là Thượng Tọa Bộ và
Đại Chúng Bộ—The sutra was composed by Vasumitra about 100 years after the
death of the Buddha, later was translated into Chinese by Hsuan-Tsang. The
sutra mentioned about the first division of Buddhism into two divisions: The
Theravada (elder monks or intimate disciples) and Mahasanghika (general body of
disciples).
Kinh Dị: Frightened.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: Saddharma-pundarika-Sutra (skt)— Wonderful Law Lotus
Flower—The Lotus of the True Law—Thời gian giữa Đại Hội Kết Tập lần thứ nhì và
thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch, văn hóa Đại Thừa phát triển tại Ấn Độ và sự phổ
biến một số kinh điển quan trọng. Sau đó là hàng trăm kinh điển Đại Thừa được
viết bằng tiếng Phạn xuất hiện. Liên Hoa Kinh, được viết vào thế kỷ thứ nhất
sau Tây Lịch, một trong những kinh chính của Phật giáo Đại thừa vì nó chứa đựng
những ý tưởng chủ yếu của Đại thừa, ý tưởng về bản chất siêu việt của Phật và
việc phổ cứu chúng sanh. Trong nhiều phương diện, kinh Pháp Hoa được xem là
kinh căn bản của truyền thống Phật giáo Đại Thừa. Kinh nầy ảnh hưởng rất lớn
đến thế giới Phật tử Đại Thừa, không những chỉ ở Ấn Độ mà còn tại các xứ khác
như Trung Hoa, Nhật Bản, và Việt Nam, qua các tông Thiên Thai, Nhật Liên và
những tông khác. Hơn nữa, kinh nầy dẫn giải con đường từ bi vô lượng, cũng như
cốt lõi hướng đi căn bản của truyền thống Đại Thừa, đó là tâm đại từ bi. Phật
giáo Đại thừa coi Kinh Liên Hoa là bộ kinh chứa đựng toàn bộ học thuyết của
Phật. Kinh nầy được Phật thuyết giảng trên núi Linh Thứu. Kinh Pháp Hoa là một
trong những bộ kinh lớn trong giáo pháp của Phật. Ý nghĩa của kinh nầy là Đức
Phật đã gom tam thừa Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát về một thừa duy nhất là
Phật Thừa. Trong kinh nầy Đức Phật đã giải thích rõ ràng về nhiều phương pháp
đạt tới đại giác như Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, v.v. chỉ là những phương
tiện được đặt ra cho thích hợp với trình độ của từng người. Thật ra chỉ có một
cỗ xe duy nhất: Phật thừa dẫn đến đại giác cho chúng sanh mọi loài. Kinh Pháp
Hoa tiêu biểu cho giai đoạn chuyển tiếp từ Phật giáo Tiểu Thừa sang Đại Thừa.
Phần lớn kinh được dùng để chứng minh rằng Đức Phật đã giảng giáo pháp Tiểu
Thừa cho lớp người đầu óc thấp kém, vì đối với những người nầy không thể giải
bày toàn bộ chân lý được. Các Phật tử Tiểu Thừa được Phật khuyên nên hành trì
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hay các phép tu dẫn đến sự giác ngộ để rũ sạch phiền
não, nên hiểu rõ Tứ Diệu Đế, luật Nhân Quả và nhận thức Nhân Không hay Vô Ngã,
để qua đó có thể đạt được niết bàn. Sau đó Đức Phật nhấn mạnh rằng những người
nầy cần nỗ lực thêm nữa ở đời sau, tạo được những công đức và phẩm hạnh cần
thiết của một vị Bồ Tát để chứng đắc Phật quả. Kinh được Ngài Dharmaraksa dịch
ra Hán văn năm 268 và Cưu Ma La Thập dịch năm 383. Chúng ta nên nhớ rằng Kinh
Pháp Hoa, nguyên đã được ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch thành bảy quyển gồm 27
phẩm. Pháp Hiển, tìm kiếm một phẩm nữa nên du hành sang Ấn Độ vào năm 475. Khi
đến Khotan, ông tìm thấy phẩm về Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa là anh họ và cũng
là kẻ phá hoại Phật. Ông trở về, và yêu cầu Pháp Ý, người Ấn, phiên dịch phẩm nầy.
Phẩm nầy về sau được phụ thêm vào bản kinh trước. Do đó kinh Pháp Hoa hiện thời
có 28 phẩm. Năm 602 hai vị Jnanagupta và Dharmagupta cũng dịch bộ kinh nầy sang
Hán văn—The period between the Second Council and the first century B.C.,
Mahayana literature developed in India, and the emergence of a number of
important texts. After that, hundreds of Mahayana sutras were composed in
Sanskrit. Sutra of the Lotus Flower, sutra of the Lotus of the Good Dharma,
written in the first century A.D., one of the most important sutras of Mahayana
Buddhism because it contains the essential teachings of Mahayana, including the
doctrines of the transcendental nature of the buddha and of the possiblity of
universal liberation. In many ways, the Lotus is the foundation sutra of the
Mahayana tradition. It has great influence in the Mahayana Buddhist world, not
only in India, but also in China, Japan, and Vietnam, where it is the favorite
text of the T’ien-T’ai, Nichiren and some other schools. Moreover, it expounds
the way of great compassion, the lotus sutra represents the essence of the
Mahayana tradition’s fundamental orientation, which is great compassion. It is
considered in the Mahayana as that sutra that contains the complete
teaching of the Buddha. The Lotus Sutra is a discourse of the Buddha on Vulture
Peak Mountain. Dharma Flower Sutra or the Maha Saddharma-pundarika Sutra, or
the Lotus Sutra, is one of the greatest sutras taught by the Buddha. Its
significance is that the Buddha united all three vehicles of Sravaka-Yana
(Sound-Hearer Vehicle), Pratyeka-Buddha-Yana, and Bodhisattva-Yana and said
there is only one vehicle and that is the vehicle of Buddhahood. In it
the Buddha shows that there are many methods through which a being can
attain enlightenment such as shravaska, pratyekabuddha and bodhisattva, etc.
These are only expedients adapted to varying capabilities of beings. In
reality, there is only one vehicle: Buddhayana (Buddha vehicle), which leads
all beings to enlightenment, including Mahayana and Hinayana. The
Saddharma-pundarika sutra represents the period of transition from Hinayana to
Mahayana Buddhism. A large part of this sutra is devoted to proving that
Hinayana Buddhism was preached by the Buddha for the benefit of people of lower
intelligence, to whom the whole truth was not divulged. Hinayana Buddhists were
adivised to practise the thirty-seven limbs of enlightenment in order to rid
themselves of moral impurities, to comprehend the Four Noble Truths and the Law
of Causation, and to realize the absence of soul or individuality whereby they
can reach a place of rest or nirvana. The Buddha then advises those who
had reached perfection in these attainments, to exert themselves further in
their future existences in order to acquire the merits and virtues prescribed
for the Bodhisattvas for the attainment of Buddhahood. The sutra was translated
into Chinese by Kumarajiva. We should bear in mind that the Lotus Sutra was
originally translated into Chinse by Dharmaraksa in 268 and Kumarajiva in 383
in seven volumes of twenty-seven chapters. Fa-Hsien, in quest of another
chapter, started for India in 475 A.D. When he reached Khotan, he found the
chapter on Devadatta, a treacherously acting cousin of the Buddha. He eturned
and requested Fa-I, an Indian monk, to translate it. This translation was later
added to the earlier text. Thus, there are twenty-eight chapters in the present
text. In 601A.D., Jnanagupta and Dharmagupta also translated this sutra
into Chinese.
**
For more information, please see Diệu
Kinh Duy Ma Cật: Vimalakirtinirdesa-Sutra—Kinh Duy Ma Cật là một bộ kinh
Đại thừa quan trọng, đặc biệt cho Thiền phái và một số đệ tử trường phái Tịnh
Độ. Nhân vật chính trong kinh là Ngài Duy Ma Cật, một cư sĩ mà trí tuệ và biện
tài tương đương với rất nhiều Bồ Tát. Trong kinh nầy, Ngài đã giảng về Tánh
Không và Bất Nhị. Khi được Ngài Văn Thù hỏi về Pháp Môn Bất Nhị thì Ngài giữ im
lặng. Kinh Duy Ma Cật nhấn mạnh chỗ bản chất thật của chư pháp vượt ra ngoài
khái niệm được ghi lại bằng lời. Kinh được Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hán
tự—The Vimalakirti Sutra, a key Mahayana Sutra particularly with Zen and with
some Pure Land followers. The main protagonist is a layman named Vimalakirti
who is equal of many Bodhisattvas in wisdom and eloquence. He explained
the teaching of “Emptiness” in terms of non-duality. When asked by Manjusri to
define the non-dual truth, Vimalakirti simply remained silent. The sutra
emphasized on real practice “The true nature of things is beyond the limiting
concepts imposed by words.” The sutra was translated into Chinese by
Kumarajiva.
Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bản Nguyện
Công Đức:
Bhaisaya-guru-vaiduryaprabhasapurvapranidhanavisesavistara—Kinh nhấn mạnh về
những công đức của Đức Dược Sư Như Lai và khuyên chúng sanh hãy tin tưởng vị
Phật nầy để được vãng sanh Thiên đường Đông Độ; tuy nhiên, kinh không phủ nhận
Tây phương Cực Lạc. Kinh được Ngài Huyền Trang dịch sang Hán tự—The Medicine
Buddha Sutra—The sutra stresses on the merits and virtues of Bhaisaya-Guru and
encourages sentient beings to have faith in this Buddha so that they ca be
reborn in the Eastern Paradise; however, the sutra never denies the Western
Paradise. The Sutra was translated into Chinese by Hsuan-Tsang—See Mười Hai Lời
nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Phật.
Kinh Đại Bát Niết Bàn: Mahaparinirvana-Sutra—Kinh thuyết về Phật nhập diệt và
nhữõng giáo lý của Ngài, còn gọi là Kinh Thiên Đường. Kinh cũng bàn về lý
thuyết bản tánh Phật vốn có ở mọi thực thể. Kinh được Ngài Đàm Vô Sám dịch sang
Hán tự—Maha Parinirvana Sutra—Great Nirvana—The sutra or sermon of the Great
Decease or passing into final Nirvana—A long sutra containing a description of
the Buddha’s passing and his teaching—The Paradise Sutra. The sutra also deals
with the doctrine of Buddha-nature, which is immanent in all beings. The
sutra was translated into Chinese by Dharmaksema.
Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni: Mahakaruna Dharani Sutra—A Sutra of the Esoteric Buddhist
tradition—The Teaching of the powerful effect of the Avalokitesvara
Maha-Bodhisattva Great Compassion Mantra.
Kinh Đại Bửu Tích: Maha Ratnakuta Sutra—Kinh được ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch
sang Hoa ngữ, là một trong những kinh điển xưa nhất của Phật Giáo Đại Thừa.
Trong Đại Bảo Tích, tư tưởng Trung Đạo được triển khai. Kinh cũng nói về trí
huệ siêu việt (Bát Nhã Ba La Mật Đa trong trường Kinh A Di Đà)—Tạng kinh điển
rất quan trọng gồm 6000 trang trong chín quyển chứa đựng hầu hết những giáo
điển trọng đại của Đại Thừa nhằm đưa chúng sanh đến chỗ Giác Ngộ Tối Thượng của
Phật quả—The sutra was translated into Chinese by Bodhiruci, one of the oldest
sutras of Mahayan. In the Ratnakuta, the thought of the Middle Way is
developed. It also contains sutras on transcendental wisdom (Prajan Paramita
Sutra and Longer Amitabha Sutra)—A very important sutra (6000 pages in nine
volumes) which contains almost all the most critical teaching of the Mahayana
Tradition (Great Vehicle) to carry sentient beings to the Ultimate
Enlightenment of Buddhahood.
Kinh Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân
Thật Tam Ma Đà:
Adhyardhasatika-Prajnaparamita-Sutra—Còn được gọi là “Lý Thú Kinh” hoặc “Bát
Nhã Lý Thú Kinh.” Đây là tinh yếu giáo lý của Mật Tông, dạy cách tu hành thành
Phật ngay trong đời nầy. Kinh được Ngài Bất Không dịch sang Hán tự—Also called
“The Interesting Sutra” or “The Interesting Prajna Sutra.” It stressed on the
essence of the Tantric schools that taught how to practice and become a Buddha
in this very life. The sutra was translated into Chinese by Amoghavajra.
Kinh Đại Niết Bàn: Maha-Parinirvana Sutra—Great Nirvana Sutra—See Kinh Đại
Bát Niết Bàn.
Kinh Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm: MahaVaipulya-Avatamsaka-Sutra—Buddhavatamsaka Sutra—Kinh
điển Đại Thừa gồm những giáo lý căn bản của trường phái Hoa Nghiêm, nhấn mạnh ý
tưởng về “Sự thâm nhập tự do lẫn nhau” của tất cả mọi sự vật. Kinh cũng dạy
rằng nhơn tâm là cả một vũ trụ và đồng nhất với Phật. Do đó, tâm, Phật, và
chúng sanh không sai khác. Trường phái Thiền đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh
nầy của học thuyết Đại thừa. Kinh được Ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch sang Hán
tự—The Sutra of the Garland of Buddhas. Mahayana sutra that constitutes the
basis of the teachings of the Avatamsaka school (Hua-Yen), which emphasizes
above all “mutually unobstructed interpenetration.” The sutra also
teaches that the human mind is the universe itself and is identical with the
Buddha. Indeed, the mind, Buddha and all sentient beings are one and the same.
This aspects of the Mahayana teaching was especially stressed by the Chinese
Zen. The sutra was translated into Chinese by Buddhabhadra.
Kinh Đại Tập: Great Heap Sutra.
Kinh Đại Thừa: Mahayana sutras—Trong số các bộ kinh của Đại Thừa, có chín
kinh sách được xem là quan trọng nhất. Các bộ kinh nầy được gọi là các kinh
Phương Quảng (Vaipulya sutras)—Among the Mahayanist sutras, nine texts are
regarded as the most important. These are called the Vaipulya sutras:
1) Bát Thiên Tụng: Astasahasrika-prajna-paramita.
2) Diệu Pháp Liên Hoa: Sadharma-pundarika.
3) Lăng Già: Lankavatara.
4) Phổ Diệu: Lalitavistara.
5) Kim Quang Minh: Suvarna-prabhasa.
6) Hoa Nghiêm: Gandavyuha.
7) Như Lai Mật: Tathagata-guhyaka.
8) Tam Muội Vương: Samadhi-raja.
9) Thập Địa Tự Tại: Dasabhumisvara.
Kinh Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật
Thần Biến Gia Trì Kinh:
Mahavairocanabhisambodhivikur-Vitadhisthanna-vaipulya-Sutrendra-Raja-Nama-Dharmaparyaya—Đây
là một trong những kinh điển căn bản của Phật giáo Mật tông, còn được gọi là
Kinh Đại Nhựt Như Lai. Kinh được các Ngài Thiện Vô Úy và Nhứt hạnh cùng dịch
sang Hán tự—This is one of the fundamental sutras in Tantric Buddhism. It is
also called “Mahavairocana Sutra.” The sutra was translated into Chinese by
Subhakarasimha and I-hsing.
Kinh Đại Vô Lượng Thọ: The Great Infinite Life Sutra.
Kinh Đạo: Giáo thuyết của kinh—The doctrine of the sutras.
Kinh Đạt Ma Đa La Thiền Kinh: Yogacharabhumi-Sutra—Đây là kinh điển do Đạt Ma Đa La và
Phật Đại Tiên biên soạn để phổ biến về phương pháp thiền định cho các trường
phái Tiểu thừa vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch. Kinh được Ngài Phật Đà bạt Đà La
dịch sang Hán tự. Kinh chia làm năm phần—This sutra is composed by Dharmatrata
and Buddhasena in the 5th century AD on the methods of meditation for the
Hinayana. The sutra was translated into Chinese by Buddhabhadra. The
sutra was divided into five parts:
1) Mười bảy vùng đất đánh dấu sự tiến bước trên đường đại giác
với sự trợ giúp của giáo lý Tiểu thừa Yogachara. Đây là phần quan trọng nhất:
The seventeen stages presenting the progression on the path to enlightenment
with the help of the Yogachara teaching, this is the most important part.
2) Những lý giải về những vùng đất khác nhau ấy:
Interpretations of these stages.
3) Giải thích các kinh điển làm chỗ dựa cho giáo điều về các vùng
đất Yogachara: Explanation of these sutras from which the Yogachara doctrine of
the stages draws support.
4) Các phạm trù chứa đựng trong các kinh điển ấy:
Classifications contained in these sutras.
5) Các đối tượng của kinh điển Phật giáo (kinh, luật, luận):
Topics from the Buddhist canon (sutra, Vinaya-pitaka, Abhidharma).
Kinh Địa Tạng: Ksitigarbhapranidhana-Sutra—Kinh Địa Tạng, nói về một vị
Bồ Tát ở vào thời kỳ vô Phật, tức là thời kỳ giữa lúc Phật Thích Ca nhập diệt
và Phật Di Lặc ra đời. Trong thời ký nầy không có một vị Phật nào cả; tuy
nhiên, thế giới Ta Bà vẫn có Bồ Tát Địa Tạng với bổn nguyện rộng lớn là cứu độ
mọi chúng sanh đau khổ của địa ngục. Kinh được Ngài Thật Xoa Nan Đà dịch sang
Hán tự—Earth Store Sutra mentioned about the Buddhaless period, the period from
the time the nirvana of the historical Buddha until the time the coming Buddha
Maitreya descends. In this period, ther is no Buddha; however, the Saha world
still has Earth-Store Bodhisatva who vows to save all beings in hells.
The sutra was translated into Chinese by Siksananda.
Kinh Điển: Tipitaka (skt)—Những bài thuyết giảng của Đức Phật Thích
Ca. Tam tạng Kinh Điển bao gồm Kinh, Luật và Luận. Phật Giáo Nguyên Thủy thừa
nhận kinh điển được ghi lại bằng tiếng Ba Li (Nam Phạn). Phật giáo Đại Thừa
thừa nhận kinh điển được ghi lại bằng tiếng Bắc Phạn—Canon—Buddhist Sutras—The
discourses of Buddha—Canon—Three baskets in Pali recognized by Theravada
school. Sutras were written down in Sanskrit recognized by the Mahayana school,
including the sutras (kinh), Tantras (luật), and the Commentary (luận).
Kinh Điển Đại thừa: Mahayana sutras.
Kinh Đường: Sutra Hall.
Kinh Gia: Người kết tập kinh điển, như Ngài A Nan, theo truyền thống
được ghi lại thì chính ông là người đầu tiên đã kết tập kinh điển Phật giáo—One
who collected or collects the sutras, especially Ananda, who according to
tradition recorded the first Buddhist sutras.
Kinh Giả:
1) Bậc uyên thâm và có khả năng thuyết giảng thông suốt kinh
luật: One who expounds the sutras and sastras.
2) Bậc uyên thâm và giảng giải thông suốt kinh Pháp Hoa: One
who keeps the teaching of the Lotus Sutra.
Kinh Giải Thâm Mật: Samdhinirmocana-Sutra—Đây là kinh điển căn bản của Pháp
Tướng Tông, nội dung nói về tư tưởng của trường phái Duy Thức. Mọi hiện tượng
đều là trạng thái của tâm thức. Các đối tượng chỉ tồn tại qua quá trình trí
tuệ, chứ không tồn tại như vốn có. Kinh được Ngài Huyền Trang dịch sanh Hán tự
—This is the basic sutra for the Dharmalaksana sect. The sutra based on the
central notion of the Yogachara, everything experienceable is mind only. Things
exist only as processes of knowing, not as objects. The sutra was
translated into Chinese by Hsuan-Tsang.
Kinh Giáo: The teaching of the sutras—See Kinh Lượng Bộ.
Kinh Giới: Kinh và giới luật,hay những giới luật được tìm thấy trong
kinh điển. Những giới luật được coi là căn bản bất hư—Sutras and commandments;
the sutras and morality or discipline. The commandments found in the sutras.
The commandments regarded as permanent and fundamental.
Kinh Hạ Sanh Di Lặc Thành Phật: Maitreyavyakarana Sutra—Kinh ghi lại rằng sau thời Phật
Thích ca nhập diệt thì thế giới Ta Bà bước vào một thời kỳ không có Phật. Hiện
thời Đức Di Lặc đang thuyết pháp trên cung trời Đâu Suất, Ngài sẽ xuất hiện và
thành Phật trong hội Long Hoa. Kinh được Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hán
tự—The sutra mentioned that after the historical Buddha sakyamuni’s Nirvana,
the whole Saha world entered a period without any Buddha (a Buddhaless period).
At this time, the Buddha-to-be is still preaching in the Tushita. He will
descend and become the Buddha in the “Long Hoa” assembly. The sutra was
translated into Chinese by Kumarajiva.
Kinh Hãi: To be frightened.
Kinh Hành: Cankrama (skt).
1) Hành thiền bằng cách đi tới đi lui để tránh buồn ngủ (có thể
đi trong sân nhà, sân chùa, hay quanh Phật điện): Meditative walking by walking
up and down. To walk about when meditating to prevent sleepiness.
2) Tập dưỡng thân phòng bệnh trong hành lang tự viện: Exercise
to keep in health; the cankramana was a place for such exercise, i.e. a
cloister, a corridor.
Kinh Hoa Nghiêm: Avatamsaka (skt)—Flower Ornament Sutra—Nhan đề Phạn ngữ
của Hoa Nghiêm là Avatamsaka, nhưng Pháp Tạng trong bản chú giải kinh Hoa
Nghiêm bộ 60 quyển nói nguyên ngữ chính là Gandavyuha. Avatamsaka có nghĩa là
“một tràng hoa” trong khi nơi chữ Gandavyuha, thì ganda là “tạo hoa” hay một
loại hoa thường và “vyuha” là “phân phối trật tự” hay “trang sức.” Hoa Nghiêm
có nghĩa là trang hoàng bằng hoa. Hoa Nghiêm là một trong những bộ kinh thâm áo
nhất của Đại Thừa, ghi lại những bài thuyết pháp của Đức Phật sau khi Ngài đã
đạt giác ngộ viên mãn. Gandavyuha là tên phẩm kinh kể lại công trình cầu
đạo của Bồ Tát Thiện Tài Đồng Tử. Bồ Tát Văn Thù hướng dẫn Đồng Tử đi tham vấn
hết vị đạo sư nầy đến vị đạo sư khác, tất cả 53 vị, trụ khắp các tầng cảnh
giới, mang đủ lốt chúng sanh. Đây là lý thuyết căn bản của trường phái Hoa
Nghiêm. Một trong những kinh điển dài nhất của Phật giáo, cũng là giáo điển cao
nhất của đạo Phật, được Đức Phật thuyết giảng ngay sau khi Ngài đại ngộ. Người
ta tin rằng kinh nầy được giảng dạy cho chư Bồ tát và những chúng hữu tình mà
tâm linh đã phát triển cao. Kinh so sánh toàn vũ trụ với sự chứng đắc của Phật Tỳ
Lô Giá Na. Kinh cũng nhấn mạnh rằng mọi sự vật và mọi hiện tượng đồng nhất thể
với vũ trụ. Sau khi khảo sát về nội dung của Kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy
kinh khởi đầu bằng những bản kinh độc lập và về sau được tập hợp thành một dòng
thơ, mỗi thể tài được trình bày trong các kinh đó đều được xếp loại theo từng
thể và được gọi chung là Hoa Nghiêm—The Garland Sutra—The Sanskrit title is
Avatamsaka, but it is Gandavyuha according to Fa-Tsang’s commentary on the
sixty-fascile Garland Sutra. Avatamsaka means a ‘garland,’ while in Gandavyuha,
ganda means ‘a flower of ordinary kind,’ and vyuha ‘an orderly arrangement’ or
‘array.’ Gandavyuha means ‘flower-decoration.’ Avatamsaka is one of the
profound Mahayana sutras embodying the sermons given by the Buddha immediately
following his perfect enlightenment. The Gandavyuha is the Sanskrit title for a
text containing the account of Sudhana, the young man, who wishing to find how
to realize the ideal life of Bodhisattvahood, is directed by Manjusri the
Bodhisattva to visit spiritual leaders one after another in various departments
of life and in various forms of existence, altogether numbering
fifty-three. This is the basic text of the Avatamsaka school. It is one
of the longest and most profound sutras in the Buddhist Canon and records the
highest teaching of Buddha Sakyamuni, immediately after enlightenment. It is
traditionally believed that the sutra was taught to the Bodhisattvas and other
high spiritual beings while the Buddha was in samadhi. The sutra has been described
as the “epitome of Budhist thought, Buddhist sentiment, and Buddhist
experiences” and is quoted by all schools of Mhayana Buddhism. The sutra
compares the whole Universe to the realization of Vairocana Buddha. Its basic
teaching is that myriad things and phenomena are the oneness of the Universe,
and the whole Universe is myriad things and phenomena. After examining the
sutra, we find that there were in the beginning many independent sutras which
were later compiled into one encyclopaedic collection, as the subject-matters
treated in them are all classified under one head, and they came to be known as
Avatamsaka.
Kinh Hoàng: Terrified—Scared—Consternated.
Kinh Hoảng: See Kinh hoàng.
Kinh Hồn: Frightened out of one’s wits.
Kinh Kệ: See Kinh điển.
Kinh Khê: Tức Trạm Nhiên Đại Sư, vị tổ thứ chín của tông Thiên Thai
ở Trung Hoa—Ching-Ch’i, thorn stream, name of the ninth T’ien-T’ai patriarch
Chan-Jan.
Kinh Khủng: Dreadful—Fearful—Frightened.
Kinh Kim Cang: See Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa: Vajracchedika-Prajna-Paramita (skt)—Kinh Kim Cang, một
trong những kinh thâm áo nhứt của kinh điển Đại Thừa. Kinh nầy là một phần độc
lập của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa. Kinh Kim Cang giải thích hiện tượng không
phải là hiện thực, mà chỉ là những ảo giác hay phóng chiếu tinh thần riêng của
chúng ta (Bất cứ hiện tượng và sự vật nào tồn hữu trong thế gian nầy đều
không có thực thể, do đó không hề có cái gọi là “ngã”). Chính vì thế mà người
tu tập phải xem xét những hoạt động tinh thần của hiện tượng sao cho tinh thần
được trống rỗng, cởi bỏ và lắng đọng. Nó có tên Kim cương vì nhờ nó mà chúng
sanh có thể cắt bỏ mọi phiền não uế trược để đáo bỉ ngạn. Kinh được kết thúc
bằng những lời sau: “Sự giải bày thâm mật này sẽ gọi là Kinh Kim Cang Bát Nhã
Ba La Mật Đa. Vì nó cứng và sắt bén như Kim Cương, cắt đứt mọi tư niệm tùy tiện
và dẫn đến bờ Giác bên kia.” Kinh đã được Ngài Cưu Ma La Thập dịch ra Hán
tự—Sutra of the Diamond-Cutter of Supreme Wisdom, one of the most profound
sutras in the Mahayana, an independent part of The Vairacchedika Prajanparamita
Sutra. The Diamond Sutra shows that all phenomenal appearances are not ultimate
reality but rather illusions or projections of one’s mind (all mundane
conditioned dharmas are like dreams, illusions, shadow and bubbles). Every
cultivator should regard all phenomena and actions in this way, seeing them as
empty, devoid of self, and tranquil. The work is called Diamond Sutra because
it is sharp like a diamond that cuts away all necessary
conceptualization and brings one to the further shore of enlightenment.
The perfection of wisdom which cuts like a diamond. The sutra ends with the
following statement: “This profound explanation is called
Vajracchedika-Prajna-Sutra, for the diamond is the gem of supreme value, it can
cut every other material (thought) and lead to the other Shore.” The sutra was
translated into Chinese by Kumarajiva—A gatha of the Diamond Sutra states:
*Nhứt
thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ, diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
*All
phenomena in this world are
Like a dream, fantasy, bubbles,
They are also like dew, thunder, and lightening;
One must understand life like that.
Kinh Kim Cang Đảnh Nhất Thiết Như
Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương Kinh:
Sarva-tathagatatattvasamgrahama-Hayanabhisamayamahakaparaya—Kinh điển căn bản
của Mật giáo, nói về các nghi thức đặc thù Mật giáo. Kinh được Ngài Bất Không
dịch sang Hán tự—This is the basic sutra of the Tantric Buddhism, stressed on
special tantric rituals. The sutra was translated by amoghavajra.
Kinh Kim Quang Minh: Suvarnaprabhasa-Sutra—Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương—Kinh Đại thừa cho rằng đọc tụng sẽ được sự hộ trì của Tứ Thiên Vương.
Chính vì thế mà thời trước kinh đóng một vai trò quan trọng trong việc du nhập
đạo Phật vào Nhật bản. Kinh nhấn mạnh tới khía cạnh chánh trị của đạo Phật, và
vì lý do đó nó được nhiệt liệt hưởng ứng bởi giai cấp lãnh đạo Nhật. Ý tưởng
chánh của kinh là đức trí năng phân biệt thiện ác. Mọi người từ lãnh đạo đến
tiện dân đều phải tuân theo “ánh sáng bên trong” ấy. Kinh được Ngài Nghĩa Tịnh
dịch sang Hán tự—Suvarnaprabhasa-sutra (skt)—The Sutra of Golden Light—Golden
Light Supreme King Sutra, A Mahayana sutra mentioned that those who recite it
will receive the support and protect from the four heavenly kings. That was why
it played a major role in establishing Buddhism in Japan. It stressed the
political aspect of Buddhism and thus was highly regarded by the Japanese ruling
class. The main theme of the sutra is the virtue of wisdom (inner light) which
discriminates good and evil. Each person from the ruler to those in the lowest
state, must follow this “inner light.” The sutra was translated into Chinese by
I-Ching.
Kinh Lăng Già: Lankavatara Sutra (skt)—Kinh Lăng Già là giáo thuyết triết
học được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết trên núi Lăng Già ở Tích Lan. Có lẽ
kinh nầy được soạn lại vào thế kỷ thứ tư hay thứ năm sau Tây Lịch. Kinh nhấn
mạnh về tám thức, Như Lai Tạng và “tiệm ngộ,” qua những tiến bộ từ từ trong
thiền định; điểm chính trong kinh nầy coi kinh điển là sự chỉ bày như tay
chỉ; tuy nhiên đối tượng thật chỉ đạt được qua thiền định mà thôi. Kinh
có bốn bản dịch ra Hán tự, nay còn lưu lại ba bản. Bản dịch đầu tiên do Ngài
Pháp Hộ Đàm Ma La sát dịch giữa những năm 412 và 433, nay đã thất truyền; bản
thứ nhì do ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch vào năm 443, gọi là Lăng Già A Bạt Đa La
Bảo Kinh, gồm 4 quyển, còn gọi là Tứ Quyển Lăng Già; bản thứ ba do Ngài
Bồ Đề Lưu Chi dịch sang Hán tự vào năm 513, gồm 10 quyển, gọi là Nhập Lăng Già
Kinh; bản thứ tư do Ngài Thực Xoa Nan Đà dịch vào những năm 700 đến 704
đời Đường, gọi là Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh, gồm 7 quyển, nên còn gọi là Thất
Quyển Lăng Già. Đây là một trong những bộ kinh mà hai trường phái Du Già và
Thiền tông lấy làm giáo thuyết căn bản. Kỳ thật bộ kinh nầy được Tổ Bồ Đề Đạt
Ma chấp thuận như là bộ giáo điển được nhà Thiền thừa nhận. Trong Kinh Lăng
Già, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán rằng, “về sau nầy tại miền nam Ấn Độ
sẽ xuất hiện một vị đại sư đạo cao đức trọng tên là Long Thọ. Vị nầy sẽ đạt đến
sơ địa Bồ Tát và vãng sanh Cực Lạc.”—A philosophical discourse attributed to
Sakyamuni as delivered on the Lanka mountain in Ceylon. It may have been composed
in the fourth of fifth century A.D. The sutra stresses on the eight
consciousness, the Tathagatha-garbha and gradual enlightenment through slow
progress on the path of meditative training; the major idea in this sutra is
regarding that sutras merely as indicators, i.e. pointing fingers; however,
their real object being only attained through personal meditation. There have
been four translations into Chinese, the first by Dharmaraksa between 412-433,
which no longer exists; the second was by Gunabhada in 443, 4 books; the third
by Bodhiruci in 513, 10 books; the fourth by Siksananda in 700-704, 7 books.
There are many treatises and commentaries on it, by Fa-Hsien and others. This
is one of the sutras upon which the Zen and Yogacara schools are based. In fact,
this was the sutra allowed by Bodhidharma, and is the recognized text of the
Ch’an School. In the Lankavatara Sutra, Sakyamuni Buddha predicted, “In the
future, in southern India, there will be a great master of high repute and
virtue named Nagarjuna. He will attain the first Bodhisattva stage of Extreme
Joy and be reborn in the Land of Bliss.”
Kinh Lăng Nghiêm: Surangama Sutra (skt)—Tên đầy đủ là Kinh Đại Phật Đảnh Thủ
Lăng Nghiêm, là bộ kinh thâm sâu nguyên tác bằng tiếng Phạn, được viết vào thế
kỷ thứ nhất sau Tây Lịch. Kinh Lăng Nghiêm được ngài Paramartha (Chơn Đế) đem
sang Trung quốc và được thừa tướng Vương Doãn giúp dịch vào khoảng năm 717 sau
Tây Lịch (có người nói rằng vì vụ dịch kinh không xin phép nầy mà hoàng đế nhà
Đường nổi giận cách chức thừa tướng Vương Doãn và trục xuất ngài Chơn Đế về Ấn
Độ). Bộ kinh được phát triển và tôn trọng một một cách rộng rãi ở các nước Phật
Giáo Đại Thừa. Cùng với các vấn đề khác, kinh giúp Phật tử tu tập Bồ Tát Đạo.
Kinh còn nói đầy đủ về các bước kế tiếp nhau để đạt được giác ngộ vô thượng.
Kinh cũng nhấn mạnh đến định lực, nhờ vào đó mà đạt được giác ngộ. Ngoài ra,
kinh còn giải thích về những phương pháp “Thiền Tánh Không” bằng những phương
thức mà ai cũng có thể chứng ngộ được—Also called the Sutra of the Heroic One.
This profound writing, originally in sanskrit, written in the first century
A.D. The sutra was brought to China by Paramartha and translated into Chinese
with the assistance of Wang Yung about 717 A.D. (some said that it was angered
the T’ang Emperor that this had been done without first securing the permission
of the government, so Wang-Yung was punished and Paramartha was forced to
return to India)—It is widely developed and venerated in all the Mahayana
Buddhist countries. Among other things, the sutra helps Buddhist followers
exercising Bodhisattva magga. It deals at length with the successive steps for
the attainment of supreme enlightenment. It also emphasizes the power of
samadhi, through which enlightenment can be attained. In addition, the sutra
also explains the various methods of emptiness meditation through the practice
of which everyone can realize enlightenment.
Kinh Lễ Sáu Phương: Worship in the Six Directions Sutra—See Kinh Lễ Sáu Phương
in Appendix A (7).
Kinh Liên Đới: Book of Relations.
Kinh Luân: To adminster—To manage.
Kinh Luận: The sutras and sastras—See Kinh Luật Luận.
Kinh Luận Nghị: Upadesa—Thuyết về Lý Luận—Discussions of doctrine.
Kinh Luật Luận: Sutras, Vinaya, Abhidharma sastras (skt)—Tam Tạng Kinh
Điển Phật—The three divisions of the Buddhist canon.
1) Kinh: Sutra (skt)—See Kinh and Kinh Bổn.
2) Luật: Vinaya (skt)—See Vinaya in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
3) Luận: Sastra (skt)—See Abhidharma in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Luận A Tỳ Đạt Ma Câu Xá in
Vietnamese-English Section.
Kinh Lượng Bộ: Sautrantika or Santrantivadin (skt)—Thuyết Độ Bộ—Thuyết
Chuyển Bộ—Giáo thuyết trong kinh điển (một trong 18 bộ của Tiểu Thừa. Sau khi
Đức Phật nhập diệt 400 năm, nó được tách ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Trong
số Tam Tạng chỉ có bộ nầy dùng kinh làm chính lượng nên gọi là Kinh Lượng Bộ,
người khai sáng ra bộ nầy là Cưu Ma La Đà (bộ phái nầy chỉ lấy Kinh làm chính
lượng, chỉ dùng kinh điển để chứng minh). Bộ nầy cho rằng có sự chuyển thực thể
từ kiếp nầy sang kiếp khác. Theo các Phật tử của phái nầy thì trong ngũ
uẩn của con người, chỉ có một uẩn vi tế nhất chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác,
trái với Chánh Lượng Bộ cho rằng toàn bộ ‘pudgala’ đều được chuyển đi. Phái nầy
cũng tin rằng mỗi người đều có một khả năng tiềm ẩn trở thành Phật, đây vốn là
chủ thuyết của giáo phái Đại Thừa. Do những quan điểm đó nên bộ phái nầy được
xem là một cầu nối giữa Thanh Văn Thừa (thường được gọi là Tiểu Thừa) và Đại
Thừa—The teaching of the sutras, an important Hinayana school, which based its
doctrine on the sutras alone, the founder of this division is Kumara-labha.
This school believed in the transmigration of a substance (sankranti) from one
life to another. According to its followers, of the five skandhas of an individual,
there is only one subtle skandha which transmigrates, as agianst the whole of
the pudgala of the Sammitiyas. It also believed that every man had in him the
potentiality of becoming a Buddha, a doctrine of the Mahayanists. On account of
such views, this school is considered to be a bridge between the Sravakayana
(often called the Hinayana) and the Mahayana.
Kinh Ma Đăng Già: Matangi-Sutra—Kinh đặc trọng tâm vào câu chuyện về một phụ
nữ tên Ma Đăng Già, thuộc giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Độ, đã được Phật
Thích Ca thu nhận làm đệ tử. Trong nầy, Đức Phật cũng giảng tỉ mỉ rằng mọi giai
cấp đều bình đẳng. Kinh được Ngài Trúc Luật Viêm và Chi Khiêm dịch sang Hán
tự—The sutra stressed on the story of a lady named Matangi, she belonged to the
lowest class in Indian society. In this sutra, the Buddha also expounded
clearly on the “Equality” of all classes. The sutra was translated into Chinese
by Chu-lu-Yen and Chih-Ch’ien.
Kinh Ma Ha Tăng Chỉ Luật: Mahasanghika-Vinaya—Sau khi Phật nhập diệt 100 năm thì
cộng đồng Phật giáo thời bấy giờ chia làm hai phái, Thượng Tọa và Đại Chúng.
Bên Đại Chúng Bộ đã tự kết tập thành bộ luật Ma Ha Tăng Chỉ, nói về chi tiết
những giới luật của chư Tăng Ni. Kinh được Ngài Phật Đà Bạt Đà La và Pháp Hiển
dịch sang Hán tự—100 years after the Buddha’s nirvana, Buddhist community was
divided into two divisions: Theravada and Mahasanghika. The Theravada
wanted to keep the same rules since the Buddha’s time; however, the
Mahasanghika, the majority, believed proposed five points which laid foundation
for the Mahasanghika-Vinaya:
1) Một vị A La Hán vẫn còn bị cám dỗ: An arhat is still subject
to temptation.
2) Một vị A La Hán vẫn còn dấu vết của sự ngu dốt: An
arhat is still not yet free from ignorance.
3) Một vị A La Hán vẫn còn nghi ngờ về học thuyết: An arhat is
still subject to doubts concerning the teaching.
4) Một vị A La Hán có thể tu hành giác ngộ nhờ sự giúp đở của
tha lực: An arhat can make progress on the path to enlightenment through the
help of others.
5) Một vị A La hán có cơ may được cứu rỗi bằng việc lập đi lập
lại những âm thanh: An arhat can advance on the path through utterance of
certain sounds.
** This sutra was translated into Chinese by
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo: Sutra on Questions of King Milinda—See Milindapanha.
Kinh Ngạc: Surprised—Amazed—Stupified—Astounded.
Kinh Nghi: To fear and to suspect.
Kinh Nghiệm: Anubhava (skt)—Experience—Sự hiểu biết xuất phát từ sự
quan sát của cá nhân hay thực nghiệm; ấn tượng của tâm chứ không từ ký
ức—Experience means knowledge derived from personal experiment; impression on
the mind not from memory.
Kinh Nghiệm Bây Giờ: Immediate experience.
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội: Samadhirajacandrapradipa-Sutra—Kinh ghi lại một cuộc đối
thoại giữa một người trẻ tuổi tên là Nguyệt Đăng và Đức Phật Thích Ca,
trong đó Đức Phật chỉ bày cách quán tánh “Bình Đẳng” cho tất cả mọi vật.
Kinh cũng nhấn mạnh về bản chất đồng nhất của mọi sự vật, mọi vật tồn hữu đều
không có thực thể, giống như giấc chiêm bao hoặc như ảo tưởng. Nhận chân được
như vậy là đạt tới cảnh giới giác ngộ vậy. Kinh được Ngài Na Liên Đề Da Xá dịch
sang Hán tự—The sutra mentioned a dialogue between a young person named
Candragupta and the Buddha Sakyamuni. In which the Buddha taught about
“Emptiness or Sunyata” in all things. The sutra also emphasized on the
essential identity of all things, everything exists without its own reality, it
is like a dream or illusion. To realize this means to reach the realm of
enlightenment. The sutra was translated into Chinese by Narendrayasas.
Kinh Nguyệt Thượng Nữ Kinh: Candrottaradarikapariprccha-Sutra—Kinh nói về nàng Nguyệt
Thượng, con gái của ông trưởng giả Duy Ma Cật (không phải là Cư Sĩ Duy Ma Cật).
Nàng được đức Phật thọ ký rằng trong một kiếp tương lai sẽ trở thành một vị
Phật. Kinh được Ngài Xà Na Quật Đa dịch sang Hán tự—The sutra mentioned about
Candrottara, a daughter of a rich old man named Vilamakirti (not the layman
Vilamakirti). She was predicted by the Buddha that she would become a Buddha in
a future life. The sutra was translated into Chinese by Jnanaguptaad.
Kinh Nhơn Duyên: Nidana—Narratives of the past which explain a person’s
present state.
Kinh Nhơn Vương Bát Nhã Ba La Mật: Karunikaraja-Prajnaparamita-Sutra—Kinh nhấn mạnh đến “Trí
huệ Phật” trong việc duy trì an ninh phúc lợi trong quốc gia. Kinh được
Ngài Cưu Ma La Thập dịch ra Hán tự—The sutra stressed on the “Buddha wisdom”
for rulers to maintain security and welfare for the country. The sutra was
translated into Chinese by Kumarajiva.
Kinh Niên: Chronic—Lasting for a long time.
Kinh Niết Bàn: Parinirvana Sutra (skt)—Kinh Niết Bàn là bộ kinh cuối cùng
mà Đức Phật thuyết trước khi Ngài nhập diệt. Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu
trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, giáo lý của Kinh Niết Bàn là một đề tài
học hỏi hấp dẫn trong thời kỳ nầy. Đạo Sanh hằng chú tâm vào việc nghiên cứu
Kinh Pháp Hoa, cũng là một lãnh tụ trong việc quảng diễn lý tưởng Niết
Bàn. Nhân đọc bản cựu dịch kinh Niết Bàn gồm sáu quyển, ông nêu lên chủ
trương rằng Nhất Xiển Đề (Icchantika—Hạng người được xem như không có Phật tính
và không thể thành tựu Phật quả) cũng có thể đạt đến Phật quả. Rồi ngay sau đó
một bản kinh bằng Phạn ngữ về Đại Bát Niết Bàn được truyền vào và phiên dịch ra
Hán văn. Lý thuyết cho rằng Nhất Xiển Đề cũng có thể đạt đến Phật quả được tìm
thấy trong bản kinh nầy. Sau đó ông cũng soạn một bản sớ giải về Kinh Niết
Bàn—Parinirvana Sutra was the last sutra which the Buddha preached before he
passed away. According to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist
Philosophy, the doctrine of the Nirvana text was another fascinating subject of
learning at the present time. Tao-Shêng, already conspicuous in the study of
the Lotus, was also a leader in the exposition of the ideal of Nirvana. On
reading the old Nirvana text, which was in six Chinese volumes, he set forth
the theory that the Icchantika (a class of men who were bereft of Buddha-nature
and destined to be unable to evolve to the Buddha stage) could attain
Buddhahood. Soon afterwards, a Sanskrit text of the Mahaparinirvana Sutra was
introduced and translated. The theory that the Icchantika could attain
Buddhahood was found in the text. People marveled at his deep insight. Later he
also compiled a commentary on the Nirvana Sutra.
Kinh Phạm Võng: Brahmajala (skt)—Brahma-Net Sutra, or Indra’s Net Sutra,
Sutra of Net of Indra—Gọi đầy đủ là Phạm Võng Tỳ Lô Giá Na Phật Thuyết Bồ Tát
Tâm Địa Giai Phẩm Đệ Thập. Kinh được Ngài Cưu Ma La Thập, nước Thiên Trúc dịch
sang Hán tự. Kinh mang những bài học về đạo đức cho Bồ tát. Giới Luật
trong Kinh Phạm Võng được chia làm hai phần (10 giới luật Đại thừa quan
trọng mà mỗi tín đồ Phật giáo phải tuân theo hay tránh mắc phải)—The sutra was
translated into Chinese by Kumarajiva. It contains the Moral Code of the
Bodhisattva. There are two main divisions of moral code:
(A) Mười trọng giới Đại Thừa cho Phật Tử, nhất là Phật tử xuất
gia—10 rules of Mahayana, which are obligatory for every follower, especially
for monks and nuns:
1) Không sát sanh: Avoidance of killing.
2) Không trộm cướp: Avoidance of stealing.
3) Không xa hoa: Avoidance of unchase behavior.
4) Không nói dối: Avoidance of lying.
5) Không nghiệp ngập: Avoidance of use of intoxicants.
6) Không nhàn đàm hý luận: Avoidance of gossiping.
7) Không khoe khoang: Avoidance of boasting.
8) Không ganh ghét: Avoidance of envy.
9) Không đố kỵ và ác tâm: Avoidance of resentment and ill-will.
10) Không phỉ báng Tam Bảo: Avoidance of slandering of the three
precious ones.
** For more information, please see Mười
(B) Bốn mươi tám giới khinh—Forty-eight minor or lighter
precepts—See Bốn Mươi Tám Giới Khinh in Vietnamese-English Section, and
Forty-Eight Minor Precepts.
Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới: See Kinh Phạm Võng.
Kinh Pháp: Giáo thuyết hay giáo pháp được Phật nói trong kinh
điển—The doctrine of the sutras as spoken by the Buddha.
Kinh Pháp Bảo Đàn: Kinh được Lục Tổ thuyết. Văn bản chủ yếu của Thiền Nam
Tông, gồm tiểu sử, những lời thuyết giảng và ngữ lục của Lục Tổ tại chùa Bảo
Lâm được đệ tử của Ngài là Pháp Hải ghi lại trong 10 chương---Sutra of
Hui-Neng—Platform Sutra—Sixth Patriarch Sutra—The Platform Sutra of the Sixth
Patriarch’s Dharma Treasure, the basic text of the Southern Zen School in
China. The Sutra of the Sixth Patriarch from the High Seat of the Dharma
Treasure, basic Zen writing in which Sixth Patriarch’s biography, discourses
and sayings at Pao-Lin monastery are recorded by his disciples Fa-Hai. It is
divided into ten chapters.
Kinh Pháp Cú: Dharmapada (skt)—Dhammamapada (p)—Kinh Pháp Cú gồm những
thí dụ về giáo lý căn bản Phật giáo, rất phổ thông trong các xứ theo truyền
thống Phật giáo nguyên thủy. Tuy nhiên, bộ kinh nầy thuộc văn học thế gian và
được nhiều người biết đến ở các nước theo Phật giáo cũng như các nước không
theo Phật giáo, vì ngoài những giáo lý của đạo Phật, bộ kinh còn chứa đựng
những ý tưởng răn dạy chung mọi người. Kinh có 423 câu kệ, xếp theo chủ đề
thành 26 chương. Kinh Pháp Cú bàn về các nguyên tắc chủ yếu của triết học Phật
giáo và cách sống của người Phật tử nên được các tu sĩ trẻ tại các nước vùng
Nam Á học thuộc lòng. Kinh Pháp Cú khuyên người ta những điều sau
đây—Dharmapada includes verses on the basics of the Buddhis teaching, enjoying
tremendous popularity in the countries of Theravada Buddhism. However,
Dharmapada belongs to world literature and it is equally popular in Buddhist as
well as non-Buddhist countries, as it contains ideas of universal appeal
besides being a sutra of Buddhist teachings. It consists of 423 verses arranged
according to topics into 26 chapters. The Dharmapada contains the Buddha’s
teachings or the essential principles of Buddhist philosophy and the Buddhist
way of life, so it is learned by heart by young monks in Buddhist countries in
South Asia. People are advised by the Dharmapada the followings:
1) Đức Phật nhấn mạnh trong Kinh Pháp Cú về việc: “Đừng làm
điều ác, tu tập hạnh lành, và giữ cho tâm ý thanh sạch.”—The Buddha emphasizes
in the Dharmapada: “Abstain from all evil, accumulate what is good, and purify
your mind.”
2) Phải theo Trung Đạo và Bát Thánh Đạo của các vị Phật; phải
dựa vào Tam Bảo: One must follow the Middle Path, the Noble Eightfold Path of
the Buddhas; one must also take refuge in the Three Jewels (Trinity).
3) Kinh khuyên người ta nên tránh việc cúng tế có giết mổ và
tránh sự hành xác: The Dharmapada advises people to avoid all kinds of
sacrifice and the ascetic practices of self-mortification.
4) Kinh khuyên người ta nên nhấn mạnh vào việc tu tập giới,
định, huệ: The Dahrmapada advises people to concentrate in cultivating good
conduct (sila), concentration (samadhi) and insight (prajna).
5) Kinh cũng khuyên mọi người đừng nên chỉ nhìn bề ngoài đẹp đẽ
của vạn pháp mà phải nhìn kỹ những khía cạnh không tốt đẹp của chúng: The
Dharmapada advises people not to look to the external attraction of things, but
to take a close look of their unpleasant aspects.
6) Kinh luôn nhấn mạnh rằng tham, sân, si là những ngọn lửa
nguy hiểm, nếu không kềm chế được chắc hẳn sẽ không có được đời sống an lạc:
The Dharmapada always emphasizes that greed, ill-will and delusion are
considered as dangerous as fire, and unless they are held under control,
it is not possible to attain a happy life.
7) Kinh đặt nặng nguyên tắc nỗ lực bản thân, chứ không có một
ai có thể giúp mình rũ bỏ điều bất tịnh. Ngay cả chư Phật và chư Bồ Tát cũng
không giúp bạn được. Các ngài chỉ giống như tấm bảng chỉ đường và hướng dẫn bạn
mà thôi: The Dharmapada emphasizes the principles that one makes of onself, and
that no one else can help one to rid oneself of impurity. Even the Buddhas and
Bodhisattvas are of little help because they only serve as masters to guide
you.
8) Kinh khuyên người ta nên sống hòa bình, chứ đừng nên dùng
bạo lực, vì chỉ có tình thương mới thắng được hận thù, chứ hận thù không bao
giờ thắng được hận thù: The Dharmapada recommends people to live a life of
peace and non-violence, for enmity can never be overcome by enmity, only
kindness can overcome enmity.
9) Kinh khuyên nên chinh phục sân hận bằng từ bi, lấy thiện
thắng ác, lấy rộng lượng thắng keo kiết, lấy chân thật thắng sự dối trá: The
Dharmapada advises people to conquer anger by cool-headedness, evil by
good, miserliness by generosity, and falsehood by truth.
10) Kinh khuyên người ta không dùng lời cay nghiệt mà nói với
nhau kẻo rồi chính mình cũng sẽ được nghe những lời như thế: The Dharmapada
also enjoins people not to speak harshly to others, as they in their turn are
likely to do the same to us.
Kinh Pháp Hoa: Suddharma-Pundarika Sutra—The Lotus Sutra—See Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa in Vietnamese-English Section.
Kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn: Avalokitesvara Chapter in the Suddharma-Pundarika
Sutra.
Kinh Phân Biệt: Book of Treatise.
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni: The Unisha Vijaja Dharani Sutra—Một trong những giáo điển
Đại thừa dạy về Phật trí thậm thâm. Kinh cũng nhấn mạnh rằng nếu tứ chúng đệ tử
Phật (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di) thành tâm và tín tâm học đạo và
tu hành thì họ cũng có thể tận diệt ác nghiệp để đạt được trí huệ Phật ngay
trong đời kiếp nầy—One of many Mahayana dharma teachings that has profound
Buddhist wisdom that only Buddhas are capable of understanding and grasping
fully. The sutra also stresses that if the Buddha’s four kinds of disciples
(Bhikshu, Bhikshuni, Upasaka, Upasika) sincerely and faithfully recite and
cultivate the dharmas he taught, they can eliminate evil karma and attain
wisdom in this very life.
Kinh Phật Sở Hành Tán: Buddhacarita—Kinh nói về tiểu sử của Đức Phật Thích Ca do
Mã Minh Asvaghosa soạn thảo vào thế kỷ thứ nhất, và Đàm Vô Sám dịch sang Hoa
ngữ vào thế kỷ thứ bảy—The Sutra of “Life of Buddha” composed by Asvaghosa in
the first century and translated into Chinese by T’an Wu Ch’an in the seventh
century.
Kinh Phí: Expenditures—Expenses.
Kinh Phong: Convulsion.
Kinh Phổ Hiền Bồ Tát: The Sutra of Meditation of the Bodhisattva Universal
Virtue.
Kinh Phương Quảng: Kinh Phương Đẳng—Vaipulya (for Mahayana)—An extensive
exposition of principles of truth.
Kinh Quán Phật Tam Muội: Sutra on Buddha Samadhi Visualization.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Amitayurdhyana Sutra—Kinh quán Phật A Di Đà, vị Phật
trường thọ. Đây là một trong ba bộ kinh chính của trường phái Tịnh Độ. Kinh
diễn tả về cõi nước Tịnh Độ của Phật A Di Đà và phương pháp tu hành cho phái
Tịnh Độ qua cuộc sống tịnh hạnh, trì trai giữ giới và niệm hồng danh Phật A Di
Đà để gột rữa những ác nghiệp và vãng sanh Tịnh Độ. Kinh cũng nói về thời giảng
của Phật đã chỉ dẫn Hoàng Hậu Vi Đề Hi cách vãng sanh Tịnh Độ—Meditation Sutra,
the sutra on the contemplation of the Buddha Amitabha, the buddha of Boundless
Life. This si one of the three sutras that form the doctrinal basis of the Pure
Land sect. It gives description of the Pure Land of the Buddha Amitabha and the
pactice of this school through leading a pure life, observing moral rules and
recitation of Amitabha’s name to wipe away all unwholesome deeds and attain
rebirth in the Pure Land. The sutra also mentioned about the Buddha’s preaching
to help Vaidehi to attain the Pure Land.
Kinh Quỹ: Kinh điển và nghi quỹ của Mật giáo—Sutras and regulations
of the esoteric sects.
Kinh Sanh Kinh: Stories of the previous incarnations of the Buddha and his
disciples.
Kinh Sinh: Bản văn ghi lại của các bộ kinh (không phải nguyên
bản)—A copier of classical works.
Kinh Song Đối: Book of Pairs.
Kinh Sợ: To dread—To be afraid—To be frightened—To be terrified.
Kinh Sư:
1) Thầy dạy kinh điển: A teacher of the sutras or canon.
2) Kinh đô: Capital.
Kinh Sương: Rương hay hòm đựng kinh điển—A case for the scriptures,
bookcase or box.
Kinh Tạng: The Sutra-pitaka—See Kinh.
Kinh Tâm: To pay attention to—To mind.
Kinh Tháp: Tháp chứa kinh điển của Phật được coi như là xá lợi Phật.
Tháp chứa những bài kệ tụng hay chú Đà La Ni của Phật—A pagoda containing
the scriptures as relics of the Buddha, or having dharani or verses on or in
the building material.
Kinh Thắng Man: Srimala Sutra (skt)—Kinh dưới dạng những bài thuyết giảng
của nàng Công chúa Thắng Man, con vua Prasenajit của xứ Kosala. Kinh
thuyết rõ về Phật tánh trong chúng sanh mọi loài. Kinh được Ngài Cầu Na Bạt Đà
La dịch sang Hán tự---This sutra takes the form of preaching by Lady Srimala,
the daughter of King Prasenajit of Kosala with the help of Sakyamuni’s power.
It expounds the One-vehicle doctrine and makes clear that the Buddha-nature is
inherebt in all sentient beings. The sutra was translated into Chinese by
Gunabhadra.
Kinh Thí Dụ: Avadana—An exposition of the dharma through allegories.
Kinh Thiên Động Địa: To convulse the world.
Kinh Thọ Ký: Vyakarana—Prophecies by the Buddha regarding his
disciples’ attainment of Buddhahood.
Kinh Thủ: See Kinh Sinh.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Surangama Sutra (skt)—Còn gọi là Kinh Thủ Lăng Già Ma,hay
kinh của bậc “Kiện Tướng,” kinh nhấn mạnh về “Tam Muội” qua đó đại giác
được đạt tới và giải thích những phương pháp khác nhau về Thiền “Tánh không” để
đạt tới đại giác. Kinh diễn tả cách lắng tâm bằng đi sâu vào Thiền Tam muội để
gạt bỏ mọi khái niệm, trực tiếp hay gián tiếp, từ đó chân tánh hiển bày. Kinh
được Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hán tự—The Sutra of Heroic One—The sutra
emphasizes the power of samadhi, through which enlightenment can be attained
and explained the various methods of emptiness meditation through the practice
of which everyone can realize enlightenment. It describes the tranquilizing of
the mind by exclusion of concepts arising directly or indirectly from sensory
experiences, the nature of truth realized in samadhi or deepest contemplation,
and the transcendental virtues and powers resulting. The sutra was
translated into Chinese by Kumarajiva.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội: Surangamasamadhi-Sutra—See Kinh Thủ Lăng nghiêm.
Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật: Astasahasrika-Prajnaparamita-Sutra—Kinh gồm 10 quyển trong
số 37 quyển của bộ Bát Nhã Ba La Mật. Kinh nói về “Tánh Không” của chư pháp—The
sutra consists of 10 in the 37 volumes in the Great Prajnaparamita sutra. The
sutra explains about the “Sunyata” of all things.
Kinh Tởm: To have horror.
Kinh Tô Tất Địa Yết La: Susiddhi-karamaha-tantra-sadhano-Payika-Pataka—Còn gọi là
Kinh Tô Tất Địa, diễn tả những nghi thức khác nhau trong Phật giáo Mật tông.
Kinh được Ngài Thâu Ba Ca La dịch sang Hán tự—Also called “Susiddhikara-sutra,”
described various Tantric rituals. The sutra was translated into Chinese by
Subhakarasimha.
Kinh Tông: Tông phái dựa vào kinh điển làm giáo thuyết cho tông
(chuyên thụ trì và tụng đọc kinh điển), như tông Thiên Thai và Hoa Nghiêm, đối
lại với những tông phái lấy “Luận Tạng” làm giáo điển—The sutra school,
any school which bases its doctrines on the sutras, e.g. The T’ien-T’ai, or
Hua-Yen, in contrast to schools based on the sastras, or philosophical
discourses.
Kinh Trung A Hàm: Madhyamagama (skt) Majjhima Nikaya (p)—Kinh nói về những
lời dạy và đức hạnh của Đức Phật Thích Ca cũng như các đệ tử của Ngài, về Giáo
lý căn bản của Phật giáo nguyên thủy, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Kinh nầy được
Ngài Xá Lợi Phất trùng tụng trong lần Đại Hội Kết Tập Kinh Điển đầu tiên ngay
sau khi Phật nhập diệt—The Middle Length Discourses in the Pali Canon. The
sutra preached by the Buddha about his life as well as those of his disciples’,
fundamental doctrine of the Hinayana Buddhism, the Four Noble Truths and the
Dependent Origination. This collection was recited by Sariputra at the First
Buddhist Council.
Kinh Trường A Hàm: Dighagama (skt) Digha-Nikaya (p)—Long-work Sutras Kinh
Trường A Hàm, một trong những kinh điển Phật giáo xưa nhất do Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni thuyết giảng về những công đức của Phật, sự tu hành của Phật giáo, và
những vấn đề giáo lý quan trọng đặc biệt đối với Phật tử tại gia trong bổn phận
làm cha mẹ, làm con cái, làm thầy, làm trò, vân vân. Kinh được hai vị Phật Đà
Da Xá và Trúc Niệm Phật dịch sang Hoa ngữ—Long Collection, one of the oldest
Buddhist sutras expounded by the Buddha Sakyamuni, explained the Buddha’s
merits and virtues and the life of the historical Buddha, Buddhist philosophical
theories, and theories particularly important for laypeople as parents,
children, teachers, students, and so on.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương: Kinh Bốn Mươi Hai Chương. Kinh đầu tiên được dịch sang
tiếng trung Hoa, kinh chứa đựng những lý thuyết chính yếu về Tiểu thừa như các
khái niệm về ham muốn hay vô thường. Kinh được các Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc
Pháp Lan (những sư Ấn Độ đầu tiên đến Trung Quốc) dịch sang Hán tự. Tuy nhiên,
mãi đến đời Tấn mới được in ấn và lưu hành—Dvachatvarimshat-khanda-Sutra—Sutra
in Forty-Two Sections. The first Buddhist written work in Chinese language, the
essential teachings of the Lesser Vehicle, such as impermanence and desire or
craving. The sutra was translated into Chinese by (attributed to)
Kasyapamatanga and Gobharana (Chu-Fa-Lan), the first Indian monks to arrive
officially in China. It was, however, probably first produced in China in the
Chin dynasty—See Hai Mươi Điều Khó.
Kinh Từ Thiện: Metta-Sutta (p)—Maitri-Sutra (skt)—Kinh nói về lòng từ
thiện soạn bởi trường phái Phật giáo Tiểu thừa. Đây là một trong những bản văn
được biết rộng rãi nhất của Theravada và được tứ chúng của trường phái nầy trì
tụng mỗi ngày—Sutra on Kindness composed by the Hinayana school. It
is one of the most popular texts of the Theravada and recited daily by monks,
nuns and lay people in this school. The texts says:
“Đây là những gì nên làm của những
kẻ khôn ngoan, đi tìm giải thoát, và biết thực nghĩa của nơi yên tĩnh. Người đó
phải kiên quyết, ngay thẳng và thật thà; trong khi vẫn dịu dàng, chăm chú và
trừ bỏ mọi kiêu hãnh; người đó luôn sống đạm bạc và dễ bằng lòng, khiêm nhường,
chăm chỉ vừa phải, nhưng thông minh và luôn làm chủ được các giác quan—Còn về
chuyện gia đình thì không có tham vọng lớn, dễ hài lòng, không mãi miết trong những
mục đích xấu. Để cho tha nhân, các vị hiền triết phải tự trách mình. Phải cầu
cho mọi người được yên bình hạnh phúc, cầu cho tất cả được hoàn toàn hạnh phúc.
Cầu cho mọi sanh linh, đang vận động hay đang nằm im, đang bò hay đang bay, nhỏ
hay vừa, khỏe hay ốm, hữu hình hay vô hình, gần hay xa, Đã thọ sanh hay vẫn còn
nằm trong thai, tất cả đều được hạnh phúc! Cầu cho người đó đừng bao giờ trêu
chọc người khác. Hãy đừng bao giờ ai lừa gạt hay khinh miệt ai! Hãy đừng bao
giờ bị thúc đẩy bởi oán giận hay hận thù để rồi tự mình gây ra lầm lỗi! Giống như một người mẹ che chở cho đứa con, đứa con độc nhất bằng cả cuộc đời.
Đối với tất cả phải giữ gìn cho lòng mình tránh mọi ngăn cách. Bày tỏ lòng từ
thiện với tất cả mọi người, giữ cho tinh thần mình không thành kiến, không hẹp
hòi với trên, dưới và với xung quanh. Không một chút thù hằn và đối địch. Đứng,
ngồi, nằm hay đi. Dù đấu tranh chống sự yếu mềm như thế nào, cũng cố giữ lấy
tinh thần. Thái độ nầy được coi là lối sống Thánh Thần trên mặt đất. Tránh sa
vào tà thuyết, cố giữ lấy giới luật và thiền định cho trí tuệ triển khai, chiến
thắng những cơn khao khát đòi hỏi khoái lạc. Thì không còn tái sanh lần nào nữa
trong bụng mẹ—This is what should be done by a man who is wise, who seeks the
good, and know the meaning of the place of peace. Let him be strenuous or
determined, upright, and truly straight. Let him not be submerged by the things
of the world, free of cares (đạm bạc) and easily contented and joyous—Let
his sense be controlled. Let him not desire great possessions even for his
family. Let him do nothing that is mean or that the wise would reprove. May all
beings be happy and at their ease ! May they be joyous and live in
safety! All beings whether weak or strong, in high, middle or low realms
of existence, small or great, visible or invisible, near or far away, born or
to be born—May all beings be hapy at their ease! Let none deceives another, or
despites any beings in any states! Let none be anger or ill-will wish harm to
another! Even as a mother watches over and protects her child, her only
child , so with a boundless mind should one cherish all living beings,
radiating friendliness over the entire world, above, below, and all around
without limit. So let him cultivate a boundless good will towards the entire
world, uncramped, free from ill-will or enmity. Standing or walking, sitting or
lying down, during all his walking hours, let him establish this mindfulness of
goodwill, which men call the highest state. Abandoning vain discussions, having
a clear vision, free from sense appetites, he who is made perfect will never
again know rebirth.
Kinh Tượng Tích Dụ: Mahahatthipadopama Sutta (p).
Kinh Ưu Bà Tắc Giới: Upasakasila-Sutra—Kinh gồm những điều dạy cho Phật tử tại
gia tên Thiện Sanh, nói về những giới luật nên giữ gìn cho một nam Phật tử tại
gia, cũng còn được gọi là “Thiện Sanh Kinh.” Kinh được Ngài Đàm Vô Sám dịch ra
Hán tự—The sutra contains Buddha’s teachings for Sujata, mentioned precepts observed by a layman. The sutra is also called “Sujuta-Sutra” and was
translated into Chinese by T’an-Wu-Ch’an.
Kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh: Manjusripariprccha—Kinh ghi lại những giới luật tu hành
cho một vị Bồ Tát. Cũng được gọi là “Văn Thù Vấn Kinh” vì Bồ Tát Văn Thù, một
bậc Bồ Tát trí tuệ, đã hỏi Phật về những giới luật cho một Bồ Tát tu hành thành
Phật. Kinh được Ngài Tăng Già Bà La dịch sang Hán tự—The sutra mentioned all
moral rules for a Bodhisattva’s daily practice. It is also called “Manjusri’s
Questions Sutra” because Bodhisattva Manjusri, a Bodhisattva of wisdom, asked
the Buddha about moral rules for a bodhisattva to practice to attain
Buddhahood. The sutra was translated into Chinese by Sanghabhara.
Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên: Abdhuta-dharma—Accounts on miracles performed by the Buddha.
Kinh Viên Giác: Kinh nói về “Đại Giác Toàn Hảo. ” Kinh được một nhà sư Tây
Tạng tên Buddhatrata dịch sang Hoa ngữ năm 693. Mười hai vị Bồ Tát trong đó có
Văn Thù và Phổ Hiền đã nhận được từ đó những chỉ dẫn về nội dung đại giác toàn
hảo. Kinh Viên Giác có ảnh hưởng quyết định tới Thiền Tông Trung Quốc và Nhật
Bản—Sutra Of Perfect Enlightenment, a sutra that indicates the “perfect
enlightenment.” It was translated into Chinese in 693 by a Tibetan monk named
Buddhatrata. In it twelve bodhisattvas, among them Manjusri and Samantabhadra,
are instructed in the nature of perfect enlightenment. This sutra had great
influence on both Chinese and Japanese Zen.
Kinh Vô Lượng Nghĩa: Sutra of Infinite Meaning—Kinh được soạn như là phần “Dẫn
Nhập Diệu Pháp Liên Hoa.” Kinh nói về giáo lý và ý nghĩa vô lượng của Phật pháp
dùng để cắt đứt vô biên phiền não. Kinh được Ngài Đàm Ma Già Đa Gia Xá dịch
sang Hán tự—The sutra was composed as an “Introduction to the Wonder Lotua
Sutra.” The sutra stressed that only the infinite doctrine and meaning of
the Buddha’s teachings can be used to cut off countless afflictions. The sutra
was translated into Chinese by Dharmagatayasas.
Kinh Vô Lượng Quang: Sutra of Infinite Light.
Kinh Vô Lượng Thọ: Sukhavativyuha Sutra—Một trong ba bộ kinh chủ yếu của
trường phái Tịnh Độ. Có hai bản văn, một ngắn một dài. Kinh bắt đầu bằng cuộc
đối thoại giữa Phật A Di Đà và Phật Thích Ca. Đức Thích Ca ngợi khen Đức Di Đà
với cõi Tịnh Độ trang nghiêm và Đức A Di Đà tán thán Đức Thích ca thành tựu
công đức khó thành tựu nơi cõi Ta Bà ngũ trược ác thế. Kinh được Ngài Khương
Tăng Khải dịch sang Hán tự—Sutra of Infinite Life, one of the three basic
sutras of the Pure Land school. It exists in two forms: The Longer and the
Short Form of Amitabha Sutras. It begins with a dialogue between Sakyamuni
Buddha and Amitabha Buddha. Sakyamuni praises Amitabha with his Adorned Pure
Land, while Amitabha praises Sakyamuni Buddha that he had achieved unbelievable
merits and virtues in the Saha world with the five defilements and all evil
worlds. The sutra was translated into Chinese by Samghavarman.
Kinh Vô Vấn Tự Thuyết: Udana—Kinh A Di Đà—An Exposition of Dharma by the Buddha
without awaiting questions or requests from his disciples—Amitabha Sutra.
Kinh Vu Lan Bồn: The Ullambana Sutra—Kinh được Ngài Trúc Pháp Hộ dịch sang
Hán tự—The sutra was translated into Chinese by Dharmaraksa—See Vu Lan Bồn in
Vietnamese-English Section and Ullambana in Pali/Sanskrit Section—See Kinh Vu
Lan Bồn in Appendix A (10).
Kinh Y: Áo có ghi chép kinh điển trên đó, dùng để mặc cho người
chết—The garment with sutras in which the dead were dressed, so called because
it had quotations from the sutras written on it.
Kính:
1) Đường kính: A diameter.
2) Kiếng: Adarsas (skt)—Tấm kiếng—A mirror.
3) Kính trọng: To respect—Respectable—Respectful—Reverence.
Kính Ái:
1) Kính trọng và thương yêu: To respect and to love—Reverence
and love—Reverent love.
2) Một trong tứ đàn pháp của tông Chân Ngôn: One of the four
kinds of altar-worship of the Shingon sect.
Kính Biếu: To offer respectfully
Kính Cẩn: Respectfully
Kính Chuộng: To revere—To venerate—To reverence.
Kính Cốc: Gương soi bóng mình hay hang vọng tiếng động, ví với sự
cảm ứng của Đức Phật và chúng sanh—Mirror and gully, reflection and echo, i.e.
the response of the Buddhas to prayers.
Kính Dâng: To present respectfully—To offer respectfully
Kính Điền: Ngôi ruộng cung kính, nghĩa là lễ kỉnh và hộ trì Tam Bảo,
Phật, Pháp, Tăng thì sẽ được tăng thêm phước đức—The field of reverence, i.e.
worship and support the Buddha, Dharma, and Sangha as a means to obtain
blessing.
Kính Lão: To respect the aged.
Kính Lễ: Vandani (skt)—Cung kính lễ bái Phật Pháp Tăng (theo Nghĩa
Lâm Chương, cử chỉ chí thành cung kính gọi là kính, nghi thức theo đúng khuôn
phép gọi là lễ. Kính lễ còn khơi dậy lòng thanh tịnh tạo tách nghiệp thù thắng
nữa)—Paying reverence, worship.
Kính Mến: To esteem—To hold someone in high esteem.
Kính Mộ: To revere and to admire
Kính Mời: To invite respectfully
Kính Nể: Reverence—To have regard for—To have consideration for.
Kính Phục: To admire—To render homage to someone.
Kính Sơn: Một ngôi tự viện cổ tại Linh An Hiển, thuộc tỉnh Triết
Giang—An ancient monastery at Ling-An-Hsien, Che-Kiang.
Kính Tạ: To thanks respectfully.
Kính Tặng: To offer respecfully.
Kính Thân: To respect one’s parents.
Kính Thỉnh: To invite respectfully.
Kính Thưa: To report respectfully.
Kính Trọng: Kính nể—To respect—To venerate—To have regard for—To have
consideration.
Kính Tượng: Hìng ảnh trong gương, ví với cái vô thường thấy đó rồi mất
đó—The image in a mirror, i.e. the transient.
Kính Vâng: To obey respectfully.
Kính Vì: To show regard to.
Kính Viếng: To pay one’s respect to the dead person.
Kính Ý: Respecful regards.
Kính Yêu: To respect and to love.
Kình: Makara (skt)—Cá kình hay cá voi—A whale—A sea-monster.
Kình Âm: Âm thanh vang vội lại giống tiếng chuông ngân—A
reverberating sound, like that of a bell, or gong.
Kình Càng: Bulky.
Kình Chống: To compete—To contend
Kình Ngư: See Kình.
Kỉnh Huyền Đại Dương Thiền Sư: Zen master Jing-Xuan-T’a-Yang—Thiền Sư Kỉnh Huyền sanh năm
943, quê tại tỉnh Hồ Bắc, đệ tử của Thiền Sư Lương Sơn Duyên Quán—Zen master
Jing-Xuan was born in 943 in Hubei Province. He was a disciple of Zen master
Liang-Shan-Yuan-Kuan.
· Lần đầu tiên gặp gỡ Lương Sơn, sư
hỏi: “Thế nào là đạo tràng vô tướng?” Lương Sơn chỉ Bồ Tát Quan Âm, nói: “Cái
nầy là do Ngô Xứ Sĩ vẽ.” Sư suy nghĩ để tiến ngữ. Lương Sơn nhanh nhẩu nói:
“Cái nầy có tướng, cái kia không tướng.” Sư nhơn đó tỉnh ngộ, liền lễ bái.
Lương Sơn hỏi: “Sao không nói lấy một câu?” Sư thưa: “Nói thì chẳng từ, sợ e
trên giấy mực.” Lương Sơn cười, bảo: “Lời nầy vẫn còn ghi trên bia.” Sư dâng kệ
rằng:
“Ngã tích sơ cơ học đạo mê
Vạn thủy thiên sơn mích kiến tri
Minh kiêm biện cổ chung nan hội
Trực thuyết vô tâm chuyển cánh nghi.
Mong sư điểm xuất Tần thời cảnh
Chiếu kiến phụ mẫu vị sanh thì
Như kim giác liễu hà sở đắc
Dạ phóng ô kê đới tuyết phi
(Con xưa học đạo cứ sai lầm
Muôn núi ngàn sông kiếm thấy nghe
Luận cổ bàn kim càng khó hội
Nói thẳng vô tâm lại sanh nghi.
Nhờ thầy chỉ rõ thời Tần kính
Soi thấy cha mẹ lúc chưa sanh
Hiện nay giác ngộ đâu còn đắc
Đêm thả gà đen trong tuyết bay).
Lương Sơn bảo: “Có thể làm hưng thịnh tông Tào Động.”
Upon T’a-Yang’s first meeting with Liang-Shan, T’a-Yang
asked: “What is the formless place of realization?” Liang-Shan pointed to a
painting of Kuan-Yin and said: “This was painted by Wu-Chu.” T’a-Yang was about
to speak when Liang-Shan cut him off, saying: “Does this have form? Where is
the form?” At these words, T’a-Yang awakened. He then bowed. Liang-Shan said:
“Why don’t you say something?” T’a-Yang said: “It’s true I don’t speak, and I
fear putting it to brush and paper."”Liang-Shan laughed and said: “Engrave
the words on a stone memorial.” T’a-Yang then offered the following verse:
“Formerly my means of studying the Way was confused,
Seeking understanding among myriad streams and countless
mountains.
But immediate clarity is not found by sorting throught the
past.
Directly speaking “no mind” engendered more delusion.
Then, a teacher revealed my situation upon leaving Qin,
Illuminating the time before my parents’ birth.
And now, everything realized, what has been attained?
The night frees crow and cock to fly with the snow.”
Liang-Shan said: “Here the T’ong-Shan line is entrusted.” In
time, Jing-Xuan’s reputation spread widely.
· Vị Tăng hỏi: “Thế nào là câu Đại
Dương thấu pháp thân?” Sư đáp: “Đáy biển đại dương bụi hồng dấy, trên đỉnh Tu
Di nước chảy ngang.”—A monk asked T’a-Yang: “What is a phrase that penetrates
the dharmakaya?” T’a-Yang said: “Red dust rises from the bottom of the sea.
Rivers flow sideways at Mountain Sumeru’s summit.”
· Một vị Tăng hỏi Kỉnh Huyền: “Thế nào
là cảnh Đại Dương?” Sư đáp: “Hạc côi vượn lão kêu hang dội, tùng gầy trúc lạnh
tỏa khói xanh.” Vị sư hỏi: “Thế nào là người trong cảnh?” Kỉnh Huyền hỏi: “Làm
gì? Làm gì?” Vị Tăng lại hỏi: Thế nào là gia phong Đại Dương?” Kỉnh Huyền đáp:
“Bình đầy nghiêng chẳng đổ, khắp nơi chẳng người đói.”—A monk asked T’a-Yang:
“What is T’a-Yang’s state of being?” T’a-Yang said: “A gaunt crane and an old
ape call across the valley in harmony. A slender pine and the cold bamboo are
enveloped in blue mist.” The monk said: “What about the person in that state?”
T’a-Yang said: “What are you doing? What are you doing?” The monk asked: “What
is the master’s family style?” T’a-Yang said: “A full pitcher that can’t be
emptied. Across the great earth, no one hungry.”
Kịp: To catch someone up.
Kịp Thời: In time.
Ký:
1) Ghi lại, nhớ lại—To record—To
remember—To transfer—To go or put under cover.
2) Gởi : To deliver—To convey—To
transfer.
Ký Âm: Memory.
Ký Biệt: Phật ghi nhận việc các đệ tử của Ngài thành Phật, từ Phật
kiếp, Phật độ, đến Phật hiệu (Phật ghi nhận trong các kinh điển thì gọi là “Ký
Biệt,” còn đích thân Phật trao sự ghi nhận đó cho học trò thì gọi là “Thọ
Ký.”)—To record and differentiate, the Buddha fortelling of the future of his
disciples to Buddhahood, and to their respective Buddha-kalpas, Buddha-realms,
titles, etc.
Ký Biệt Kinh: Vyakarana (skt)—Một trong 12 bộ kinh, tiếng Phạn gọi là
Hòa Già La Na, dịch là Thọ Ký hay Ký Biệt Kinh—One of the twelve divisions of
the canon, the sutra which contains stories of the Buddha’s foretelling or
predictions of the future of his disciples to Buddhahood.
Ký Giả: Journalist.
Ký Khố: Gửi vào kho—Theo truyền thống địa phương, việc ký
thác (đốt giấy tiền) chẳng những tốt cho người quá vãng, mà cũng tốt cho người
sống buôn bán trong tiệm—To convey to the treasury, i.e. as paper money or good
are transferable to credit in the next world not only of the dead, but also by
the living in store for themselves, according to local tradition.
Ký Luận: Vyakarana (skt)—Bộ luận về ngữ pháp tiếng Phạn—A treatise
on Sanskrit grammar.
Ký Ngưu Lai: Cỡi trâu tìm trâu hay lấy Phật tìm Phật—To ride an ox, to
seek an ox, means to use the Buddha to find the Buddha.
Ký Tâm: See Ký Âm.
Ký Thất: Còn gọi là Thư Ký—Secretary’s office, secretary, writer.
Ký Ức: Memory—See Niệm.
Kỳ:
1) Cầu phước: Yacna (skt)—Cầu phước không được nói đến trong
giáo lý Tiểu Thừa, mà chỉ được biết đến qua giáo lý Đại Thừa, đặc biệt là trong
Mật giáo—To pray—Prayer is spoken of as absent from Hinayan, and only known in
Mahayana, especially in the esoteric sect.
2) Kỳ diệu: Kỳ lạ—Ascarya or Adbhuta
(skt)ï—Wonderful—Rare—Odd—Extraordinary.
3) Kỳ vọng: To expect—To look for—To hope.
4) Ông Thổ Thần: The Earth-Spirit.
5) Thời kỳ: A set time—A limit of time.
6) Tuổi 60: 60 years of age.
Kỳ An: To pray for peace.