Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Đạo và ngộ Đạo qua mấy vần thơ thiền

17 Tháng Mười 201000:00(Xem: 19368)
Tìm Đạo và ngộ Đạo qua mấy vần thơ thiền


Tìm Đạo và ngộ Đạo qua mấy vần thơ thiền


Tác giả thơ Thiền phần nhiều là Thiền sư. Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ, là pháp môn Định Tuệ song tu. Vì thế, các nhà thơ - thiền sư thường lấy kinh nghiệm bản thân trong việc tìm Đạo và ngộ Đạo làm đề tài sáng tác. Chúng ta thử tìm hiểu việc tìm Đạo và ngộ Đạo qua mấy vần thơ đậm đà thiền vị của một số Thiền sư.

Thiền sư Thủ Đoan (1) mượn tiếng chim tử qui để nói việc tìm Đạo:

Phiên âm:
Tử qui
Thanh thanh giải đạo bất như qui,
Vãng vãng nhân tâm hội giả hi.
Mãn mục xuân sơn thanh thủy lục,
Cánh cầu hà địa khả vong ky?
Thủ Đoan
Dịch thơ:
Tử qui
Cuốc kêu ra rả bảo quay về,
Ít kẻ trên đời lại chịu nghe.
Nước biếc non xuân đầy trước mắt,
Tìm đâu mới bỏ được lòng mê?
Nguyễn Khuê dịch
Tử qui tức chim đỗ quyên, ta gọi là chim cuốc (cũng viết chim quốc). Cùng một sự vật mà mỗi người cảm nhận một cách khác nhau. Người xưa có câu "Đỗ quyên minh quốc quốc" (chim đỗ quyên kêu quốc quốc). Bà Huyện Thanh Quan ngậm ngùi tưởng nhớ triều đại cũ đã diệt vong khi nghe tiếng cuốc kêu:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Nguyễn Khuyến nghe tiếng cuốc kêu khắc khoải lại đau lòng trước cảnh nước mất:
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Tiếng chim tử qui nghe thảm thiết, khiến lữ khách nghĩ đến việc quay về, nên chim này còn có tên là "tư qui" (nghĩ đến trở về) hoặc "thôi qui" (thúc giục trở về). Với tâm thể của một thiền sư, tác giả nghe tiếng cuốc kêu, không khỏi cảm thán người tu học chậm ngộ đạo. Sư cho rằng ngộ Đạo không khó, nhưng nhiều người lại thường chấp mê mà không ngộ ra. Cũng như mọi người đều biết tiếng chim tử qui kêu gọi người ta sớm quay trở về, nhưng không một ai nghe tử qui kêu mà chịu quay về. Nhà thơ cho rằng Phật tính chân như giống như non xuân nước biếc đầy trước mắt, có thể nhìn thấy, chỉ cần minh tâm kiến tính thì chỗ nào cũng có thể ngộ ra, không phải tìm đâu xa. Điều quan trọng là hành giả cần có ngộ tính, bản thân thể giải và tinh tấn tu hành.
Ngoại cảnh cung cấp nhiều âm thanhhình ảnh để nhà thơ dùng làm chất liệu sáng tác. Không chỉ mượn tiếng chim tử qui, Thiền sư Thủ Đoan còn mượn việc con ruồi cố tìm cách xuyên thủng giấy dán cửa sổ bay ra ngoài để nói về tìm Đạo:
Phiên âm:
Dăng tử thấu song kệ
Vị ái tầm quang chỉ thượng toàn,
Bất năng thấu xứ kỷ đa ban.
Hốt nhiên chàng trước lai thời lộ,
Thủy giác bình sinh bị nhãn man.
Thủ Đoan
Dịch thơ:
Bài kệ về con ruồi
xuyên giấy dán cửa sổ
Xuyên giấy dán song tìm ánh sáng,
Loay hoay chẳng thoát được ra ngoài.
Thình lình gặp lại đường vào cũ,
Mới biết trước kia mắt thấy sai.
Nguyễn Khuê dịch
Đôi khi chúng ta thấy con ruồi bay vào nhà, rồi sau đó đâm đầu vào kính cửa sổ để bay ra ngoài, vì tưởng lầm là ánh sáng. Thay vì dùng kính làm cửa sổ như chúng ta thấy ngày nay, thì xưa kia người ta dùng giấy. Con ruồi vì tưởng lầm giấy dán cửa sổ là ánh sáng nên tìm cách xuyên thủng giấy để chui qua, nhưng không thể nào xuyên thủng được. Cuối cùng nó mới nhận ra rằng nhìn giấy dán cửa sổ mà tưởng ánh sáng là con mắt đã nhìn lầm, là đã bị con mắt đánh lừa. Giấy dán cửa sổ có ánh sáng chiếu qua không phải là ánh sáng, mà trái lại, là chướng ngại ngăn trở con ruồi tìm đến ánh sáng.
Giấy dán cửa sổ dụ cho những lời bàn nói của người xưa, dụ cho đống giấy cũ. Hành giả chỉ chú tâm, chỉ trông cậy vào đống giấy cũ để mong cầu ngộ Đạo thì không khác gì con ruồi tìm cách xuyên thủng giấy dán cửa sổ, không có chút sở đắc nào. Thiền do ngài Đạt Ma truyền, chủ trương "giáo ngoại biệt truyền" (truyền riêng ngoài giáo), không theo văn tự kinh điển, dùng phương pháp tọa thiền để mong được khai ngộ. Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ, phải nhờ người khác đọc cho nghe bài kệ của ngài Thần Tú, nhờ người khác viết giúp bài kệ của mình lên vách. Nhưng do biết bản tâm mình, thấy được bản tính mình mà Lục Tổ đại ngộ. Căn bản của việc tu hànhdựa vào sức của chính mình, dựa vào minh tâm kiến tính. "Dăng tử thấu song kệ" hàm ý cao sâu mà lời giản dị tự nhiên, là một bài thơ nổi tiếng nói về tìm Đạo và ngộ Đạo.
Thiền sư Thần Tán cũng có một bài thơ nội dung tương tự bài thơ trên:
Phiên âm:
Không môn bất khẳng xuất
Không môn bất khẳng xuất,
Đầu song dã đại si.
Bách niên toàn cố chỉ,
nhật xuất đầu thì?
Thần Tán
Dịch thơ:
Cửa không chẳng chịu ra
Chẳng chịu ra cửa trống,
Chui cửa sổ quá ngu.
Trăm năm dùi giấy cũ,
Ngày nào mới ló đầu?
Nguyễn Khuê dịch
Cũng như con ruồi ở bài "Dăng tử thấu song kệ" trên đây, con ong ở bài này không chịu bay ra ngoài qua cửa trống mà cứ đâm đầu vào giấy dán cửa sổ. Tác giả mượn việc này để chê những kẻ tham thiền học Phật chỉ dùi giấy cũ là "đại si", dù cho mất cả trăm năm, tức một đời người, rốt cuộc cũng không thể ló đầu ra. Con ong không thể xuyên thủng giấy dán cửa sổ để bay ra ngoài, cũng vậy, người tham thiền chấp trước vào giấy cũ thì khó thành tựu Phật đạo.
Tìm ánh sáng tức tìm Đạo. Tác giả cho rằng hành giả không nên dựa vào tha lực, không nên hướng ngoại tìm cầu, mà chủ yếu dựa vào tự mình minh tâm kiến tính. "Không môn" vừa có nghĩa thông thường là cửa trống không, vừa là từ ngữ nhà Phật. Không chịu ra cửa Không tức không chịu theo pháp môn quán các pháp là không, không chịu nương vào Không để xa lìa chấp ngãpháp chấp thì sao có thể hiển bày chân như thực tính.
Người tu hành tìm Đạo không chỉ bị giấy cũ ngăn trở, mà còn có nhiều chướng ngại khác, như nội dung bài thơ sau đây của Thiền sư Thủ Tuân (3):
Phiên âm:
Chung nhật khán thiên
Chung nhật khán thiên bất cử đầu,
Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu.
Nhiêu quân tiện hữu già thiên võng,
Thấu đắc lao quan tức tiện hưu.
Thủ Tuân
Dịch thơ:
Suốt ngày nhìn trời
Ngày trọn nhìn trời chẳng ngẩng đầu,
Ngước trông lả tả cánh hoa đào.
Che trời quanh bạn đều giăng lưới,
Chẳng vượt lao quan chẳng chịu nào.
Nguyễn Khuê dịch
Bài thơ này lấy việc nhìn trời để dụ cho việc tìm Đạo và ngộ Đạo. Mở đầu, tác giả nói một việc nghịch lý: suốt ngày nhìn trời mà không ngẩng đầu. Nhưng trời ở đây không phải là bầu trời. Trời tức là Đạo, cũng tức là Phật tính, chân như. Vậy ý câu đầu muốn nói tác giả suốt ngày nhắm mắt tĩnh tọa, tham thiền nhập định, dùng ánh sáng trí tuệ Bát nhã chiếu rọi tự tính. Và đến lúc "đào hoa lạn mạn" mới ngước mắt lên, tức thấy hoa đào mà tỏ ngộ. Phật tính, chân như không chỗ nào không có, không chỗ nào không thể nhìn thấy. Sở dĩ người ta không khai ngộ được là vì "lưới che trời", tức màn vô minh, tức vọng niệm che lấp. Tác giả bày tỏ quyết tâm phải qua được "lao quan" mới thôi. Lao quan là dụng ngữ Thiền tông, có nghĩa là cửa ải kiên cố, khó vượt qua. Qua được lao quan tức dứt bỏ hết vọng niệm, phá trừ vô minh, thấy được bản lai diện mục của thực tính.
Ni Diệu Tổng (4) cũng có bài thơ chuyển tải kinh nghiệm về tìm Đạo và ngộ Đạo:
Phiên âm:
Ngộ Đạo thi
Nhất diệp thiên chu phiếm miễu mang,
Trình nhiêu vũ trạo biệt cung thương.
Vân sơn hải nguyệt đô phao khước,
Doanh đắc Trang Chu điệp mộng trường.
Ni Diệu Tổng
Dịch thơ:
Thơ ngộ Đạo
Bát ngát thuyền con một lá trôi,
Quẫy chèo riêng có khúc ca rồi.
Núi mây trăng biển đều từ bỏ,
Đạt được Trang Chu giấc bướm thôi.
Nguyễn Khuê dịch
Ni cô mượn việc đi thuyền trên biển cả mênh mông để dụ cho việc tìm Đạo. Đạo mênh mông như biển khơi. Đi thuyền tức tham thiền tìm Đạo. Chèo thuyền là chỉ sự gian khổ, nhưng chính trong sự gian khổ ấy có "biệt cung thương", tức là niềm vui riêng, niềm vui của người đi tìm Đạo. Trên đường đi, hành giả gặp nhiều "vân sơn hải nguyệt", nhưng đều từ bỏ, vì mây đầu núi, trăng trên biển chẳng qua chỉ là những sắc tướng hư huyễn, không thực. Cuối cùng, hành giả đạt tới cảnh giới "vật ngã lưỡng vong". Sách Trang Tử (Tề vật luận) kể chuyện Trang Chu nằm mơ thấy mình là bướm, thích chí không còn biết có Chu; đến lúc tỉnh giấc lại thấy mình là Chu, không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu. Nhà thơ mượn chuyện này để nói mình không còn chấp trước vật và ngã, tâm thể ngộ Đạo, lâng lâng tự tại.
Muốn ngộ Đạo thì phải thấy rõ tính hư huyễn vô thường của mọi vật. Thiền sư Diệc Vi (5) cũng có nhãn quan như vậy:
Phiên âm:
Thiền định
Song ngoại ba tiêu lục bán am,
Tâm hương nhất chú tĩnh trung tham.
Vân hà huyễn diệt tầm thường sự,
Thiền định chân như thị bát đàm.
Diệc Vi
Dịch thơ:
Thiền định
Ngoài song tàu chuối nửa xanh am,
Một nén hương lòng ngồi tĩnh tâm.
Mây ráng việc thường tuồng huyễn diệt,
Chân như thiền định ấy hoa đàm.
Nguyễn Khuê dịch
Bài thơ lấy thiền định làm đề tài. Thiền là gọi tắt tiếng Phạn thiền na, người Trung Quốc dịch là tĩnh lự, cũng dịch là tư duy tu. Tư duy trong tĩnh lặng, tâm chuyên chú vào một đối tượng nào đó. Có được sự tịch tĩnh của thiền định thì chân trí mới mở ra.
Ngoài cửa sổ những tàu lá chuối xanh um một nửa am. Nhà thơ ngồi tĩnh lặng tham thiền, quán chiếu sắc tướng của muôn vật, cảm ngộ mây và ráng xuất hiện rồi nhanh chóng tan biến là việc tầm thường trong cõi giả tạm. Tất cả mọi vật đều huyễn diệt như mây và ráng. Chỉ thiền định chân như mới là hoa đàm. Hoa đàm ba ngàn năm mới nở một lần, hoa đàm nở là điềm lành báo hiệu Đức Phật ra đời, nên người Trung Quốc dịch là linh thụy hoa. Ở đây mượn hoa đàm dụ cho ngộ Đạo.
Qua những bài thơ Thiền trên đây, chúng ta thấy việc tìm Đạo và ngộ Đạo của các vị thiền sư có khác nhau tùy theo căn cơ của mỗi người, nhưng nói chung là vô cùng khó khăn. Các vị thiền sư đã thể nghiệm và cho biết người tu thiền không nên dựa vào tha lực mà phải tự mình tinh tấn tu tập thiền định để được minh tâm kiến tính; không nên tìm ánh sáng bằng cách xuyên thủng giấy cũ như con ruồi, con ong đâm đầu vào giấy dán cửa sổ, mà phải hướng thẳng đến ánh sáng chân lý, ánh sáng của Đạo; phải có cái tâm kiên cố để phá trừ vô minh, dứt bỏ vọng tưởng, vượt qua "lao quan" mà ngộ Đạo.
Thưởng thức thơ Thiền giúp tâm trí được thư giãn và thanh thoát sau những ngày giờ căng thẳng, tất bật công việc mưu sinh, đồng thời hiểu thêm việc tìm Đạo và ngộ Đạo của các vị thiền sư, qua đó suy ngẫm sự tu học của chính mình. Như vậy những bài thơ thiền trên đây không chỉ đem lại mỹ cảm mà còn hữu ích cho đạo tâm của người đọc.

Sách tham khảo:
(1) Thủ Đoan (1025 - 1072): họ Cát, người huyện Hành Dương, tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc), thiền sư thuộc phái Dương Kỳ, tông Lâm Tế, đời Tống. Tác phẩm: Bạch Vân Thủ Đoan thiền sư ngữ lục, Bạch Vân Đoan Hòa thượng quảng lục.
(2) Thần Tán: thiền sư đời Đường, tu ở chùa Cổ Linh tại Phúc Châu, nên còn gọi là Cổ Linh Thần Tán. Sư đi hành cước khắp nơi, đến khi gặp ngài Bách Trượng Hoài Hải mới được khai ngộ đắc pháp.
(3) Thủ Tuân (1079-1234): họ Thi, người huyện An Cát, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc), thiền sư tông Lâm Tế đời Tống.
(4) Diệu Tổng (? -1163): họ Tô, người Trấn Giang, tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), cháu nội Thừa tướng Tô Tụng đời Tống, Tỳ kheo ni. Một hôm, trong khi tọa thiền, Sư cô đại ngộ, Đại sư Tông Cảo bèn ấn khả. Từ đó danh vang bốn phương.
(5) Diệc Vi: vị Tăng ở Việt Đông (Quảng Đông, Trung Quốc), đời Thanh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 82)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 102)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 207)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 220)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 259)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 239)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 248)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 325)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 290)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 287)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 278)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 309)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 309)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 252)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 199)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 234)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 256)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 346)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 408)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 422)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 413)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 395)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 407)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 677)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 629)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 915)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 502)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 741)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 563)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 554)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 446)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 568)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 532)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 718)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 510)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 891)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 633)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 627)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1051)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 732)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 618)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 928)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 587)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 712)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 687)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 666)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 687)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 677)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 577)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 757)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant