Tổ Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN - BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE - ENGLISH VIỆT - ANH
Thiện Phúc
Tô
Tô:
1) Phó sản của sữa bò (sinh tô và thục
tô): Curd, butter. It is described as produced by churning milk.
2) Tốt: Good—Well—Excellent.
Tô Ba Ha: Svaha (skt)—Một câu tán thán hay một mật tự chỉ sự hoàn
tất, chúc lành, chúc tiêu tai cát tường (sự dữ tan biến và sự lành xuất
hiện)—A kind of amen; a mystic word indicating completion, good luck,
nirvana, may evil disappear and good be increased.
Tô Bạt Đà La: Subhadra (skt)—Một thức giả Bà La Môn 120 tuổi, vị đệ tử
cuối cùng được Đức Phật cho đổi sang đạo Phật—A learned Brahmin, 120 years old,
the last convert made by Sakyamuni.
Tô Bộ Để: Subhuti (skt)—See Tu Bồ Đề.
Tô Dầu: Ghrta (skt).
1) Một loại bơ trong—Ghee, or clarified
butter.
2) Một loại dầu thơm lấy từ cây tô ma:
Scented oil extracted from the sumana plant.
Tô Đà: Sudha (skt)—See Cam Lộ.
Tô Đát La:
1) Sợi chỉ: Thread.
2) Kinh điển: A classical work—Sutra,
especially the sermons or sayings of the Buddha.
Tô Đạt Đa: Sudana (skt)—See Tu Đạt.
Tô Đạt Lê Xá Na: Sudarsana (skt)—Thiện Kiến (khi nhìn thấy dáng núi người
ta dễ phát tâm lành)—Vòng núi thứ tư trong bảy vòng Kim Sơn—The fourth of the
seven concentric circles around Sumeru.
Tô Đạt Nã: Sudana (skt)—See Tu Đạt.
Tô Đăng: Một loại đèn dùng bơ và dầu hương làm dầu đốt—A lamp using
butter and fragrant oil, or a lamp burning butter-oil.
Tô Đông Pha: Su-Tung-Po—Một trong những ngôi sao văn học lớn làm sáng
ngời thế giới văn hóa của nhà Tống—One of the greatest literary stars
illuminating the cultural world of Sung.
Tô La Đa: Surata (skt)—Enjoyment—Amorous pleasures.
Tô Lầu Ba: Surupa (skt)—Of beautiful form—Handsome.
Tô Lô Đa Ba Na: Tu Đà Hườn—Nhập Lưu—Dự Lưu—See Srota-apanna in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tô Ma: Soma (skt)—See Cam Lộ.
Tô Ma Đề Bà: Soma-deva or Candra-deva (skt)—Nguyệt Thiên—The moon-deva.
Tô Ma Xà: Tiền thân Đức Phật, khi Ngài bố thí thân rắn lớn để cứu
những người đang đói—Soma-sarpa, a former incarnation of sakyamuni when he gave
his body as a great snake to feed the starving people.
Tô Mạt Na: Sumana (skt)—Một loại cây có bông vàng thơm, thường mọc
thành bụi, cao khoảng 3 hay 4 bộ, có thể là hoa “lài”—A yellow sweet-smelling
flower growing on a bush 3 or 4 feet high, perhaps the “great flowered
jasmine.”
Tô Mê: Sumeru (skt)—Núi Tu Di là trung tâm của mọi thế giới—The
central mountain of every world.
Tô Phược La: Suvarnagotra (skt)—Vương quốc mẫu hệ, nằm trong vùng Hi Mã
Lạp Sơn, còn được mô tả là bộ tộc Hoàng Kim—A matriarchal kingdom,
somewhere in the Himalayas, described as the Golden Clan.
Tô Tất Địa: Susiddhi (skt)—Một chữ bí mật trong Mật Tông, có nghĩa là
“mong sự việc thành công mỹ mãn.”—A mystic word of the Tantra School, meaning,
“may it be excellently accomplished.”
Tô Tất Địa Kinh: Susiddhi sutra—See Tô Tất Địa.
Tô Tất Địa Yết La Kinh: Susidhikara-sutra—See Tô Tất Địa.
Tô Yết Đa: Sugata or Svagata (skt)—Như Lai Như Khứ, danh hiệu của một
vị Phật—Well come or well departed, title of a Buddha.
Tố:
1) Lụa trắng—White silk.
2) Màu trắng: White.
3) Nắn nót: To model in clay.
Tố Cáo: To inform against someone—To accuse—To denounce.
Tố Cụ: Đã chuẩn bị—Already prepared.
Tố Đát Lãm: Sutra (skt)—Còn gọi là Tô Đát Lãm hay Tu Đa La—Canon (giáo
pháp).
Tố Giác: See Tố cáo.
Tố Hào: Tức tướng bạch hào, hay lông trắng ở giữa hai lông mày—The
urna, or white curl between the Buddha’s eyebrows.
Tố Khổ: To denounce someone, especially used-to-be superior,
before the people’s court for their wrong-doing or injustice in the past.
Tố Nữ:
1) Beautiful girl.
2) Name of a goddess.
Tố Pháp Thân: Dù lăn trôi trong ba đường thấp nhất vẫn có “Pháp
Thân”—Possessing the fundamental dharmakaya nature though still in sin, i.e.
the beings in the three lowest orders of transmigration.
Tố Phược Lý Nã: See Suvarna in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tố Quyến: Lụa mỏng—Thin silk—Plain silk lustring.
Tố Tâm: Pure heart.
Tố Tâm Vân Khai: Shou-Tsinh-Yun-Kai—See Vân Khai Tố Tâm.
Tố Thực: Những thức ăn trong sạch, không pha tạp mùi vị của thịt
cá—Vegetarian food.
Tố Tụng: Lawsuit.
Tố Ý: Những ý nghĩ bình thường—Ordinary thoughts, or hopes; the
common purpose of the mind.
Tổ:
1) Thủy tổ: Original founder.
2) Tổ phụ: Grandfather.
3) Tổ sư: Patriarch—Founder—People of
the present as well as people of the past.
4) Tổ tiên: Ancestors—Forefathers.
Tổ Ấn Cư Nạp: Zen master Tổ Ấn Cư Nạp—Zen master Tsu-Yin-Chu-Ne—Thiền sư
Trung Hoa, sống giữa khoảng thế kỷ thứ 11, là một học giả lớn, tinh thông kinh
Pháp Hoa và những tông phái khác của triết học Phật giáo; thậm chí những bậc
trưởng lão cũng muốn học hỏi với sư. Sư có vẻ không hay biết gì về Thiền. Một
hôm có một người khách có tiếp xúc với các hoạt động của Thiền ở phương Nam.
Người ấy bảo rằng toàn thể thế gới Phật giáo của Trung Hoa đều được thâu tóm
vào pháp môn của Đạt Ma và Mã Tổ, một trong những hậu duệ tài ba nhất của Đạt
Ma, hình như thỏa mãn một sấm ngôn của Bát Nhã Đa La và có ảnh hưởng lớn đối
với các học giả Phật giáo của xứ nầy, đến nỗi cả những người có học và hiểu ,
nổi danh khắp các vùng đất như Thục như Lượng Công và Giám Công, họ đã từ bỏ
môn đệ hay đốt cháy kho sách luận giải của mình để chứng đạt pháp môn Thiền. Cư
Nạp rất xúc động về tường thuật của ông bạn Thiền này. Người ấy khuyên sư hãy
bước ra với đời và tự mình chứng kiến mọi việc. Cư Nạp từ giả quê quán và du
hành khoảng vài năm ở Kinh và Sở, nhưng không thấy có kết quả nào. Sau đó sư
tiếp tục dời bước về đông và ngụ tại Tương Châu, trải qua mười năm với Thiền sư
Động Sơn. Một hôm, sư đang đọc một bản luận giải về kinh Hoa Nghiêm và xúc động
sâu xa về đoạn văn sau đây, nhờ thế mà sư tỏ ngộ đạo lý của Thiền: “Núi Tu Di
nổi lên giữa biển cả cao 84.000 do tuần, đỉnh của nó không phải là chỗ vin tay
đặt chân mà lên được. Đây chỉ cho ngọn núi của 84.000 trần lao nổi lên từ đại
dương của phiền não. Khi chúng sinh đạt đến chỗ vô tư vô vi đối với hết thảy
các pháp, phiền não sẽ khô cạn. Trần lao giờ đây chuyển thành ngọn núi Nhất
Thiết Trí, và phiền não trở thành biển Nhất Thiết Trí. Trái lại, nếu khởi tâm
tư lự tức có những vướng víu. Rồi ra phiền não càng thêm sâu, đường lên đỉnh
núi của Phật Trí bị ngăn chặn lại.” Cư Nạp bèn nhận xét: “Thạch Cũng nói rằng
‘không có chỗ ra tay,’ và Mã Tổ ‘vô minh từ quá khứ vô thủy nay đã tiêu tan hết
thảy.’” Đây thực không phải là lời nói hư dối—Chinese Zen master, who lived in
the middle part of the eleventh century, was a great scholar versed in the
Avatamsaka Sutra and other schools of Buddhist philosophy, and even elderly
scholars were willing to study under him. Evidently he did not know anything of
Zen. One day he had a visitor who was acquainted with the doings of Zen in the
south. He said that the entire Buddhist world of China was then taken up by the
teaching of Bodhidharma, and that of Ma-Tsu, one of his ablest descendants, who
appeared to fulfill the prophecy of Prajnatala, had exercised great influence
over the Buddhist scholars in the country, so that even men of learning and
understanding who were renowned throughout the province of Shu, such as Liang
and Chien, either gave up their own pupils or burned their library of the
commentaries, on order to master the teaching of Zen. Chu-Ne was very much
impressed with the report of his Zen friend. Advised strongly by him to go out
into the world and see the state of affairs by himself, Chu-Ne left his native
province and wandered about some years in Ching and She but without seeing and
result. He then moved further west and stayed in Hsiang-Chou for ten years
under Tung-Shan Yung. One day he was reading a treatise on the Avatamsaka Sutra
and was deeply impressed by the following passage, which opened finally his
mind to the truth of Zen: “Mount Sumeru towers in the great ocean attaining the
altitude of 84,000 yojanas, and its summit is not to be scaled by means of
hands and legs. This illustrates that the mountain of 84,000 human woes is
rising from the great ocean of passions. When beings attain the state of
consciousness in which they cherish no thoughts of relativity and from which
all strivings vanish, even when confronting this world of multiplicities, their
passions will naturally be drained off. All the worldly woes now turn into the
mountain of all-knowledge and the passions into the ocean of all-knowledge. On
the contrary, when the mind is filled with thoughts and reflections of
relativity, there are attachments. Then the greater grow worldly and the
deeper the passions, and a man is barred from reaching the summit of knowledge
which makes up the essence of Buddhahood.” Chu-Ne then observed: “According to
Shih-Kuang, ‘not a cue to get hold of,’ and according to Ma-Tsu, ‘ignorance
since the beginningless past has melted away today.’” These are indeed no
lies.
Tổ Ấn Mật Hoằng: Zen Master Tổ Ấn Mật Hoằng (1735-1835)—Thiền sư Tổ Ấn Mật
Hoằng, quê ở Phù Cát Bình Định, Trung Việt. Ngài xuất gia vào tuổi 15. Ngài thọ
cụ túc giới với Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc tại chùa Từ Ân ở Tân Khai, phủ Tân
Bình, tỉnh Gia Định. Ngài là Pháp tử đời thứ 36 dòng Lâm Tế. Vào năm 1773, ngài
trụ trì tại chùa Đại Giác. Vào năm 1802, vua Gia Long sai quan địa phương trùng
tu lại chùa Đại Giác. Đến năm 1815, vua Gia Long gừi sắc chỉ triệu hồi ngài về
kinh đô Huế để thuyết giảng cho nhà vua và hoàng gia. Sau đó ngài về làm tăng
cang chùa Thiên Mụ. Ngài thị tịch năm 1835, thọ 101 tuổi—A Vietnamese monk from
Phù Cát, Bình Định, Central Vietnam. He left home and became a monk at the age
of 15. He received complete precepts with Most Venerable Phật Ý Linh Nhạc at Từ
Ân Temple in Tân Khai, Tân Bình, Gia Định. He was the Dharma heir of the 36th
generation of the Linn-Chih Zen Sect. In 1773, he stayed at Đại Giác Temple. In
1802, King Gia Long ordered his local mandarins to rebuild Đại Giác Temple. In
1815 King Gia Long sent an Imperial Order to summon him to Hue capital to
preach the Buddha Dharma to the King and the royal family. Later, he became a
royal-recognized monk at Thiên Mụ temple. He passed away at Quốc Ân
Temple in Huế in 1835, at the age of 101.
Tổ Đường: Patriarchs’ Hall.
Tổ Mẫu: Grandmother.
Tổ Phụ: Grandfather.
Tổ Sư: Tổ hay tổ sư là những bậc thầy vĩ đại đã nhận và đã chính
thức truyền bá Phật pháp. Vị Tổ đầu tiên là ngài Đại Ca Diếp, được Phật tâm
chứng. Tâm chứng nầy gọi là ‘Tâm truyền tâm’ và tiếp tục lưu truyền mãi về sau.
Có 28 vị tổ ở Ấn Độ và 6 vị ở Trung Quốc. Từ vị Tổ thứ nhất đến Lục Tổ Huệ Năng
gồm 32 vị. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, người ta đặc biệt nói đến Tổ Sư Bồ Đề Đạt
Ma—Patron saint—Founder—Patriarch—The first teacher, or leader, or founder of a
school (sect) or the great masters who have received and formally transmitted
the Buddha’s Dharma. The First Indian Patriarch who received “mind approval”
from the Buddha was Maha-Kasyapa. The act was called “Mind to mind”
transmission, and had been passed on down the line. There are twenty-eight
patriarchs in India and six in China. From the First Patriarch to Hui-Neng,
there were thirty-two. However, in China, it has particular reference to
Bodhidharma.
**
For more information, please see Hai Mươi
Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma: Patriarch Bodhidharma.
Tổ Sư Thiền: Patriarchal Meditation—The Zen of the Patriarchs—Zen
Patriarchate.
1) Lịch sử của Thiền Tông vẫn còn là
một huyền thoại. Truyền thuyết cho rằng một ngày nọ, thần Phạm Thiên hiện đến
với Đức Phật tại núi Linh Thứu, cúng dường Ngài một cánh hoa Kumbhala và yêu
cầu Ngài giảng pháp. Đức Phật liền bước lên tòa sư tử, và cầm lấy cành hoa
trong tay, không nói một lời. Trong đại chúng không ai hiểu được ý nghĩa. Chỉ
có Ma Ha Ca Diếp là mỉm cười hoan hỷ. Đức Phật nói: “Chánh Pháp Nhãn Tạng nầy,
ta phó chúc cho ngươi, này Ma Ha Ca Diếp. Hãy nhận lấy và truyền bá.” Một lần
khi A Nan hỏi Ca Diếp Đức Phật đã truyền dạy những gì, thì Đại Ca Diếp bảo:
“Hãy đi hạ cột cờ xuống!” A nan liền ngộ ngay. Cứ thế mà tâm ấn được truyền
hừa. Giáo pháp nầy được gọi là “Phật Tâm Tông.”—The history of Zen is mythical.
It is said that one day Brahma came to the Buddha who was residing at the
Vulture Peak, offered a Kumbhala flower, and requested him to preach the Law.
The Buddha ascended the Lion seat and taking that flower touched it with his
fingers without saing a word. No one in the assembly could understand the
meaning. The venerable Mahakasyapa alone smiled with joy. The world-Honoured
One said: “The doctrine of the Eye of the True Law is hereby entrusted to you,
Oh Mahakasyapa! Accept and hand it down to posterity.” Once when Ananda asked
Mahakasyapa what the Buddha’s transmission was, Mahakasyapa said: “Go and take
the banner-stick down!” Ananda understood him at once. Thus the mind-sign was
handed down successively. The teaching was called the ‘school of the
Buddha-mind.’
2) Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong
Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, Thiền của Tổ Sư không phải là phương pháp phân
tách như khoa học, cũng không phải là một phương pháp tổng hợp như triết học.
Đây là một hệ thống tư duy không tư duy theo thông tục, nó siêu việt tất cả
những phương pháp của luận chứng hợp lý. Tư duy không cần phương pháp tư duy là
để tạo cơ hội cho sự thức tỉnh của tuệ giác. Hành giả có thể áp dụng những
phương pháp tu thiền của Tiểu Thừa, của Du Già Luận (bán Đại Thừa), pháp
chỉ quán của tông Thiên Thai, hay Du Già bí mật của tông Chân Ngôn nếu hành giả
thích, nhưng thật ra tất cả những phương pháp nầy đều không cần thiết. Quan
điểm của Thiền tông có thể tóm tắt như sau: “Dĩ tâm truyền tâm, bất lập văn tự,
giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật,” hay “Thử tâm
tức Phật.” Bạch Ẩn Thiền Sư đã phát biểu ý kiến nầy rất rõ trong bài kệ về pháp
‘tọa thiền’: “Chúng sanh vốn là Phật; cũng như băng (cơ duyên hiện tại của
chúng ta) và nước (Phật tánh ẩn tàng), không có nước thì không có băng. Chính
thế gian nầy là liên hoa cảnh giới và thân nầy là Phật.”—According to Prof.
Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy, the meditation of the
patriarchal Zen was not an analytical like science, nor was it a synthetical
method like philosophy. It was a method of thinking without ordinary thinking,
transcending all methods of logical argument. To think without any method
of thinking is to give opportunity for the awakening of the intuitional
knowledge or wisdom. All methods of meditation as taught by Hinayana, by
Yogacara (quasi-Mahyana), by the abrupt method of calmness and insight
(samathavipasyana) of T’ien-T’ai, or by the mystical yoga of Shingon can be
used if the aspirant likes, but are in no way necessary. The ideas peculiar to
Zen may be summarized as follows: “from mind to mind it was transmitted, not
expressed in words or written in letters; it was a special transmission apart
from the sacred teaching. Directly point to the human mind, see one's real
nature and become an enlightened Buddha.” The idea was very well expressed in
Hakuin’s hymn on sitting and meditating: “All beings are fundamentally Buddhas;
it is like ice (which represents our actual condition) and water (which
represents an underlying Buddha-nature); without water there will be no ice,
etc. This very earth is the lotus-land and this body is Buddha.”
Tổ Tâm Hối Đường Hoàng Long: Thiền sư Tổ Tâm Hối Đường—Zen master Hui-T’ang-Tsu-Hsin
(1025-1100).
· Thiền sư Tố Tâm Hối Đường sanh năm
1025 tại tỉnh Quảng Đông. Năm mười chín tuổi sư bị mù, cha mẹ nguyện cho sư
xuất gia, liền đó mắt sư sáng lại. Sau khi tòng học ba năm với vị thầy thiền
đầu tiên của sư là thiền sư Vân Duyệt ở Vân Phong, sư bèn từ giả thiền sư Vân
Duyệt ra đi. Sư Vân Duyệt bảo sư nên đến nương với Sư Huệ Nam ở Hoàng Bá. Sư
đến Hoàng Bá ở bốn năm, nhưng không kết quả, sư lại trở về Vân Phong; tuy nhiên
lúc ấy sư Vân Duyệt đã thị tịch, nên sư tìm đến với sư Thạch Sương—Zen master
Tsu-Hsin-Hui-T’ang-Huang-Lung was born in 1025 in Kuang-T’ung province. After
he was blind at the age of nineteen, his parents vowed to let him to leave home
and to join the order. His eyes were back to normal again. After studying for
three years with his first Zen teacher, Wen-Yueh in Yun-Feng, he left Yun-Yueh.
Master Wen-Yueh advised him to go to see Zen master Hui-Nan at Huang-Bo.
Tsu-Hsin then went to study under Hui-Nan; however, he returned to Yun-Feng
after four years without gaining any clarity. Tsu-Hsin-Hui-Tang discovered that
Wen-Yueh had passed away, so he stayed with Shih-Shuang.
· Một hôm sư đọc Truyền Đăng Thực Lục
đến đoạn “Tăng hỏi Thiền sư Đa Phước: Thế nào là một vườn tre của Đa Phước? Đa
Phước đáp: Một cây hai cây nghiêng. Tăng thưa: Chẳng hiểu. Đa Phước nói: Ba cây
bốn cây cong.” Khi ấy sư liền giác ngộ hiểu rõ được hai thầy. Sư liền đi thẳng
đến Hoàng Bá. Vừa mới trải tọa cụ, Huệ Nam cười nói: Ngươi vào thất của ta. Sư
cũng thích thú vui mừng thưa: Việc lớn xưa nay như thế, Hòa Thượng cần gì dạy
người khán thoại đầu và rán hết sức vạch tìm ra ý nghĩa ? Huệ Nam đáp: Nếu
chẳng dạy ông tầm cứu như thế, đến chỗ không dụng tâm tự thấy tự nhận, là ta đã
chôn vùi ngươi vậy.”—One day he was reading A Lamp Record, when he came upon
the passage, “A monk asked Zen master T’o-Fu, ‘What is T’o-Fu’s bamboo grove?’
T’o-Fu replied, ‘One stalk, two stalk slanted.” The monk said, ‘I don’t
understand.’ T’o-Fu then said, ‘Three stalks, four stalks crooked.” Upon
reading these words Tsu-Hsin-Hui-T’ang experienced great awakening and finally
grasped the teaching of his previous two teachers. Tsu-Hsin returned to
see Huang-Bo. When he arrived there and prepared to set out his sitting
cushion, Huang-Bo said, “You’ve already entered my room.”Tsu-Hsin jumped up and
said, “The great matter being thus, why does the master teach koans to the
disciples and study the hundred cases of the koan collections?” Huang-Bo said,
“If I did not teach you to study in this manner, and you were left to reach the
place of no-mind by your own efforts and your own confirmation, then I would be
sinking you.”
· Một hôm quan Thái Sử Hoàng Sơn Cốc
là một nhà nho, một nhà thơ, đến gõ cửa sư xin học Thiền. Sư nói: “Có một đoạn
sách Nho ắt ngài đã nằm lòng dạy đúng như Thiền dạy. Ngài nhớ lại coi có phải
Thánh Khổng nói ‘Ông nghĩ rằng tôi có điều dấu ông. Nầy các ông ơi, thật tôi
không dấu diếm điều gì hết.’ Nhà Nho toan đáp, nhưng sư một mực nói: “Không!
Không!” khiến cho quan Thái sử không mở miệng được, bối rối cả tâm thần, nhưng
không biết thưa thốt gì. Sau đó hai người có dịp đi chơi núi. Gặp mùa hoa quế
rừng nở rộ, hương thơm ngát cả một vùng. Sư hỏi: “Ngài có ngửi thấy mùi hương
không?” Quan Thái sử đáp: “Vâng.” Sư tiếp: “Đó, tôi có dấu gì ngài đâu?” Câu
nói tức thì mở tâm quan Thái sử. Thật hiển nhiên ‘ngộ’ há phải từ bên ngoài
đến, hay do người khác cưỡng ép vào ta đâu, mà chính tự nó mọc lên ở trong ta?
Dầu vị thầy không có dấu gì ta hết, nhưng ta phải ngộ mới thấy được, và tin
quyết rằng không gì thiếu hết trong chính ta—One day Huang-Shan-Ku, a Confucian
poet and a mandarin, came to Hui-T’ang to be initiated into Zen. Hui-T’ang
said: “There is a passage in the text you are so thoroughly familiar with which
fully describes the teaching of Zen. Did not Confucius declare: ‘Do you think I
am holding back something from you, O my disciples? Indeed, I have held nothing
back from you?’ Huang-Shan-Ku tried to answer, but Hui-T’ang immediately made
him keep silence by saying: “No! No!” The mandarin felt trouble in mind, and
did not know how to express himself. Some time later they were having a walk in
the mountain. The wild laurel was in full bloom and the air was redolent.
Hui-T’ang asked: “Do you smell it?” Huang-Shan-Ku said: “Yes!” Hui-T’ang said:
“There, I have kept nothing back from you!” This suggestion from the master at
once led to the opening of Huang-Shan-Ku’s mind. Is it not evident now that
enlightenment is not a thing to be imposed upon another, but that it is
self-growing from within? Though nothing is kept away from us, it is through
enlightenment that we become cognizant of the fact, being convinced that we are
all sufficient unto ourselves.
· Một lần sư thượng đường đọc kệ—One
time, he entered the hall to read this verse:
“Tích nhơn khứ thời thị kim nhật
Kim nhật y nhiên nhơn bất lai
Kim ký bất lai tích bất vãng
Bạch vân lưu thủy phong bồi hồi.
Not going,
Not leaving,
Thoughts of South Mountain and Mount T’ien-T’ai,
The silly white cloud with no fixed place,
Blown back and forth by the wind.
(Người xưa ra đi ngày nay thực,
Ngày nay như cũ người chẳng về,
Nay đã chẳng về xưa chẳng đến,
Mây trắng nước trôi gió quẩn quanh.
Thích Thanh Từ dịch).
· Sư thị tịch năm 1100. Cốt của sư
được đưa vào phía đông của “Phổ Giác Tháp.” Ngài được vua ban hiệu “Bảo
Giác” Thiền Sư—Tsu-Hsin died in 1100. His remains were intered on the east side
of the “Universal Enlightenment Stupa.” The master received the
posthumous title “Zen Master Precious Enlightenment.”
Tổ Tiên: Forefathers---Ancestors.
Tổ Tông: See Tổ tiên in Vietnamese-English Section.
Tốc: Nhanh—Haste—Quick—Speedily—Urgent.
Tốc Đắc: Đạt được một cách nhanh chóng—Speedily obtain, or ensure.
Tốc Hành: Fast—Express.
Tốc Hương: Loại nhang rẻ tiền cháy nhanh—Quickly burnt inferior
incense.
Tốc Tật Quỷ: Một loài quỷ La Sát lật đật—A kind of hurrying demon,
raksasa.
Tốc Thành: Hoàn thành một cách nhanh chóng—Speedily completed.
Tộc: Family.
Tộc Phổ: Family tree.
Tôi Đòi: Servant.
Tôi Thép: To harden steel.
Tối: Cao nhất—Superlative—Most—Very.
Tối Cao: Supreme—Maximum—Highest.
Tối Cao Hiển Quảng Nhãn Tạng Như Lai: The Tathagata who, in the highest reveals the far-reaching
treasure of his eye—The Sun—See Vairocana, Đại Nhựt Giác Vương, and Đại Nhựt Kinh.
Tối Chánh Giác: Sự giác ngộ chân chính cao nhất hay diệu trí năng giác của
chư Phật—Supreme perfect enlightenment, i.e. Buddhahood.
Tối Hậu: Cuối cùng—The last of all—Ultimate—Final—Finally—At death.
Tối Hậu Niệm: See Tối Hậu Tâm.
Tối Hậu Sinh: See Tối Hậu Thân.
Tối Hậu Tâm: Tối hậu niệm hay cái tâm ở sát na cuối cùng hủy thân diệt
trí, sắp nhập vào vô dư niết bàn—The final mind, or ultimate thought, on
entering final nirvana.
Tối Hậu Thân: Cái thân hay kiếp tái sinh cuối cùng trong cõi sinh tử của
các vị A La Hán hay Bồ Tát—The final body, or rebirth, that of an arhat, or a
bodhisattva in the last stage.
Tối Hậu Thập Niệm: Niệm Phật A Di Đà mười lần trước khi chết—To call on
Amitabha ten times when dying.
Tối Khẩn: Most immediate.
Tối Mật: Top secret.
Tối Tăm: Obscure—Dark.
Tối Tân: Advanced—Most up-to-date—Modern.
Tối Thắng: Jina or Vijaya (skt)—Chế ngự tất cả, không còn ai bì
kịp—Conquering—All conquering—Pre-eminent—Peerless—Supreme.
Tối Thắng Thừa: Đại Thừa—The supreme vehicle—Mahayana.
Tối Thắng Tôn: Bậc đáng tôn quý nhất hay Đức Phật—The most honourable
one—Buddha.
Tối Thắng Trưởng Giả: The Elder Most Supreme.
Tối Thiểu: Minimum.
Tối Thượng: To be ultimate—Supreme—To be paramount.
Tối Thượng Đại Tất Địa: Phật quả—The stage of supreme siddhi, or
wisdom—Buddhahood.
Tối Thượng Thừa: Giáo pháp cao nhất hay giáo pháp rốt ráo nhất (các tông
phái đều cho tông nghĩa của phái mình là tối thượng thừa)—The Supreme Vehicle.
Tối Trừng: Saicho (jap)—Tối Trừng là Sơ Tổ của tông Thiên Thai ở Nhật
Bản. Ông là đệ tử của Đạo Toại (Đạo Toại là đệ tử của Trạm Nhiên—See Trạm
Nhiên, and Thiên Thai Cửu Tổ). Tối Trừng còn được gọi là Truyền Giáo Đại Sư.
Vào tuổi 20, Tối Trừng đến Nara để học về giáo lý Thiên Thai với một vài học
giả cùng đến Nhật với luật sư Chân Giám và học tập ba tách phẩm của Trí Khải.
Khi ông đang đọc nửa chừng những tác phẩm nầy lần thứ hai, ông nhận được lệnh
của Nhật Hoàng sang Trung Quốc để học Phật. Tại Trung Quốc, ông được Đạo Toại
truyền thọ học thuyết Thiên Thai và Bồ Tát giới, được Thuận Giáo truyền thọ học
thuyết Chân Ngôn, và Tu Nhiên truyền cho Thiền tông. Sau một năm lưu trú ở
Trung Hoa, ông về nước thiết lập tông Thiên Thai Nhật Bản và giảng Kinh Pháp
Hoa, lập Chân Ngôn Mật giáo, Thiền tông và Luật tông. Trung tâm giảng huấn trên
núiTỉ Duệ do Tối Trừng thiết lập và trở thành trung tâm lớn của ngánh giáo học
Phật giáo Nhật Bản. Một thời đã có đến 3.000 tự viện làm túc xá cho học chúng,
quy tụ tất cả mọi ngành Phật học hiển và mật. Hiện tại có ba chi phái của tông
Thiên Thai. Đó là Sơn Môn, Tự Môn, và Chân Thạnh. Chi phái sau cùng là Tịnh Độ.
Những tự viện thuộc ba chi phái nầy hiện thời tính khoảng trên 4.000: Saichô
was the founder of the T’ien-T’ai School in Japan. He was a pupil of Tao-Sui
(Tao-Sui was a pupil of Chan-Jan—See Trạm Nhiên, and Thiên Thai Cửu Tổ). When
he was twenty, Saichô went to Nara and studied the T’ien-T’ai doctrine under
some scholars who came to Japan with the vinaya master Kanjin, and read the
three great works of Chih-I. When he was halfway through in his second perusal
of those works, he received an Imperial order to go to China for Buddhist
study. He received the T’ien-T’ai doctrine and the Bodhisattva ordination from
Tao-Sui, the mystic doctrine (mantra) from Shun-Chiao, and the Zen meditation
from Hsiu-Jan. On his return after one year’s sojourn in China, he founded the
T’ien-T’ai School and taught the Lotus doctrine, the Shingon mysticism, the Zen
meditation and Vinaya practices. The educational headquarters on the Mount Hiei
was established by Saicho and became the greatest center of Buddhist learning
in Japan. Once there were some 3,000 monasteries to house the students
thronging there from all branches of Buddhism, exoteric and esoteric. At present
there are three branches of the T’ien-T’ai School; namely, Sammon, Jimon and
Shinsei, the last being an Amita-peitism. The monasteries belonging to the
three branches number more than 4,000 at the present time.
Tồi: Bad.
Tồi Bại: Bad—Depraved.
Tồi Tàn: In bad shape (state)—Disreputable.
Tồi Tệ: Miserable—Mean.
Tội:
1) Những gì đáng trách và đem lại
nghiệp xấu: That which is blameworthy and brings about bad karma; entangled in
the net of wrong-doing.
2) Tội—Theo Phật giáo, chúng sanh sanh
ra không có mặc cảm sợ hãi về tội lỗi, và không sợ Thượng đế trừng phạt cho
việc làm sai trái. Tuy nhiên, sợ nghiệp báo theo luật nhân quả. Khi chúng
ta làm sai là chúng ta lãnh quả cho việc làm sai trái ấy, và bằng cách nầy
chúng ta phải chịu đau khổ cho chính tội lỗi của chúng ta---Offence—According
to Buddhism, sentient beings born have without any feeling of guilt in the
sense of fear of a God who will punish him for his wrong-doing. However, they
feel guilty by the law of karma. When you do some wrong-doing, you will
receive the effects of your wrong-doing and in this way suffer the effect of
your own sin.
Tội Ác: Atrocity—Evil and sin.
Tội Báo: Báo đáp lại những tội lỗi đã gây tạo (tùy theo tội trạng
mà phải nhận sự khổ sở tương ứng. Theo Kinh Niết Bàn, hễ có tội, tức là có tội
báo, không ác nghiệp, ắt không tội báo)—The retribution of sin, its punishment
in suffering.
Tội Căn: Căn bản của tội ác là sự không giác ngộ và vô minh—The
root of sin, i.e. unenlightenment or ignorance.
Tội Cấu: The filth of sin, moral defilement.
Tội Chướng:
1) Tội ác là chướng ngại cho thiện
nghiệp: The veil, or barrier of sin, which hinders the obtaining of good karma.
2) Tội ác cũng là chướng ngại cho việc
nghe và hành trì chánh pháp: The veil, or barrier of sin, which also hinders
the obedient hearing of the truth.
Tội Chướng Khó Tiêu Trừ: Karmic obstructions are difficult to eradicate.
Tội Hành: Hành động đầy tội lỗi—Sinful acts, or conduct.
Tội Nghiệp:
1) Thương hại tội nghiệp ai: To have
pity (mercy) on someone.
2) Nghiệp tội đưa đến quả khổ đau phiền
não: That which sin does, its karma, producing subsequent suffering.
Tội Nghiệt: Sins—Crimes.
Tội Nhẹ: Minor (petty—small) offence.
Tội Phạm: Criminal.
Tội Phúc: Tội và phúc (ngũ nghịch, thập ác là tội; ngũ giới, thập
thiện là phúc)—Sinfulness and blessedness.
Tội Phúc Vô Chủ: Tội và phúc không do ai làm chủ, chỉ tự mình xui khiến
lấy—Sinfulness and blessedness have no lord, or governor, i.e. we induce them
ourselves.
Tội Tính: Bản tính của tội nghiệp (bản tánh ấy vốn không và bất khả
đắc, không thật, nghĩa là theo đúng lẽ chân như, tội không có thực, mà phúc
cũng chẳng có thực)—A sinful nature; the nature of sin.
Tội Vi Cảnh: Petty offense.
Tôn:
1) Bậc đáng tôn kính: Arya
(skt)—Honourable—The honoured one—To honour.
2) Đích tôn: Grandchild—The eldest
grandson (eldest son of the eldest son).
3) See Tông.
Tôn Chi: Tông chi—Branch of a family, sect or school.
Tôn Chỉ: Leading lines or guiding instructions of a sect or school.
Tôn Đà La Nan Đà: Sundarananda or Sunanda (skt)—Em trai của Đức Phật, có vợ
tên là Tôn Đà Lợi, nên nguời ta gọi ông là Tôn Đà La Nan Đà để phân biệt với
ông A Nan Đà—Said to be younger brother of Sakyamuni, his wife’s name being
Sundari; thus called to distinguish him from Ananda.
Tôn Đà Lợi: Sundari (skt).
1) Tên của một bà quý phái đã hủy báng
Đức Phật trước đám đông: Name of a courtesan who defamed the Buddha in front of
a crowd.
2) Tên một đức trẻ do vua Ba Tư Nặc dẫn
đến để được gặp Phật, đứa bé đã ngộ đạo sau khi nghe Phật thuyết pháp: Name of
a young child who realized the truth after hearing the Buddha’s preaching.
3) Tên của một vị A La Hán: Name of an
arhat.
4) Vợ của tôn giả Tôn Đà La Nan Đà:
Wife of Sundarananda.
Tôn Giả: Arya (skt)—A Lê Da—Thánh giả hay những bậc trí đức cao,
tiếng tôn xưng để gọi các vị A La Hán—An Honored One—An Honourable One—A sage—A
saint—An Arhat.
Tôn Giả A Nan: Ananda—Đệ nhứt đa văn—Who was famed for his excellent
memory and wide erudition—See A Nan Đà và Thập Đại đệ tử.
Tôn Giả Ca Diếp: Mahakashyapa—Đệ nhứt Thiền định—Foremost in Samadhi—See Ma
Ha Ca Diếp và Thập Đại Đệ Tử.
Tôn Giả Duy Ma Cật: See Vimalakirti.
Tôn Giả Đề Bà Đạt Đa: Devadatta—Nghịch hữu tri thức—Adverse-practice good
spiritual advisor—See Đề Bà Đạt Đa.
Tôn Giả Giác Ngộ: Enlightened Venerable.
Tôn Giả Kiều Trần Như: Kaundinya.
Tôn Giả La Hầu La: Nổi tiếng về mật hạnh—Foremost in inconspicuous
practice—See Rahula.
Tôn Giả Mục Kiền Liên: Đệ nhứt thần thông—Foremost in spiritual powers—See
Maudgalyayana.
Tôn Giả Tu Bồ Đề: See Subhuti.
Tôn Giả Xá Lợi Phất: Đệ nhất trí huệ—Foremost in wisdom—See Sariputra.
Tôn Giáo: Religion.
Tôn Kính: Homage—Reverence—To have respect for –To reverence and
respect—To show/pay respect for—To revere—To respect—To honour.
Tôn Ký: Sự thọ ký của Đức Phật về sự thành Phật của các đệ tử của
Ngài—The prediction of Buddhahood to his disciples by the Honoured One—The
honorable prediction.
Tôn Nghiêm: Solemn—Grave.
Tôn Phái: Tông phái—See Tôn Chi.
Tôn Phục: To respect—To reverence—To honour—To venerate.
Tôn Quí: See Tôn Trọng.
Tôn Sắc: Những lời chỉ dạy đáng tôn quý hay những lời dạy của Đức
Phật—The honourable commands, Buddha’s teaching.
Tôn Sùng: Honourable—Eminent.
Tôn Sư : Honoured Master.
Tôn Thạnh: Chùa Tôn Thạnh tọa lạc trong xã Thanh Đa, huyện Phước Lộc,
bây giờ là Cần Giuộc, tỉnh Long An. Lúc đầu chùa tên Lan Nhã, được Hòa Thượng
Viên Ngộ sáng lập và dựng lên năm 1808. Trong tập hồi ký của ông Võ Văn Kiết,
tri huyện Phước Lộc, đã ghi lại: về việc đúc tượng Bồ Tát Địa Tạng như sau:
“Lần đầu tượng đúc không thành, lần sau sư Tăng Ngộ bèn chặt một ngón tay của
mình mà bỏ vào lò nấu đồng, thịt xương của ngón tay hòa lẫn với kim khí. Lần
nầy pho tượng được viên mãn. Từ đấy khách thập phương góp phần tô điểm ngôi già
lam Lan Nhã ngày càng trở nên tráng lệ hơn. Tuy nhiên, ngôi chùa hiện nay không
còn được như xưa nữa.” Đường vào chùa phía bên phải có tấm bia kỷ niệm ông
Nguyễn Đình Chiểu được dựng lên năm 1973. Trong chánh điện có rất nhiều tượng
La Hán. Sân sau chùa có tháp thờ Sư Viên Ngộ—Tôn Thạnh Pagoda, name of a
temple, located in Thanh Đa village, Phước Lộc (now Cần Giuộc) district, Long
An province, South Vietnam. It was founded and built by Most venerable Viên Ngộ
(Tăng Ngộ) in 1808. It was called Lan Nhã Pagoda then. Chief of Phước Lộc
district, Mr. Võ Văn Kiết, recorded in his diary about the casting of Ksigarbha
Bodhisattva statue at Lan Nhã Pagoda as follows: “At first, the casting failed.
Afterwards, it was said that Master Tăng Ngộ cut a finger of his right hand and
dropped it into a pot used to cook bronze. The finger was mixed with the metal,
therefore the statue casting became successful. Since then, pilgrims from all
over the country have helped decorate Lan Nhã Pagoda to make it more
magnificient and splendid. However, at present, the pagoda does not appear
marvellous as it used to be. On the right side of the gateway stands a stele
set up in 1973 to memorize the great scholar Nguyễn Đình Chiểu. In the Main
Hall, there are many statues of Arahats. In the back of the pagoda, there
stands the stupa of Most Venerable Vien Ngộ.
Tôn Thắng:
1) Vị tôn giả luôn chiến thắng (ma quân
phiền não) đáng tôn kính: Honoured and victorious, the honoured victorious one.
2) Một trong năm vị Phật Đảnh Tôn bên
cánh tả của Phật Thích Ca Mâu Ni, tượng trưng cho trí huệ: One of the five
bodhisattvas on the left side of Sakyamuni (symbolized wisdom)—See Ngũ Phật
Đảnh Tôn.
3) Trừ Chướng Phật Đảnh: One of the
divinities of the Yoga school—See Ngũ Phật Đảnh Tôn (5).
Tôn Thắng Phật: Trừ chướng Phật Đảnh—The Honoured Victorious One (Buddha).
Tôn Thất: Royal family.
Tôn Thượng: To respect one’s superior.
Tôn Tín: To reverence and faith—To revere and trust.
Tôn Tộc: Person of the same family.
Tôn Trọng:
1) Tôn quý và kính trọng: Respect and
honoured—To honour—Honourable—To have regard and consideration for.
2) Cách tốt nhứt để tôn trọng Phật là
làm theo lời Phật dạy: “Không làm các điều ác, làm các điều lành, và giữ cho
tâm ý thanh sạch.”—The best way to respect the Buddha is to follow his advice:
“Not to do evil, to do good, and to purify one’s mind.”
Tôn Túc: Từ được dùng để gọi vị Tăng tuổi cao đức trọng—A term used
to call a monk honoured and advanced in years.
Tốn:
1) Hao tốn: Expensive—Consumption.
2) Khiêm tốn: Nhường nhịn—Modest—To
yield—To accord.
Tốn Công: To waste (lose) one’s labour.
Tốn Của: To lose (waste) one’s money.
Tốn Kém: Costly—Expensive.
Tồn: Bảo Tồn—To keep—To maintain—To preserve.
Tồn Kiến: Ôm giữ tà kiến—To keep to wrong views.
Tồn Mệnh: Bảo tồn sinh mệnh—To preserve one’s life—To preserve
alive.
Tồn Tại: To survive—To endure—To last—To exist.
Tồn Tâm: To tame the mind—Còn gọi là Tu Tâm, nghĩa là gìn giữ tâm,
không cho nó phóng túng kiêu ngạo—Also called to cultivate the mind, or to
maintain and watch over the mind, not letting it get out of control, become
egotistical, self-centered, etc.
Tồn Vong: To exist and to disappear.
Tổn:
1) Tổn hại: To spoil—To hurt—To damage.
2) Tổn phí: Cost—Expenses.
Tổn Hại: To cause damage.
Tổn Phục Đoạn: Tạm thời ép chặt hay dùng đạo hữu lậu mà đoạn diệt phiền
não (khi gặp duyên nó lại hiện hành trởi lại)—To spoil, subject and destroy the
passions.
Tổn Thất: Loss.
Tổn Thọ: To shorten one’s life.
Tổn Thương: To hurt (wound).
Tông:
1) Tổ Tông: Ancestors.
2) Bộ Tộc: Clan.
3) Loại: Class—Kind—Category.
4) Dòng: School—Sects, which are of two
kinds:
a) Thành lập một dòng riêng, sư đệ
truyền nối, như Phật Giáo Tiểu Thừa Ấn Độ có 20 bộ, Phật giáo trung Hoa có 13
bộ, Phật giáo Nhật Bản có 14 bộ: Those founded on the principles having
historic continuity, as the twenty sects of Hinayana, the thirteen sects of
China, and fourteen sects of Japan.
b) Một người theo kiến giải của mình mà
bình luận, phê phán tông chỉ của các tông khác—Those arising from an individual
interpretation of the general teaching of Buddhism,
· Theo lý thuyết của các giáo phán
định, như những tông của Ngài Vĩnh Minh: The sub-sects founded by Yung-Ming.
· Căn cứ theo giáo thuyết đặc biệt của
mình hay của các tông phái đã được thừa nhận mà phán định, như Ngài Hoằng Pháp
ở Nhật Bản: Those based on a peculiar interpretation of one of the recognized
sects, as the Jodo-Shinshu founded by Shiran-shonin.
Tông Chỉ: Motto—The main thesis or ideas.
Tông Cốt: Những yếu chỉ cốt lõi của một tông phái—The bones or
essential tenets of a sect.
Tông Cửa: To batter the door down.
Tông Cực: Giáo pháp căn bản—Ultimate or fundamental principles.
Tông Diễn Chân Dung: Thiền Sư Tông Diễn Chân Dung (1640-1711)—Zen Master Tông
Diễn Chân Dung—Thiền sư Việt Nam, quê ở Phú Quân, Cẩm Giang, Bắc Việt. Ngài mồ
côi cha từ thời thơ ấu. Năm 12 tuổi, ngài xuất gia. Về sau ngài trở về độ bà mẹ
già bằng cách cho bà mẹ ở chùa công phu tu tập đến khi qua đời. Hầu hết cuộc
đời ngài, ngài chấn hưng và hoằng hóa tại Bắc Việt. Ngài thị tịch năm 1711—A
Vietnamese Zen Master from Phú Quân, Cẩm Giang, North Vietnam. He lost his
father when he was very young. When he was twelve years old, he left home and
became a monk. Later, he returned to his home town to save his mother by
allowing her to stay in the temple to cultivate until the day she passed away.
He spent most of his life to revive and expand Buddhism in North
Vietnam.
Tông Dụng: Nguyên tắc và thực hành—Principles and their practices, or
application.
Tông Gia: See Thiện Đạo (2).
Tông Học: Học thuyết hay giáo lý của một tông phái—The study or
teaching of a sect.
Tông Khách Ba: Sumatikirti (skt)—Người cải cách hệ thống Chùa bên Tây
Tạng, vị sáng lập ra tông phái áo vàng (Hoàng Giáo). Theo Tây Vực Tân Ký thì
Tông Khách Ba sanh năm 1417 tại Tân Ninh, tỉnh Cam Túc, tông phái của ông được
thành lập dựa trên sự tinh chuyên giữ giới, để đối lại với sự biếng nhác của
Hồng Giáo (phái áo đỏ). Người ta cho rằng Tông Khách Ba là hậu thân của Văn
Thù; người khác lại cho rằng ông là hậu thân của Đức Phật A Di Đà—The reformer of
the Tbetan church, founder of the Yellow Sect. According to the New Record of
the Western Lands, Sumatikirti was born in 1417 in Hsin-Ning, Kan-Su. His sect
was founded on strict discipline, as opposed to the lax practices of the Red
Sect. He is considered to be an incarnation of Manjusri; others say of
Amitabha.
Tông Lâm Tế: Lin-Chi School—See Lâm Tế Tông.
Tông Mật: Một trong năm vị tổ của tông Hoa Nghiêm—Tsung-Mi, one of
the five patriarchs of the Hua-Yen (Avatamsaka) sect.
Tông Môn:
1) Tên của một tông phái: Name of a
sect or school.
2) Tiếng dùng để gọi Thiền tông hay
tông phái tu tập bằng trực giác, trong khi các tông phái khác được gọi là Giáo
Môn hay những tông phái tu bằng giáo điển được ghi lại—It refers to the Ch’an
(Zen) or Intuitional schools, other schools are called “Teaching Sects,” or
those who rely on the written word rather than on the “inner light.”
Tông Nguyên: Giáo thuyết hay giáo điển căn bản của một tông phái—The
basic principles of a sect, or its original cause of existence.
Tông Nghi: Nghi thức hay luật lệ của một tông phái—The rules or
ritual of a sect.
Tông Nghĩa: Giáo nghĩa của một tông phái—The tenets of a sect.
Tông Nhân Dụ: Ba chi chính trong lập lượng. Đây là một từ ngữ thuộc luận
lý, thí dụ ngọn đồi có lửa là tôn hay mệnh đề; vì nó có khói, là nhân hay lý
do. Tất cả những gì có lửa là có khói, như một nhà bếp, và hễ cái gì không có
lửa thì không có khói như một cái hồ nước, đây là dụ—Three main branches in
stating a syllogism. This is a logical term, i.e., the hill is fiery
(proposition); because it has smoke (reason). All that has smoke is fiery like
a kitchen, and whatever is not fiery has no smoke like a lake (example).
1) Tông: Pratijna (skt)—Tôn—Mệnh
đề—Proposition.
2) Nhân: Hetu (skt)—Cause—Reason.
3) Dụ: Udaharana or Drishtanta (skt)—Sự
minh họa hay thí dụ—Illustration or example.
Tông Phái: Sects (school or dharma-door) of Buddhism. There are
several sects in Buddhism:
1) Câu Xá Tông: Giáo điển Vi Diệu hay
Câu Xá Tông dựa trên Vi Diệu Câu Xá Luận—Abhidharma or Kosa sect based on the
Abhidharma-kosa-sastra Câu Xá Luận)—See Câu Xá Tông.
2) Thành Thật Tông: Giáo điển dựa trên
Thành Thật Luận—Satyasiddhi sect, based on the Satyasiddhi-sastra (Thành Thật
Luận).
3) Luật Tông: Giáo điển dựa trên Luật
Tạng—Vinaya or Discipline sect, based on the Vinaya-pitaka—See Luật Tông.
4) Tam Luận Tông: Giáo điển dựa trên
Trung Quán Luận và Thập Nhị Môn Luận của Ngài Long Thọ, cũng như Bách Luận của
Ngài Aryadeva—The Three-Sastra Sect, based on the Madhyamika-sastra (Trung Quán
Luận) and Dvadasa-nikaya-sastra of Nagarjuna, and Sata-sastra of Aryadeva.
5) Niết Bàn Tông: Thiên Thai—Giáo điển
dựa vào Kinh Đại Bát Niết Bàn, được Dharmaraksa dịch sang Hoa ngữ năm 423 sau
Tây Lịch, sau nầy sáp nhập với Tông Thiên Thai vì hai tông phái nầy có
nhiều chỗ tương đồng—Nirvana sect, based on the Mahaparinirvana-sastra (Đại Bát
Niết Bàn), which was translated into Chinese by Dharmaraksa in 423 A.D.; later
incorporated in T’ien-T’ai, with which it had in common.
6) Địa Luận Tông: Giáo điển dựa vào
Thập Địa Luận của Ngài Thế Thân Bồ Tát, được Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch sang Hoa
ngữ năm 508 sau Tây Lịch, được Tông Hoa Nghiêm hấp thụ và biến thành giáo điển
của mình—Dasabhumika sect, based on Vasubandhu’s work (ten stages of the
bodhisattva’s path to Buddhahood), which was translated into Chinese by
Bodhiruci in 508 A.D., absorbed by the Avatamsaka School.
7) Tịnh Độ Tông: Giáo thuyết dựa trên
niềm tin Đức Phật A Di Đà trong cõi Tây Phương Cực Lạc—Pure Land or Sukhavati
sect (salvation through faith in Amitabha into Western Paradise)—See Tịnh Độ
Tông.
8) Thiền Tông: Sơ Tổ Trung Hoa là Ngài
Bồ Đề Đạt Ma, nhưng Thiền Tông Trung Quốc đã có từ trước khi Ngài đến Trung
Quốc—Dhyana, Meditative or Intuitive sect. Its first patriarch in China was
Bodhidharma, but it existed before he came to China.
9) Nhiếp Luận Tông: Giáo điển dựa vào
bộ Nhiếp Đại Thừa Luận của Ngài Vô Trước Bồ Tát, được Paramartha dịch sang Hoa
ngữ năm 563 sau Tây Lịch, sau được hấp bởi Tông Hoa Nghiêm—Mahayan-samparigraha
sect, later absorbed by Avatamsaka sect (Hoa Nghiêm), based on the
Mahayana-samparigraha sastra by Asanga, translated by Paramartha in 563 A.D.,
subsequently absorbed by the Avatamsaka sect.
10) Thiên Thai Tông: Giáo điển dựa trên bộ Kinh Pháp Hoa. Đây là
sự hoàn thành của trường phái Trung Quán—Saddharma-pundarika sect, based on the
Saddharma-pundarika sastra or the Lotus of the Good Law. It is a consummation
of the Madhyamika tradition (Trung Quán Luận).
11) Hoa Nghiêm Tông: Giáo điển dựa vào Kinh Hoa Nghiêm, được
dịch sang Hoa ngữ năm 418—Avatamsaka sect, based on the Buddha-Avatamsaka
sutra, or Gandha-vyuha, translated into Chinese in 418.
12) Pháp Tướng Tông: Giáo điển Du Già Sư Địa Luận, sau khi Ngài
Huyền Trang trở về từ Ấn Độ với bản dịch bộ luận nầy—Dharmalaksana sect,
established after the return of Hsuan-tsang from India and his translation of
the important Yogacarya works.
13) Mật Tông: Mantrayana (skt)—Esoteric school—Secret
teachings—See Chân Ngôn Tông, and Mật Tông.
14) Chân Ngôn Tông: Các giáo lý và phương pháp tu tập của tông
phái Phật giáo nầy dựa trên ba phương thức quán tưởng: mạn đà la, mật chú, và
thủ ấn—The doctrine and practices of this sect of Buddhism based on three
meditational devices: the mandala, the mantra, and the mudra—See Mật Tông.
Tông Phái Mật Tông: Mantrayana—See Tông phái (13).
Tông Phái Nhật Bản: Buddhist sects in Japan.
(A) Sự phát triển Phật Giáo tại Nhật Bản—The development of
Buddhism in Japan: Theo Giáo sư P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật
Giáo, Nhật Bản từng được gọi là vùng đất của Phật Giáo Đại Thừa. Dạng Phật Giáo
nầy lúc đầu phát triển mạnh ở Trung Hoa rồi đi dần đến Nhật Bản qua trung gian
của Triều Tiên. Sau đó Phật giáo ở Nhật Bản phát triển nhờ sự nỗ lực của các tu
sĩ Trung Hoa và Nhật Bản. Các học giả cho rằng Phật giáo xuất hiện lần đầu tiên
tại Nhật Bản vào năm 552 và đã đến từ Kudara, một trong những vương quốc của
Triều Tiên thời đó—According to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred
Years of Buddhism, Japan has been called the land of Mahayana Buddhism. This
form of Buddhism originally flourished in China and travelled to Japan via
Korea. Thereafter Buddhism developed through the efforts of both Chinese and
Japanese monks. It is generally held by Japanese scholars that Buddhism first
made its appearance in the year 552 A.D., and that it came from Kudara, one of
the kingdoms of Korea at that time.
1) Thời kỳ du nhập—The period of
importation: Từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 7 sau Tây Lịch. Đây là thời kỳ Asuka và
Nara—From 6th century to 7th century A.D. The Asuka and Nara period.
a) Tại Nhật Bản, đạo Phật xuất hiện chủ
yếu qua sự thích ứng với Thần đạo, một dạng tín ngưỡng bản địa của Nhật. Để đạt
được mục đích nầy, các tu sĩ Phật giáo chấp nhận việc thờ cúng tổ tiên , và để
cho các vị thần của Thần Đạo được xếp bên cạnh ảnh của Đức Phật, xem đó như
những hiện thân của Đức Phật. Theo cách nầy, đạo Phật mới có thể dần dần tự
khẳng định giữa người dân Nhật mà không loại bỏ thẳng thừng Thần Đạo của họ—The
first manifestations of Buddhism in Japan consisted chiefly in adapting it to
Shintoism, a native cult of Japan. For this purpose, Buddhist monks accepted
ancestor worship and admitted, side by side with the Buddha’s image, the
gods of Shintoism on the ground that these represented the various incarnations
of the Buddha. In this manner Buddhism was able gradually to establish itself
among the common people without rejecting Shintoism outright.
b) Một lợi thế quan trọng là khi đạo
Phật lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản thì đạo nầy cũng được giới thiệu đồng
thời với nền văn hóa đã phát triển cao độ của Trung Hoa. Phần lớn là do đặc thù
văn hóa của mình mà đạo Phật được chấp nhận bởi giai cấp quí tộc vốn là giai
cấp trí thức ở Nhật vào thời đó. Một khi đã được giai cấp quí tộc bảo trợ thì
Phật giáo nhanh chóng lan ra khắp nước. Nhiều hoàng đế Nhật ngày xưa đã theo
đạo Phật và lấy kinh điển Phật giáo làm nguyên tắc chủ đạo trong đời sống. Ông
hoàng Shotoku (574-621), quan Nhiếp Chánh của Nữ hoàng Suiko, đã cống hiến lớn
cho Phật giáo qua việc xây tu viện Horyuji và viết các luận giải về Tam Tạng.
Thực vậy, ông ta đã tạo cho Phật giáo ở Nhật Bản những gì mà vua A Dục đã làm
cho đạo nầy ở Ấn Độ hay những gì mà Constantine đã làm cho Cơ Đốc giáo ở đế
quốc La Mã—An important advantage was that when Buddhism first made its
appearance in Japan, it was introduced along with the highly developed culture
of China. It was largely because of its cultural character that Buddhism was
accepted by the aristocracy, which was the intellectual class of Japan in those
days. Once it was patronized by the aristocracy, Buddhism rapidly spread
throughout the country. Several emperors of ancient Japan adopted Buddhism and
accepted its tenets as their guiding principles in life. Prince Shotoku
(574-621 A.D.), Regent of Empress Suiko, made a great contribution to Buddhism
by founding the Horyuji monastery and by writing commentaries on three
scriptures. In fact, he did for Buddhism in Japan what King Ashoka had done for
it in India, and what Constantine did for Christianity in the Roman Empire.
c) Vào thời kỳ nầy có sáu tông phái
được du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc—In those days, the sects introduced
from China were six in number:
· Câu Xá Tông: The Abhidharma-Kosa
School—See Câu Xá Tông.
· Tam Luận Tông: The Three Treatise
School of the Madhyamika—See Tam Luận Tông.
· Thành Thật Tông: The Satyasiddhishastra
school—See Thành Thực Tông.
· Hoa Nghiêm Tông: The Avatamsaka
school—See Hoa Nghiêm Tông.
· Pháp Tướng Tông: The Dharmalaksana
school—See Pháp Tướng Tông.
· Luật Tông: The Vnaya school—See Luật
Tông.
2) The period of nationalization: Thời
kỳ thứ hai của Phật giáo tại Nhật Bản bắt đầu với sự thành lập của hai phái
Thiên Thai và Chân Ngôn. Thiên Thai được Saicho (767-822) sáng lập và Chân Ngôn
được Kukai (774-835) sáng lập—The second period of Japanese Buddhism began with
the founding two new sects, the T’ien-T’ai and the Shingon, by Saicho (767-822
A.D.) and Kukai (774-835 A.D.), respectively.
a) Mục đích của viêc thành lập hai giáo
phái nầy là quốc gia hóa các giáo lý của đạo Phật để làm cho đạo nầy trở thành
một tôn giáo của toàn thể mọi người. Đồng thời, họ cũng nhằm đưa vào khuôn phép
các tu sĩ Phật giáo trong các tu viện cứ sống cách biệt với thế giới thường
nhật. Đặc điểm nổi bật của hai giáo phái nầy là chú trọng vào sự giải thoát
tinh thần, nhưng cũng chú trọng đến việc áp dụng giáo lý vào cuộc sống—Their
object was to nationalize Buddhist doctrines in order to make Buddhism a
religion of the common people. At the same time, they aimed at disciplining the
monks in Buddhist monasteries who kept aloof from everyday world. The
dominant feature of these two sects is that they laid stress not merely on
spiritual salvation, but also on the fulfilment of the doctrine in this world.
b) Do các nỗ lực liên tục của các tu sĩ
Thiên Thai và Chân Ngôn mà Phật Giáo Nhật Bản đã được quốc gia hóa và dần dần
được mọi người theo. Tuy nhiên, còn có một số vấn đề cần phải giải quyết. Các
giáo lý nầy vẫn còn quá cao siêu, không dễ hiểu cho quảng đại quần chúng, những
người nầy thường chỉ muốn tin vào những điều mê tín gắn liền với các giáo lý.
Hơn thế nữa, do sự thay đổi của môi trường cùng với sự phổ biến của đạo Phật
cho nên nhiều người đã từ bỏ cuộc sống thường ngày để tìm sự yên tĩnh tinh thần
trong một thế giới cao xa—By the continuous efforts of both the T’ien-T’ai and
the Shingon monks, Buddhism became nationalized and gradually gained in
popularity. However, a number of problems remained to be solved. The doctrines
were still too scholarly to be easily understood by the common people, who
tended to accept only the superstitions attached to them. Furthermore, as the
environment changed with the spread of Buddhism, it induced many people to give
up this world in order to seek spiritual rest in the world beyond.
c) Trong thế kỷ thứ 10, đã có một phong
trào Phật giáo mới nổi lên dưới dạng đức tin vào Đức Phật A Di Đà. Nhiều người
ngã theo đức tin nầy và họ chỉ việc tụng niệm hồng danh Phật A Di Đà với
mục đích tái sanh ở miền Tịnh Độ. Phong trào nầy đã làm nẩy sinh nhiều hệ phái
mới biệt lập, cũng đặt nặng đức tin vào Đức Phật A Di Đà—A new Buddhist
movement arose in the tenth century A.D. in the form of belief in Amitabha
Buddha. Many people were converted to this faith, and they simply recited the
name of Amitabha Buddha with the object of being reborn in his Pure Land. This
movement was followed by independent new sects which also emphasized belief in
Amitabha.
d) Đặc điểm chung của các hệ phái nầy
được biểu hiện trong định nghĩa về đời sống thế tục, trong những cố gắng để
thuần khiết và đơn giản hóa về cả giáo lý lẫn thực hành. Nhờ các đặc điểm trên
mà các hệ phái nầy đã thu hút được nhiều tín đồ trong số những tá điền, nông
dân và quân nhân. Các hệ phái mới xuất hiện trong thế kỷ mười hai và mười
ba gồm—The factors common to these sects were to be found in the definition of
laymanship and in the efforts to purify and simplify both doctrine and
practice. Owing to these features, they were able to attract many followers
from among the farmers, peasants and warriors. The new sects, which arose
during the twelfth and thirteenth centuries, were as follows:
· Phái Yuzunenbutsu do Ryonin
(1072-1132) sáng lập: Yuzunenbutsu founded by Ryonin (1072-1132 A.D.).
· Phái Jodo do Honen (1133-1212) sáng
lập: Jodo founded by Honen (1133-1212 A.D.).
· Phái Jodo-Shin do Shinran
(1173-1289) sáng lập: Jodo-Shin founded Shiran (1173-1262 A.D.).
· Phái Ji do Ippen (1239-1289) sáng
lập: The Ji founded by Ippen (1239-1289 A.D.).
e) Thời kỳ Kamakura nẩy sinh các hệ
phái mới, trùng hợp với sự thịnh vượng của chế độ phong kiến ở Nhật Bản, có sự
xuất hiện của hai hệ phái mới: The Kamakura period, during which these sects
came into being, coincided with the rise of feudalism in Japan. It was also in
this period that two new sects made their appearance.
· Thiền tông do Eisai (1141-1215) và
Dogen (1200-1253) sáng lập: The Zen introduced by Eisai (1141-1215 A.D.) and
Dogen (1200-1253 A.D.).
· Nhật Liên Tông do Nhật Liên
(1222-1282) sáng lập: The Nichiren founded by Nichiren (1222-1282 A.D.).
· Hai phái nầy có chung đặc điểm với
các tông phái Tịnh Độ vừa kể trên phần (d), dù rằng có sự mâu thuẫn đáng kể
trong các nguyên tắc của họ. Một bên thì tin vào sự giải thoát qua tín ngưỡng
vào quyền lực bên ngoài vốn là triết lý cơ bản của Tịnh Độ tông, còn bên kia
thì tin vào sự giải thoát qua sự giác ngộ của chính mình, vốn là nền tảng của
Thiền tông: These two sects also shared the same characteristics as those of
the Pure Land sects, mentioned in (d), although there was a remarkable
contradiction in their principles. One believed in salvation through faith in
the power of others, the underlying philosophy of Pure Land Buddhism, and the
other in the dotrine of salvation through one’s own enlightenment on which the
Zen sect is based.
3) Thời kỳ nối tiếp—The period of
continuation: Sau thời kỳ Kamakura, Phật giáo Nhật không có sự phát triển nào
đáng kể ngoài sự mở rộng của các hệ phái—After the Kamakura period, there
was no significant development in Japanese Buddhism other than the expansion of
the various sects:
a) Trong thời kỳ Edo (1603-1867), Phật
giáo Nhật Bản có đủ tính chất quốc giáo dưới sự che chở của chế độ Tướng Quân
(Shogun) Tokugawa. Lý do chính là chánh phủ muốn dùng Phật giáo để triệt hạ ảnh
hưởng của Cơ Đốc giáo trong đời sống của người dân Nhật. Trong thời kỳ nầy Phật
giáo trở thành phổ biến trong dân chúng đến nỗi vào cuối kỷ nguyên này
thì các hoạt động của Phật giáo diễn ra dưới dạng những nghiên cứu bác học, đặt
nền móng cho các nghiên cứu Phật giáo về sau nầy: During the Edo period
(1603-1867 A.D.), Buddhism acquired the character of a national religion in
Japan under the protection of the Tokugawa Shogunate. The main reason for this
development was that the government hoped thereby to undermine the influence of
Christianity upon the life of the Japanese people. In this period, Buddhism
became popular, so that towards the close of this era Buddhist activities took
the form of scholarly studies in Buddhism, which laid the foundation of modern
Buddhist studies..
b) Sau thời kỳ phục hưng của Minh Trị
vào năm 1868, Phật giáo không còn được che chở và phải đối diện với nguy cơ mất
đi sự hậu thuẫn của dân chúng do sự đố kỵ của Thần Đạo đầy tính dân tộc. Cũng
may là nguy cơ nầy không diễn ra nhờ những nỗ lực của các tín đồ cả Tăng lẫn
tục. Hơn nữa, sau đó chánh phủ Nhật bảo đảm sự tự do tín ngưỡng theo Hiến pháp.
Đồng thời các tu sĩ từng nghiên cứu giáo lý đạo Phật bằng quan điểm khoa học cố
gắng tìm ra một ý nghĩa mới cho các giáo lý xưa. Nên biết trong thời kỳ nầy đã
có những đoàn truyền giáo từ Nhật đi đến tận châu Mỹ, Hạ Uy Di, cùng các xứ
khác để truyền bà đạo Phật theo tinh thần của những nghiên cứu mới nầy về đạo
Phật: Having lost its protector after Meiji Restoration in 1868 A.D., Buddhism
faced the risk of being deprived of public support on account of the hostility
of nationalistic Shintoism. Fortunately, this risk was obviated by the efforts
of both monks and laymen. Furthermore, the government guaranteed freedom of religion
under the Constitution. At the same time, many monks who had investigated the
doctrines of Buddhism scientifically tried to find a new meaning in the old
doctrines. It may also be noted that some Buddhist missionaries went over to
America, Hawaii, and other countries to propagate Buddhism in the light of
modern studies in Buddhism.
(II) Các tông phái Phật giáo Nhật Bản—Japanese Buddhism sects:
Như trên đã nói, phần lớn các tông phái Phật giáo Nhật Bản đều từ trung Hoa
đến, nhưng chỉ một số còn giữ được tính chất Trung Hoa mà thôi. Tại Nhật Bản có
khoảng mười ba tông phái Phật giáo. Đó là Hoa Nghiêm, Luật tông, Pháp Tướng,
Mật tông, Tam Luận, A Tỳ Đạt Ma câu Xá, Thành Thật, vân vân, nhưng các tông
phái nầy đã có phần tàn lụi và ít tạo được ảnh hưởng riêng. Dưới đây là một số
tông phái vẫn còn phát triển—As mentioned above, most Buddhist sects in Japan
originally came from China, but only a few of them still retained their Chinese
character. The Buddhist sects in Japan are said to be thirteen in number. They
are the Avatamsaka (Kegon), the Vinaya (Ritsu), the Dharmalaksana (Hosso), the
T’ien-T’ai (Tendai), the Tantric Buddhism (Shingon), the three-sastra school of
Madhyamika, the Abhidharma-kosa (Kusha), the Satyasiddhi-sastra (Jojitsi),
etc., but they are more or less extinct and have little independent influence.
Here are those that are still active:
(A) Thiền Phái Nhật Bản: Japanese Zen sects—See Thiền Phái Nhật
Bản.
(B) Các tông phái khác: Other sects:
1) Phái Nhật Liên: Nichiren sect—Một
phái Phật giáo do Nhật Liên (1222-1282) sáng lập. Các tín đồ phái Nhật Liên
sùng mộ tụng “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” hòa nhịp với tiếng trống mạnh mẽ
của họ—A Japanese Buddhist sect founded by Nichiren (1222-1282). Nichiren
believers devotedly recite “Namo The Wonderful Law of the Lotus Sutra” to the
vigorous accompanying of their own drum-beating.
2) Phái Thiên Thai: Phái Tiên Thai Nhật
Bản khởi đầu với Saicho (767-822). Sau khi qua đời ông được biết như là Truyền
Giáo Đại Sư, người đã mang giáo lý phái nầy từ Trung Quốc về Nhật Bản vào năm
805. Giáo lý và phương pháp tu tập của phái Thiên Thai chủ yếu đặc căn bản trên
Kinh Pháp Hoa và sự phân chia giáo lý của Phật thành Bát Giáo Ngũ Thời do Trí
Giả Đại Sư sơ tổ người Trung Hoa thiết lập—The Japanese T’ien-T’ai sect starts
with Saicho (767-822), posthumously known as Dengyo-Daishi, who brought the
teachings from China in 805. The T’ien-T’ai doctrine and practices are based
chiefly on the Lotus sutra and the division of the Buddha’s doctrines into
Eight Teachings and Five Periods as laid down by Chi-I, the Chinese founder—For
more information about the T’ien-T’ai, please see Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo.
3) Phái Tịnh Độ: Phái Tịnh Độ Nhật Bản
được Đại Sư Pháp Nhiên sáng lập năm 1175—The Japanese Pure Land Sect was
founded by a great monk named Honen in 1175—For more information about the Pure
Land sect, please see A Di Đà in Vietnamese-English and Amita in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Sections.
Tông Pháp: Tông Thể—The body of doctrine of a sect with five
different names:
1)
a) Tự Tính: Subject.
b) Sai Biệt: Differentiation.
2)
a) Hữu Pháp: Thesis that acts.
b) Pháp: The action.
3)
a) Sở Biệt: Thesis which is
differentiated.
b) Năng Biệt: That which
differentiates.
4)
a) Tiền Trần: First statement.
b) Hậu Trần: The following statement.
5)
1) Tông Y: That on which the syllogism
depends.
2) Diệc Y: Both for subject and
predicate.
Tông Phong: Phong cách của một tông phái. Môn đồ Thiền tông đặc biệt
tán dương vị tôn sư của tông phái mình gọi là tông phong (phong cách truyền nối
của các tổ sư thì gọi là Thiền Phong)—The customs or traditions of a sect. In
the Ch’an sect it means the regulations of the founder.
Tông Thắng: Một vị đệ tử của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, ỷ mình thông minh, cải
lời Tổ dạy, đi đấu lý và biện luận với con vua trong nước thời đó là Thái Tử Dị
Kiến, rốt cuộc bị thảm bại nhục nhã, buồn muốn nhảy xuống núi tự tận, may nhờ
có Thiên Long Hộ Pháp xuất hiện cứu vớt—Tsung-Sheng, a disciple of Patriarch
Bodhidharma. Tsung Sheng thought highly of his intelligence. He disobeyed the
Patriarch and went to compete and debate with Prince Di-Ch’ien of that country.
As a result, he lost the debate and felt so ashamed that he wanted to commit
suicide by jumping off a cliff. Luckily, he was comforted and saved by a
Dharma-Guardian.
Tông Thể: Tông Pháp—Thực thể nghĩa lý của một tông phái—The body of
doctrine of a sect—See Tông Pháp and Nhân Minh.
Tông Thiên Thai: Saddharma-pundarika sect—See Tông phái 10.
Tông Thiền: Dhyana or Zen school—See Tông phái 8.
Tông Thuyết Câu Thông: Thông suốt cả tông chỉ và thuyết pháp của bậc đại sư (tông
thông: thông hiểu tông chỉ hay tu tập thiền định giác ngộ triệt để; thuyết
tông: thuyết pháp an nhiên tự tại)—In doctrine and expression both thorough, a
term applied to a great teacher.
Tông Thừa: Giáo nghĩa và giáo điển của các tông phái—The vehicle of a
sect.
Tông Tịnh Độ: The Pure Land sect—See Tông phái 7.
Tông Tổ: Vị sáng lập ra tông phái—The founder of a sect or school.
Tông Trí: Giáo điển tối thượng của tông phái—The ultimate or
fundamental tenets of a sect, important elements, or main principle.
Tông Tượng: Tông sư của một tông phái người đã sáng lập ra giáo thuyết
của tông phái (người đã khéo thuyết pháp giúp thành tựu cho đệ tử, như người
thợ đúc tượng dạy học trò)—The master workman of a sect who founded its
doctrines.
Tông Y: Lý thuyết mà tông phái dựa vào (Nhân Minh Học có ba chi,
chi thứ nhất là Tông Pháp gồm Tông thể và Tông Y)—The method of
proposition on which a sect depends.
**
For more information, please see Nhân Minh.
Tông Yếu: See Tông Trí.
Tống:
1) Biếu: To send—To give as a present.
2) Hộ tống: To escort—To give as a
present.
3) Nhà Tống bên Tàu từ năm 960 đến
1280: The Sung dynasty, 960-1280 A.D.
4) Tống biệt: To see someone off.
5) Tống khứ: To drive out, or away.
Tống Biệt: To see someone off.
Tống Cổ: To turn someone out of the door.
Tống Đạt: To deliver—To serve.
Tống Đế Vương: Vị chúa ngục thứ ba trong thập điện ngục vương, cai quản
“Hắc Thằng” địa ngục—The third of the ten rules of Hades, who presides over the
Kalasutra, the hell of black ropes.
Tống Giam: To imprison.
Tống Khứ: To turn out—To expel.
Tống Khứ quỷ: To cast out devils.
Tống Nguyên Nhập Tạng Chư Đại Tiểu
Thừa Kinh: Bộ Kinh Tạng được nhận vào Kho
Kinh Điển Trung Quốc từ Ấn Độ, kể cả Tiểu lẫn Đại Thừa, vào thời Bắc Tống Nam
Tống (960-1127 và 1127-1280 sau Tây Lịch) và thời nhà Nguyên (1280-1368 sau Tây
Lịch)—Sutras of the Hinayana and Mahayana admitted into the canon during the
Northern and Southern Sung 960-1127 and 1127-1280 A.D., and Yuan 1280-1368 A.D.
dunasties.
Tống Ra: To eject—To drive out (away).
Tống Táng: Tiển đưa linh cửu người chết đến mộ huyệt—To escort for
burial; to escort the deceased, or the departed to the grave.
Tống Tiền: To blackmail.
Tống Tửu: To offer wine.
Tống Vong: To escort or take the departed to the grave.
Tổng: Sadharana (skt)—Cùng nhau—Toàn thể—Altogether—Whole—General—All.
Tổng Báo Nghiệp: Quả báo chung quyết định chủng loại và xứ sở mà người ta
sanh vào (chúng sanh lục căn đẹp xấu, mệnh thọ dài ngắn, giàu, nghèo, bệnh,
khỏe, v.v. là biệt báo)—The principal or integral direction of karma—General
karma determining the species, race, and country into which one is born (The
particular relating to one’s condition in that species, i.e. rich, poor, well,
ill, etc.).
Tổng Biệt: Chung và riêng—General and particular.
Tổng Cúng: Cúng dường hay thờ hết thảy các vị Thần, đối lại với việc
thờ phượng một vị Thần đặc biệt nào đó—A general offer to all spirits, in
contrast with specific worship.
Tổng Hợp (a): Integrated—(n): Collection.
Tổng Kết: Summarize—To recapitulate.
Tổng Minh Luận: Tên khác của Câu Xá Luận—Another name for Abhidharma Kosa.
Tổng Nguyện: Thệ nguyện chung của chư Phật và chư Bồ Tát như Tứ Hoằng
Thệ Nguyện và Thập Nguyện Phổ Hiền Bồ Tát, đối lại với thệ nguyện riêng như 48
nguyện của Đức Phật A Di Đà—Universal vows common to all Buddhas and
Bodhisattvas, e.g. the four magnanimous vows, and the ten great vows of
Samantabhadra Bodhisattva; in contrast with specific vows, e.g. forty-eight of
Amitabha.
**
For more information, please see Tứ Hoằng Thệ Nguyện, Mười Đại Nguyện Của Bồ
Tát Phổ Hiền and Tứ Thập Bát Nguyện in Vietnamese-English Section.
Tổng Số: Grand total.
Tổng Trì: Dharani (skt)—Niệm lực có thể tổng nhiếp và trì giữ hết
thảy các pháp (thiện ác) mà không thể mất—Entire control or absolute control
over good and evil passions and influences.
**
For more information, please see Đà La Ni in Vietnamese-English Section, and
Dharani in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tổng Trì Môn: Pháp môn tổng trì, tức là dùng niệm lực để thâu nhiếp và
chấp trì chư pháp không để cho mất—The esoteric or Tantric sects and
methods.
**
For more information, please see Tứ Chủng Tổng Trì.
Tổng Tướng: Tướng chung của hết thảy các pháp hữu vi là vô thường vô
ngã, đối lại với biệt tướng như cứng, mềm, v.v.—Universal characteristics of
all phenomena (impermanence, non-ego), in contrast with specific
characteristics (hard, soft, etc.).
Tổng Tướng Giới: Giới chung cho hết thảy mọi đệ tử Phật như Thập Giới, đối
lại với giới riêng như 250 cho Tỳ Kheo và 348 cho Tỳ Kheo Ni—The general
commandments for all disciples, i.e. the ten commandments, in contrast with the
specific or complete 250 commandments for monks, or 348 for nuns (monastic
rules)
Tốp: Group.
Tốt: Good.
Tốt Bụng: Kind (good)-hearted.
Tốt Duyên: Happy marriage.
Tốt Đẹp: Fine.
Tốt Hơn: Better.
Tốt Lành: Good—Fine.
Tốt Lộ Đa A Bán Na: Srota-apanna (skt)—See Tứ Thánh Quả in Vietnamese-English
Section, and Srota-apanna in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tốt Lộ Đà A Bát Nang: Srota-apanna (skt)—See Tứ Thánh Quả in Vietnamese-English
Section, and Srota-apanna in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tốt Mã: To have a good look (appearance).
Tốt Phước: Fortunate—Happy.
Tốt Tiếng:
1) Beautiful voice.
2) Good reputation (name).
Tột Bực: Highest degree.
Tơ
Tơ Duyên: marriage bonds.
Tơ Hồng: Bond of marriage.
Tơ Lòng: Ties of affection.
Tơ Tưởng: To dream.
Tơi Bời: To run away in disorder.
Tơi Tả: In tatters—In rags.
Tới: To attain—To come—To arrive.
Tới Bến: To reach the shore.
Tới Cùng: To (till) the end.
Tới Đất: Down to the ground.
Tới Gần: To come near—To approach—To come close.
Tới Lui: To frequent.
Tới Nơi: To arrive—To come.
Tới Tấp: Repeatedly.
Châm Ngôn Tục Ngữ—Precepts and proverbs:
Danh vọng là hơi thoảng
qua, thịnh vượng thì có thời và giàu sang chẳng qua chỉ là ảo ảnh; lắm kẻ hôm
nay hớn hở, ngày mai lại nguyền rủa; duy có phẩm đức là trường tồn bất biến:
Fame is like vapor, prosperity an accident and riches take swing; those who
cheer today, may curse tomorrow; only one thing endures: moral character.
Cười người chớ khá cười lâu; cười người hôm trước hôm sau người
cười: He who laughs today may weep tomorrow.
Ác giả ác báo (làm ác gặp ác): As the call, so the echo.
Ai cũng có cái ngu của mình: Everyman has a fool in his sleeve.
Ai làm nấy chịu: Who breaks, pays.