Tổ
Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC
TỪ ĐIỂN - BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE -
ENGLISH VIỆT - ANH
Thiện
Phúc
Te
Té:
To fall—To tumble.
Tẻ Ngắt: Very sad.
Tẻ Nhạt: Dull.
Tế:
1) Biên địa: A border.
2) Cúng tế: Sacrifice—Sacrificial.
3) Giới hạn: Limit.
4) Hy sinh: Sacrifice.
5) Khu vực: A region.
6) Nơi giao tiếp: A juncture—To join on.
7) Tế độ: To save—To aid—To bring about.
8) Vi tế: Fine—Small—Minute—Careful—In detail.
9) Vượt sông: To cross a stream.
Tế Bần: To help the poor.
Tế Chính Bổn Giác: Tên của một đệ tử của Hòa Thượng Tế Lịch Chính Văn (see Tế
Lịch Chính Văn). Ngài là tăng cang chùa Thiên Mụ, đồng thời là trú trì chùa
Quốc Ân. Năm 1837, Hòa Thượng đã tiến hành công cuộc trùng tu đại qui mô chùa
Quốc Ân. Sau đó vào năm 1842, ngài đã cùng với Hòa Thượng Liễu Thông Giám Huệ
được vua Thiệu Trị cấp cho 500 lạng bạc để hoàn tất việc trùng tu chùa Quốc Ân.
Không ai rõ ngài thị tịch vào năm nào và ở đâu—Name of a disciple of Most
Venerable Tế Lịch Chính Văn. He was a royal-recognized monk of Thiên Mụ and
headmonk of Quốc Ân temple. In 1837, he started to rebuild Quốc Ân temple on a
large scale. Then in 1842, he and the new headmonk of Quốc Ân temple were
granted 500 ounces of silver from king Thiệu Trị to accomplish the
reconstruction of the temple. His whereabout and when he passed away were
unknown.
Tế Đàn: Altar.
Tế Độ:
1) Giúp đỡ: To aid—To help—To relieve.
2) Đưa chúng sanh qua biển luân hồi sanh tử để sang bờ Niết Bàn
bên kia: To ferry the livings across the sea of reincarnation to the shore of
nirvana.
Tế Gia: Tế Hạ—Đệ tử của tông Lâm Tế—The school, or disciples of
Lin-Chi.
Tế Hạ: See Tế Gia.
Tế Hoạt Dục: Một trong sáu loại sắc dục, ham muốn cái vẻ nuột nà bóng
bẩy xinh xắn của thân thể—One of the six kinds of sensual attractions, sexual
attraction through softness and smoothness.
Tế Lịch Chính Văn: Tên của một đệ tử của Hòa Thượng Trí Hải (see Trí Hải) ở
tại chùa Quốc Ân vào khoảng từ 1805 đến 1825. Năm 1822, Hòa Thượng được vua
Minh Mạng cấp cho 500 lạng bạc để trùng tu chùa Quốc Ân. Ngài thị tịch năm
1825, tháp mộ của ngài được kiến lập uy nghi ngay trong sân chùa—Name of a
disicple of Most Venerable Trí Hải. He stayed at Quốc Ân temple from 1805 to
1825. In 1822, king Minh Mạng granted 500 ounces of silver for him to rebuild
the temple. He passed away in 1825, his magnificent stupa was built in the garden
of the temple.
Tế Nhị: Subtle—Delicate.
Tế Sắc: Nét xinh xắn của nam nữ—Refined appearance.
Tế Tâm: Còn gọi là “Tiểu Tâm,” có nghĩa là cẩn thận—Carefully—In
detail.
Tế Tỉnh Đại Sư: Chi-Sun—Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông
Thập Tam Tổ, Tế Tỉnh Đại Sư là vị Tổ thứ 12 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa. Ngài tự
là Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường, con nhà họ Mã ở huyện Phong Nhuận. Người đời nhà
Thanh. Thuở còn bé, ngài đã thông thuộc kinh sử. Sau khi xuất gia, lại đi tham
học các nơi, rộng suốt hai tông Tánh và Tướng. Chỗ sở đắc của ngài là môn Thập
Thừa Tam Quán của Kinh Pháp Hoa. Kế đó, ngài lại tham phỏng với Thiền Sư Tụy
Như Thuần ở Quảng Thông, tỏ ngộ thấu suốt, được đắc truyền “Tâm Pháp Ấn.” Sau
khi Thuần Sư về an dưỡng nơi chùa Vạn Thọ, thì ngài lên kế nhiệm ở Quảng Thông,
sách tiến hàng hậu lai tu học, tông phong rất thạnh. Bình nhựt, ngài thường bảo
rằng: “Ngài Vĩnh Minh nguyên là bậc Tông Tượng trong chốn Thiền Môn mà còn quy
tầm về Tịnh Độ thay. Huống chi nay là thời kỳ mạt pháp, chúng ta lại càng phải
nên tuân theo hơn nữa.” Do đó nên ngài chuyên tu tịnh nghiệp, chủ trương liên
tông. Mỗi ngày đại sư hạn chế thời gian dạy chúng hoặc tiếp khách nội trong
khoảng một cây hương mà thôi, ngoài ra chỉ chuyên tâm niệm Phật. Đại sư thường
dạy rằng:
“Thật
vì Sanh Tử,
Phát
lòng Bồ Đề.
Dùng
Tín, Nguyện sâu,
Trì
danh hiệu Phật.”
Mười
sáu chữ nầy chính là cương tông của pháp môn Tịnh Độ vậy. Niên hiệu Gia
Khánh thứ 15, vào tháng hai, đại sư dự biết trước ngày lâm chung chẳng còn bao
xa, nên đi từ giả những người ngoại hộ (những người lo việc cơm nước cho chư
Tăng) mà căn dặn rằng: “Duyên hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa nên hối
tiếc. Các vị nên cố gắng niệm Phật, ắt ngày kia sẽ cùng gặp nhau nơi cõi Liên
Bang. Đến ngày mồng hai tháng chạp, đại sư cảm chút bệnh nhẹ. Khi ngài đang
ngồi chí tâm niệm Phật, bỗng thấy có vô số tràng phan, bảo cái từ phương Tây
bay tới, liền nhìn các môn đồ mà nói rằng: “Cảnh Tịnh Độ đã hiện, ta sắp về cõi
Tây Phương.” Nói xong bảo đại chúng luân phiên nhau trợ niệm. Sang ngày 17, vào
giờ Thân, ngài nói với đại chúng rằng: “Hôm qua tôi thấy ba vị Đại Sĩ Văn Thù,
Quán Âm, và Thế Chí Bồ Tát quang lâm đến. Hiện giờ lại được Đức Phật tự thân
tiếp dẫn nữa. Tôi đi đây!” Đại chúng nghe nói niệm Phật càng thêm chí thiết.
Đại sư ngồi thẳng, chắp tay hướng về Tây, bảo: “Xưng một câu hồng danh, thấy
một phần tướng hảo.” Dứt lời, ngài kiết ấn mà thị tịch. Lúc ấy tất cả đại chúng
đều nghe được mùi hương lạ ngạt ngào, bay tỏa khắp nơi. Quan tài của ngài để hở
nấp bảy ngày mà dung sắc vẫn tươi y như lúc sống. Lúc trà tỳ, được hơn 100 hạt
xá lợi màu sắc sáng chói lóng lánh. Đại sư hưởng thọ 70 tuổi, Tăng lạp
49—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of
Pureland Buddhism, Great Master Chi-Sun was the twelfth Patriarch of Chinese
Pureland Buddhism. His self-given name was Ch’e-Wu with Dharma name Nạp Đường.
His family name was Mã from Phong Nhuận district. He lived during the Ch’ing
Dynasty. From childhood he already mastered the sutra teachings. After being
ordained as a Bhiksu, he traveled abroad to learn more about Buddhism and
broadly learned both schools of Theory and Practice. The Dharma Door he
penetrated most deeply was the “Ten Vehicles and the Three Ways of Spiritual
Penetration” taught in the Dharma Flower Sutra. Next, he studied with Zen
Master Tụy Như Thuần in the Quang Thông region. He became awakened and attained
enlightenment as he received approval from his master for fully grasping the
essence of this particular Zen Tradition. Therefore, after Master Thuần retired
to the Ten-Thousand Life Temple, he assumed the headmaster position to guide
Buddhists of the future generations to learn and to cultivate Buddhism. Under
his direction, this Zen tradition flourished. Each day the Great Master often said:
"Originally Great Master Yung-Ming, the Sixth Patriarch of Chinese
Pureland Buddhism, was a highly important figure in Zen Buddhism and yet,
eventually, he turned to Pureland. In this Dharma Ending Age, it has become
even more necessary for us to follow this path. Thus, he began to focus on
cultivating pure karma mainly practicing the Lotus School Pureland Buddhism.
Each day he limited the amount of time he taught his disciples or visited with
guests to approximately the time it takes for an incense stick to burn.
Otherwise, he focused his time to practice Buddha Recitation. He often taught:
“Because
of Life-Death,
Develop
the Bodhi Mind,
Use
Faith, deep Vow,
Maintain
Reciting Buddha’s Name.”
These
sixteen words define the essence of the Pureland Dharma Door. During February
of the fifteenth year of the Gia Khánh reign period, he realized the day of his
death was near. He went and bade farewell to all those who had supported him on
his cultivated path advising them: “Life’s destinies are like illusions and so
fleeting. Treasure the time you have left and give your best efforts to
practice Buddha Recitation; perhaps one day we will meet again in the Lotus
Pureland.” Then on December 12th of that year, he came down with a minor
illness. As he sat in single-minded Buddha Recitation, he suddenly saw infinite
numbers of long flowing flags and heavenly parasols from the West flying toward
him; he looked at his disciples and said: “The Pureland Realm has appeared, I
will soon go West.” He then told the great assembly to aid his Buddha
Recitation by joining him in recitation. During the monkey hours of the
seventeenth, he said to the great assembly: “Yesterday I was visited the three
Greatly Enlightened Majusri, Avalokitesvara, and Mahasthamaprapta Maha-Bodhisattvas.
Currently Buddha has appeared to rescue and deliver me. I am leaving now. ”
Hearing this, the great assembly recited Buddha’s name more sincerely and
wholeheartedly. He put his palms together to face the West, then said: “With
each virtuous name chanted, a Buddha glorious image will be seen.” After
speaking, he immediately entered a deep samadhi state and passed away. At that
time, the great assembly sensed an extraordinary incense lingering in the air
throughout the area. The Great Master was placed in an open casket for seven
days but his appearance remained fresh as if he were still alive. After he was
cremated, he left behind 100 Caris with radiant colors reflecting clearly. The
Great Master was 70 years old with a Dharma Age of 49.
Tế Tứ Tướng: Bốn tướng vi tế sanh trụ dị diệt—The four finite
states-See Tứ Tướng.
Tế Văn: Văn tế đọc và đốt tại đám ma—The prayer or statement read
and burnt at a funeral.
Tế Ý Thức: Ý thức vi tế, còn gọi là tế tâm, tức là nhận thức vi
tế về sự sống chết, tiếp nối nhau không đứt đoạn (theo Luận Thành Duy
Thức, về chuyện sống chết, Hữu Dư Bộ có nhận thức vi tế, hành tướng nương theo
nhau, không thể làm đứt đoạn được, đây là thức thứ tám)—The vijnana of
detailed, unintermitting attention.
Tề:
1) Bằng phẳng: Even—Level.
2) Cùng một lúc: At the same time.
3) Hoàn toàn: Complete—Perfect.
4) Nhất tề: giống nhau—Uniform—Alike—Altogether.
5) Tỉnh lặng: To tranquilize—To equalize.
Tề An Thiền Sư: Zen master Qi-An—Thiền sư Tề An sanh năm 750 tại Hải Môn,
đệ tử của Thiền sư Mã Tổ—Zen master Xi-An was born in 750 in Hai-Men, was a
disciple of Ma-Tsu.
· Có vị Tăng đến hỏi: “Thế nào là bổn
thân Phật Tỳ Lô Giá Na?” Sư bảo: “Đem cái bình đồng kia đến cho ta.” Vị Tăng
liền lấy tịnh bình đem lại. Sư bảo: “Đem để lại chỗ cũ.” Vị Tăng đem bình để
lại chỗ cũ rồi, bèn hỏi lại câu trước. Sư bảo: Phật xưa đã quá khứ lâu rồi.”—A
monk asked: “What is the true body of Vairocan Buddha?” Qi-An said: “Bring me
that pitcher of pure water.” The monk brought him the pitcher. Qi-An then said:
“Now put it back where it was before.” The monk returned the bottle to its
former position. The he asked his previous question again. Qi-An said:
"The ancient Buddhas are long gone.”
· Có vị giảng sư đến tham vấn. Sư hỏi:
“Tọa chủ chứa chất sự nghiệp gì?” Giảng sư đáp: “Giảng Kinh Hoa Nghiêm.” Sư
hỏi: “Có mấy thứ pháp giới?” Vị giảng sư nói: “Nói rộng thì có thứ lớp không
cùng, nói lược có bốn thứ pháp giới.” Sư dựng đứng cây phất tử , hỏi: “Cái nầy
là pháp giới thứ mấy?” Giảng sư trầm ngâm lựa lời để đáp: “Sư bảo: “Suy mà
biết, nghĩ mà hiểu là kế sống nhà quỷ, ngọn đèn cõi dưới trời quả nhiên mất
chiếu.”—A scholar monk came to visit Zen Master Qi-An. Qi-An asked him: “What
do you do?” The monk said: “I expound the Flower Garland Sutra.” Qi-An said:
“How many different Dharma realms. But they can be reduced to four types.”
Qi-An held his whisk upright and said: “What type of Dharma realm is this?” The
monk sank into reflection. Qi-An said: “Knowing by thinking, resolving through
consideration, these are the startegies of a devil house. A single lamp, when
it’s put beneath the sun, it really isn’t bright.”
· Sư gọi thị giả: “Đem cái quạt tê
ngưu lại đây.” Thị giả thưa: “Rách rồi.” Sư nói: “Nếu quạt đã rách, trả con tê
ngưu lại cho ta!” Thị giả không đáp được. Đầu Tử trả lời dùm thị giả nói: “Con
không ngại đem con tê lại cho sư, nhưng con e rằng nó chưa mọc đủ sừng.”—Qi-An
called to his attendant, saying: “Bring me the rhinoceros fan.” The attendant
said: “It’s broken.” Qi-An said: “If the fan is broken, then bring me the
rhinoceros.” The attendant didn’t answer. T’ou-Tzi answered on behalf of the
attendant, saying: “I don’t mind to bring the rhinoceros, but I’m afraid that
he doesn’t have all his horns.
· Thiền sư Pháp Không đến thưa hỏi
những nghĩa lý trong kinh, mỗi mỗi sư đều đáp xong. Sư bèn bảo: “Từ Thiền Sư
lại đến giờ, bần đạo thảy đều không được làm chủ nhơn.” Pháp Không thưa: “Thỉnh
Hòa Thượng làm chủ nhơn lại.” Sư bảo: “Ngày nay tối rồi hãy về chỗ cũ nghỉ
ngơi, đợi sáng mai sẽ đến.” Sáng sớm hôm sau, sư sai sa Di đi mời Thiền sư Pháp
Không. Pháp Không đến, sư nhìn Sa Di bảo: “Bậy! Ông sa Di nầy không hiểu việc,
dạy mời Thiền sư Pháp Không, lại mời cái người giữ nhà đến.” Pháp Không chẳng
đáp được—A Zen master named Fa-Kong came to visit Qi-An and inquired about some
ideas expressed in the Buddhist sutras. Qi-An answered each question in turn.
When they had finished, Qi-An said: “Since the master arrived here, I haven’t
been able to play the host.” Fa-Kong said: “I invite the master to take the
role of host.” Qi-An said: “It’s late today, so let’s go back to our quarters
and take a rest. Tomorrow come here again.” Fa-Kong then went back to his room.
The next morning, Qi-An sent a novice monk to invite Fa-Kong for another
meeting. When Fa-Kong arrived, Qi-An looked at the novice monk and said: “Aiee!
This novice can’t do anything! I told him to go get Zen master Fa-Kong. Instead
he went and got this temple maintenance man!” Fa-Kong was speechless.
· Viện chủ Pháp Hân đến tham vấn. Sư
hỏi: “Ông là ai?” Pháp Hân đáp: “Pháp Hân.” Sư nói: “Tôi không biết ông.” Pháp
Hân không đáp được—The temple director named Fa-Xin, came to see Qi-An (when he
was ill). Qi-An said: “Who are you?” The temple director said: “Fa-Xin.” Qi-An
said: “I don’t know you.” Fa-Xin couldn’t respond.
· Sau sư bệnh, ngồi an nhiên thị tịch.
Vua ban hiệu “Ngộ Không Thiền Sư”—Later, the master became ill and he calmly
passed away in 839. He received the posthumous title “Zen Master Enlightened
Emptiness.”
Tề Chỉnh: Neatly attired.
Tề Duyên Thân: See Tề Nghiệp Thân.
Tề Nghiệp Thân:
1) Thân cuối cùng khi đã chấm dứt hết mọi tiền nghiệp: The
final body which brings to an end all former karma.
2) Thân Phật đã rũ sạch tiền nghiệp và nhập niết bàn: The final
body or the body of a Buddha which brings to an end all former karma before
entering nirvana.
Tề Thuyết Tề Văn: Nói và nghe cùng một lúc—Speaking and hearing together, or
at the same time.
Tệ Bạc: Ungrateful—Bad.
Tệ Đoan: Corrupt practices.
Tệ Lậu: Very bad.
Tệ Tập: Bad habits.
Tệ Thi: Pesi (skt)—Bế Thi—Tỳ La Thi—Tỳ Thi—Thai nhi thời kỳ thứ ba
trong năm thời kỳ, cái thai đến ngày thứ 37, kết lại thành hòn thịt—The embryo
in the third of its five stages, a thirty-seven days’ foetus, a lump of flesh.
Tệ Tục: Vicious customs.
Tên Giả: False name.
Tên Thật: Real name.
Tên Tuổi: Name and age.
Tết Nguyên Đán: Lunar New Year.
Bu
Bù Lại: To off-set—To make up for—To recover.
Bù Trừ: To compensate.
Bù Xù: Untidy.
Búa Rìu: Hammer and hatchet.
Bùa: Talisman.
Bùa Mê: Charm.
Bùa Yêu: Love potion.
Bùi Ngùi: Melancholy—Sad.
Bùi Phất Lược: Vaipulya (skt)—See Phương Quảng, and Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh in Vietnamese-English Section.
Bùi Tai: Pleasant to hear.
Bụi Rậm: Brushwood—Undergrowth.
Bụi Trần: Những việc trần thế làm mờ bản tánh sáng suốt, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp—Worldly dust—All mundane things that can cloud our bright self-nature. These include form, sound, scent, taste, touch and dharmas.
Bùn: Mud.
Bùn Lầy: Muddy.
Bủn Rủn: To be paralized.
Bủn Xỉn: Stingy—miserly—Mean.
Bung Ra: To untretch—To unwind.
Bùng Nổ: To break out.
Bụng Dạ: Heart
Bụng Rộng Rãi: See Bụng Tốt.
Bụng Tốt: Good heart—Good-hearted—Generous—Bountiful.
Bụng Trống: Empty stomach.
Buộc: To oblige—To constrain—To compel—To bind—To force.
Buộc Chặt: To bind tightly.
Buộc Tâm Vào Một Điểm: To concentrate exclusively on one point; try to focus on this point and nothing else.
Buộc Tội: To accuse—To indict.
Buổi Giao Thời: Period of transition.
Buổi Họp: Session—Meeting.
Buổi Lễ: Ceremony.
Buổi Sơ Khai: Beginning.
Buổi Thiếu Thời: Early youth.
Buôn Thần Bán Thánh: To earn a living from religion.
Buôn Thúng Bán Mẹt: To be a small vendor or merchant.
Buồn: Sad—Doleful—Melancholy—Dismal—Disconsolate—Drearye.
Buồn Bực: Boredom.
Buồn Chán: Boring.
Buồn Chân Buồn Tay: Not to know what to do with one’s hands.
Buồn Nản: Discouraged.
Buồn Ngủ: To be sleepy.
Buồn Rầu: Sorrowful—To feel grief.
Buồn Rười Rượi: Very sad.
Buồn Hiu: Very sad—Extremely sad.
Buông: To let go—To release.
Buông Bỏ: Letting go.
1) Giáo pháp căn bản của Đức Phật chỉ dạy chúng ta cách trấn an và khống chế “Ý mã.” Khi chúng ta buồn ngũ, chỉ cần nằm xuống, tắt đèn là buông thỏng thân tâm—A basic teaching of the Buddha on how to calm and rein in the “monkey” mind. When we feel asleep, just lie down in a quiet place, put the lights out and let go our minds and bodies.
2) Theo một câu chuyện về Thiền của Nhật Bản—According to a Japanese Zen story:
· Có hai thiền sư Ekido and Tanzan cùng hành trình về Kyoto. Khi đến gần một bờ sông, họ nghe giọng một cô gái kêu cứu. Họ bèn đến nơi thì thấy một cô gái trẻ đẹp đang trôi giạt giữa dòng sông: Zen masters Ekido and Tanzan were on a journey to Kyoto. When they approached the river side, they heard a girl’s voice calling for help. When they arrived they saw a young pretty girl, stranded in the river.
· Ekido lập tức chạy đến và mang cô an toàn sang bờ bên kia. Nơi đó Ekido cùng Tanzan tiếp tục cuộc hành trình: Ekido immediately jumped down the river and carried the girl safely to the other side where, together with Tanzan, he continued his journey.
· Khi mặt trời bắt đầu lặn, họ sắp đặt mọi việc để ổn định chỗ ở qua đêm. Tanzan không thể kềm chế mình được nữa, liền nói toạc ra. “Sao bạn có thể đem cô gái ấy lên? Bạn không nhớ là chúng ta không được phép đụng đến đàn bà hay sao?”—As the sun began to set, and they made arrangements to settle down for the night, Tanzan could no longer contain himself and blurted out: “How could you pick up that girl? Do you remember that we are not allowed to touch women?”
· Ekido liền trả lời: “Tôi chỉ đưa cô gái sang bờ bên kia, nhưng bạn vẫn còn mang cô gái ấy đến đây.”—Ekido replied immediately: “I only carried the girl to the river bank, but you are still carrying her.”
Buông Lời: To utter words.
Buông Lung: Give free rein to one’s emotion.
Những lời Phật dạy về “Buông Lung”—The Buddha’s teachings on “Giving free rein to one’s emotion”
1) Không buông lung đưa tới cõi bất tử, buông lung đưa tới đường tử sanh; người không buông lung thì không chết, kẻ buông lung thì sống như thây ma—Heedfulness (Watchfulness) is the path of immortality. Heedlessness is the path of death. Those who are heedful do not die; those who are heedless are as if already dead (Dharmapada 21).
2) Kẻ trí biết chắc điều ấy, nên gắng làm chứ không buông lung. Không buông lung thì đặng an vui trong các cõi Thánh—Those who have distinctly understood this, advance and rejoice on heedfulness, delight in the Nirvana (Dharmapada 22).
3) Không buông lung, mà ngược lại cố gắng, hăng hái, chánh niệm, khắc kỷ theo tịnh hạnh, sinh hoạt đúng như pháp, thì tiếng lành càng ngày càng tăng trưởng—If a man is earnest, energetic, mindful; his deeds are pure; his acts are considerate and restraint; lives according to the Law, then his glory will increase (Dharmapada 24).
4) Bằng sự cố gắng, hăng hái không buông lung, tự khắc chế lấy mình, kẻ trí tự tạo cho mình một hòn đảo chẳng có ngọn thủy triều nào nhận chìm được—By sustained effort, earnestness, temperance and self-control, the wise man may make for himself an island which no flood can overwhelm (Dharmapada 25).
5) Người ám độn ngu si đắm chìm trong vòng buông lung, nhưng kẻ trí lại chăm giữ tâm mình không cho buông lung như anh nhà giàu chăm lo giữ của—The ignorant and foolish fall into sloth. The wise man guards earnestness as his greatest treasure (Dharmapada 26).
6) Chớ nên đắm chìm trong buông lung, chớ nên mê say với dục lạc; hãy nên cảnh giác và tu thiền, mới mong đặng đại an lạc—Do not indulge in heedlessness, nor sink into the enjoyment of love and lust. He who is earnest and meditative obtains great joy (Dharmapada 27).
7) Nhờ trừ hết buông lung, kẻ trí không còn lo sợ gì. Bậc Thánh Hiền khi bước lên lầu cao của trí tuệ, nhìn lại thấy rõ kẻ ngu si ôm nhiều lo sợ, chẳng khác nào khi lên được núi cao, cúi nhìn lại muôn vật trên mặt đất—When the learned man drives away heedlessness by heedfulness, he is as the wise who, climbing the terraced heights of wisdom, looks down upon the fools, free from sorrow he looks upon sorrowing crowd, as a wise on a mountain peak surveys the ignorant far down on the ground (Dharmapada 28).
8) Tinh tấn giữa đám người buông lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ, kẻ trí như con tuấn mã thẳng tiến bỏ lại sau con ngựa gầy hèn—Heedful among the heedless, awake among the sleepers, the wise man advances as does a swift racehorse outrun a weak jade (Dharmapada 29).
9) Nhờ không buông lung, Ma Già lên làm chủ cõi chư Thiên, không buông lung luôn luôn được khen ngợi, buông lung luôn luôn bị khinh chê—It was through earnestness that Maghavan rised to the lordship of the gods. Earnestness is ever praised; negligence is always despised (blamed) (Dharmapada 30).
10) Tỳ kheo nào thường ưa không buông lung hoặc sợ thấy sự buông lung, ta ví họ như ngọn lửa hồng, đốt tiêu tất cả kiết sử từ lớn chí nhỏ—A mendicant who delights in earnestness, who looks with fear on thoughtlessness, cannot fall away, advances like a fire, burning all his fetters both great and small (Dharmapada 31).
11) Tỳ kheo nào thường ưa không buông lung hoặc sợ thấy sự buông lung, ta biết họ là người gần tới Niết bàn, nhất định không bị sa đọa dễ dàng như trước—A mendicant who delights in earnestness, who looks with fear on thoughtlessness, cannot fall away, he is in the presence of Nirvana (Dharmapada 32).
12) Người nào thành tựu các giới hạnh, hằng ngày chẳng buông lung, an trụ trong chính trí và giải thoát, thì ác ma không thể dòm ngó được—Mara never finds the path of those who are virtuous, careful in living and freed by right knowledge (Dharmapada 57).
13) Chớ nên theo điều ty liệt, chớ nên đem thân buông lung, chớ nên theo tà thuyết, chớ làm tăng trưởng tục trần—Do not follow the evil law, do not live in heedlessness. Do not embrace false views, do not be a world-upholder (Dharmapada 167).
14) Hăng hái đừng buông lung, làm lành theo Chánh pháp. Người thực hành đúng Chánh pháp thì đời nầy vui đời sau cũng vui—Eagerly try not to be heedless, follow the path of righteousness. He who observes this practice lives happily both in this world and in the next (Dharmapada 168).
15) Nếu buông lung thì tham ái tăng lên hoài như giống cỏ Tỳ-la-na mọc tràn lan, từ đời nầy tiếp đến đời nọ như vượn chuyền cây tìm trái—Craving grows like a creeper which creeps from tree to tree just like the ignorant man wanders from life to life like a fruit-loving monkey in the forest (Dharmapada 334).
Buông Lung Thương Ghét, Là Tự Kết Án Mình Vào Hầm Lửa Vạc Dầu: To let delusive thoughts of love and hate freely arise is to be condemned ourselves to the firepit and the boiling cauldron.
Buông Lung Trong Tham Đắm Dục Lạc: To devote onself entirely (wallow) in endless greed and lust.
Buông Xả: Detachment—Abandonment—To desert—To drop—To foresake.
**For more information, please see Buông Bỏ.
Buốt Lạnh: Ice-cold.
Bút: Cây viết—A pen.
Bút Đàm: Pen conversation.
Bút Ký: Note.
Bút Pháp Thâm Thúy: Abstruse manner.
Bút Tháp: Tên của một ngôi chùa, tên khác của chùa Ninh Phúc, chùa tọa lạc về hướng tây của thôn Bút Tháp, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, cách Hà Nội chừng 17 dậm. Đây là một trong những ngôi chùa cổ trong tỉnh Hà Bắc. Chùa đã được trùng tu nhiều lần—Name of a temple, another name for Ninh Phúc Tự, located in the west of Bút Tháp hamlet, Đình Tổ village, Thuận Thành district, about 17 miles from Hanoi. This is one of the ancient temples in the area. It has been rebuilt so many times.
Bút Thọ:
1) Ghi lại: To record.
2) Nhận được bằng văn bản: To receive in writing.
3) Viết chánh tả: Write down from dictation.
Bụt: See Phật.
Bừa Bãi: Untidy—In disorder.
Bức: Cưỡng bức—To press—To constrain—To harass—To urge.
Bức Bách: Bắt buộc hay áp lực mạnh mẽ—To compel—To force—To constrain—To bring strong pressure to bear.
Bức Hiếp: To oppress.
Bức Hôn: To force into marriage.
Bức Rức: Fidgety and uneasy.
Bức Sô: See Bật Sô and Tỳ Kheo.
Bức Sô Ni: See Tỳ Kheo Ni.
Bức Thơ: Letter.
Bức Tranh: Painting—Picture.
Bực Bội: Discomfort.
Bực Mình: Displeased—Vexed.
Bực Trung: Middle class—Average.
Bực Tức: To enrage—Hard to tolerate.
Bực Tức Khó Nhẫn: See Bực tức.
Bưng: To carry with both hands.
Bưng Mắt: To blindfold—To blind the eyes.
Bưng Tai: To stop the ear.
Bứng: To uproot—To disroot.
Bừng Bừng Nổi Giận: To ablaze with anger.
Bừng Mắt: To open the eyes suddenly.
Bước: Step—Pace.
Bước Dài: To walk with big strides.
Bước Đầu: To be preliminary.
Bước Lên: To step up.
Bước Lui: To step back.
Bước Mau: To hasten—To quicken.
Bước Một: Step by step.
Bước Ngắn: Short step.
Bước Ra: To step out.
Bước Thấp Bước Cao: To limp.
Bước Thong Thả: To step leisurely.
Bước Tới: To step forward.
Bước Xuống: To step down.
Bướng: To be stubborn.
Bứt Rứt: Irritation—Uneasy.
Bứt Tóc: To tear out one’s hair.
Bửu Hưng: Tên của một ngôi chùa cổ nổi tiếng, tọa lạc trong xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Sa Đéc, Nam Việt Nam. Chùa đã được xây từ lâu lắm, có lẽ vào giữa thế kỷ thứ 18. Trong chánh điện có ba tấm bao lam chạm trổ rất công phu. Pho tượng Phật A Di Đà bằng gỗ, cao 2 mét 5, do triều đình Huế gửi cúng dường cho chùa. Bên phải chùa có một số tháp mộ của các Hòa Thượng Giác Châu, Bửu Thành, và Giáo Đạo—Name of a famous ancient pagoda located in Hòa Long village, Lai Vung district, Sa Đéc province, South Vietnam. The pagoda was built a long time ago, probably in the middle of the eighteenth century. In the Main Hall, there are three drafts carved painstakingly. A wooden statue of Amitabha Buddha, 2.5 meters high, offered by Huế Court, is worshipped in the Main Hall. On the right-habd side of the pagoda stand the tomb stupas of Most Venerable Giác Châu, Bửu Thành, and Giác Đạo.
Bửu Lâm: Tên của một ngôi chùa cổ tọa lạc ở thôn Bửu Hội, huyện Kiến Hòa, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường (nay thuộc phường 3 thị xã Mỹ Tho). Chùa do bà Nguyễn Thị Đại xây dựng vào năm 1803. Vị trụ trì đầu tiên là Hòa Thượng Từ Lâm, nguyên ở chùa Hội Tôn tỉnh Bến Tre. Sau cơn bão lớn năm 1904, chùa được Hòa Thượng Thiên Tường trùng tu năm 1905. Chùa cất theo kiểu chữ “Tam,” chánh điện được chạm trổ rất công phu, nghệ thuật, và có nhiều câu đối có ý nghĩa về Phật Pháp. Chùa đã trải qua 10 đời truyền thừa, các Hòa Thượng Từ Lâm, Huyền Dương, Thông Nam, Thiên Tường, Nguyên Tịnh, Chơn Minh, Tỳ Kheo Ni Diệu Đạt, Hòa Thượng Tịnh Tính, Đại Đức Lệ Tín, và Hòa Thượng Huệ Thông—Name of an ancient pagoda, located in Bửu Hội hamlet, Kiến Hòa district (now is third quarter, Mỹ Tho town), Định Tường province, South Vietnam. Ms. Nguyễn Thị Đại started to build the pagoda in 1803. The first Head of the pagoda was Most Venerable Từ Lâm from Hội Tôn Pagoda of Bến Tre province. After being destroyed by the heavy storm in 1904, the pagoda was restored in 1905 by Most Venerable Thiên Tường. The pagoda was constructed in the “San” shape. In the Main Hall, there are many painstakingly carved drafts and ancient parallel sentences of profound meanings in Dharma. Bửu Lâm Pagoda has apssed through ten successive Heads as Most Venerable Từ Lâm, Huyền Dương, Thông Nam, Thiên Tường, Nguyên Tịnh, and his disciple Chơn Minh, as well as Venerable Bikkhuni Diệu Đạt, Most Venerable Tịnh Tính, Reverend Lệ Quảng, Most Venerable Huệ Thông.
Bửu Phong: Tên một ngôi chùa cổ nổi tiếng, một danh lam thắng cảnh, tọa lạc trên đồi Bửu Long, xã Tân Bửu, thành phố Biên Hòa, Nam Việt Nam. Chùa được dựng lên vào thế kỷ thứ 17, lúc đầu chỉ là một cái am nhỏ, sau đó Hòa Thượng Pháp Thông xây lại thật tôn nghiêm. Năm 1829, chùa được trùng tu và mở rộng. Đặc biệt trước chùa được trang trí rất công phu. Chùa vẫn tiếp tục được mở rộng vào các năm cuối thế kỷ 19 và các năm gần đây. Trong chánh điện có pho tượng cổ A Di Đà. Chung quanh vùng núi có các ngôi tháp cổ và các pho tượng lộ thiên khá lớn như tượng Đức Phật Đản Sinh, và tượng Đức Phật Nhập Niết Bàn—Name of a famous ancient pagoda, a spectacular scenery, located on Bửu Long Hill, Tân Bửu hamlet, Biên Hòa City, South Vietnam. The pagoda was built in the seventeenth century. Formerly, it was only a small temple which was later rebuilt by Most Venerable Pháp Thông. In 1829, the pagoda was rebuilt and enlarged, espcially the facade was decorated so meticulously. It has continuously been extended in the last years of the nineteenth century and in recent years. The ancient statue of Amitabha Buddha is worshipped in the Main Hall. The mountainous area is surrounded with ancient stupas and unroofed big statues sucha as the statue of Lord Buddha at his Holy Birth and that of Nirvan Buddha.
Bửu Quang:
1) Tên của một ngôi chùa mới được xây dựng về sau nầy, tọa lạc trong thị xã Sa Đéc, Nam Việt Nam. Chùa được Hội Phật Học Sa Đéc xây dựng trong thập niên 1950—Name of a recently built pagoda located in Sa Đéc town, South Vietnam. It was built in the 1950s by the Buddhist Studies Association of Sa Đéc.
2) Tên của một ngôi chùa nổi tiếng của Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam, tọa lạc tại ấp Gò Dưa, xã Tam Bình, quận Thủ Đức, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa được xây dựng từ năm 1939 đến 1940. Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam xuất phát từ Cam Bốt do một nhóm cư sĩ tại đây đã nghiên cứu giáo lý Nam Tông, soạn dịch kinh điển Pali ra tiếng Việt và lập chùa Sùng Phước, ngôi tổ đình của Phật Giáo Nguyên Thủy do người Việt Nam sáng lập tại Cam Bốt. Cũng từ ngôi chùa nầy mà Đại Đức Hộ Tông đã du nhập vào Việt Nam và một số chùa được ngài kiến lập như chùa Bửu Quang, Kỳ Viên. Đến năm 1957, một Tổng Hội Phật Giáo Nguyên Thủy được thành lập. Đại Đức Hộ Tông là vị Tăng Thống đầu tiên—Name of a famous Theraveda Pagoda, located in Gò Dưa hamlet, Tam Bình village, Thủ Đức district, Saigon City, South Vietnam. It was built from 1939 to 1940. Vietnam Theraveda Buddhism came from Cambodia. A group of Vietnamese Buddhist monks and lay people have lived there and studied Hinayana, edited, translated many Pali Buddhist Canonical books into Vietnamese and established Sùng Phúc Pagoda, known as the Patriarch Theravada Temple built in Cambodia by Vietnamese. It is from this pagoda that the Theravada Sect has penetrated into Vietnam. Afterwards, other Theravada pagodas were built in Vietnam as Bửu Quang and Kỳ Viên. Up to 1957, Vietnam Theravada Buddhist Association was founded. Venerable Hộ Tông was its first chairman.