Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Phẩm Phương tiện

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9865)
2. Phẩm Phương tiện

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

QUYỂN THỨ NHẤT
 Đời Diêu-Tần, Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập phụng chiếu dịch.
 
PHẨM "PHƯƠNG TIỆN" (31) THỨ HAI


 1. Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Trí-huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-chi-Phật đều không biết được. Vì sao?

 Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức, vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.

 Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Đức Như-Lai đã đầy đủ phương tiện, tri kiến và ba-la-mật.

 Xá-Lợi-Phất! Tri kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô-ngại-lực, vô-sở-úy, thiền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.

 Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ im dịu vui đẹp lòng chúng.

 Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.
 2. Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.

 3. Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng: Đấng Thế-Hùng khó lường

 Các trời cùng người đời

 Tất cả loài chúng sanh

 Không ai hiểu được Phật

 Trí-lực, vô-sở-úy

 Giải thoát các tam-muội

 Các pháp khác của Phật

 Không ai so lường được

 Vốn từ vô số Phật

 Đầy đủ tu các đạo

 Pháp nhiệm mầu rất sâu

 Khó thấy khó rõ được

 Trong vô lượng ức kiếp

 Tu các đạo đó rồi

 Đạo tràng được chứng quả

 Ta đều đã thấy biết

 Quả báo lớn như vậy

 Các món tính tướng nghĩa

 Ta cùng mười phương Phật

 Mới biết được việc đó
 4. Pháp đó không chỉ được

 Vắng bặt tướng nói năng

 Các loài chúng sinh khác

 Không có ai hiểu được

 Trừ các chúng Bồ-Tát

 Người sức tin bền chặt

 Các hàng đệ tử Phật

 Từng cúng dường các Phật

 Tất cả lậu đã hết

 Trụ thân rốt sau này

 Các hạng người vậy thảy

 Sức họ không kham được,

 Giả sử đầy thế gian

 Đều như Xá-Lợi-Phất

 Cùng suy chung so lường

 Chẳng lường được Phật trí

 Chính sử khắp mười phương

 Đều như Xá-Lợi-Phất

 Và các đệ-tử khác

 Cũng đầy mười phương cõi

 Cùng suy chung so lường

 Cũng lại chẳng biết được.

 Bậc Duyên-giác trí lành

 Vô lậu thân rốt sau

 Cũng đầy mười phương cõi

 Số đông như rừng tre,

 Hạng này chung một lòng

 Trong vô lượng ức kiếp

 Muốn xét Phật thật trí

 Chẳng biết được chút phần.

 Bồ-Tát mới phát tâm

 Cúng dường vô số Phật

 Rõ thấu các nghĩa thú

 Lại hay khéo nói pháp

 Như lúa, mè, tre, lau

 Đông đầy mười phương cõi

 Một lòng dùng trí mầu

 Trải số kiếp hằng sa

 Thảy đều chung suy lường

 Chẳng biết được trí Phật

 Hàng bất-thối Bồ-Tát

 Số đông như hằng sa

 Một lòng chung suy cầu

 Cũng lại chẳng hiểu được.
 5. Lại bảo Xá-Lợi-Phất

 Pháp nhiệm mầu rất sâu

 Vô lậu khó nghĩ bàn

 Nay ta đã được đủ

 Chỉ ta biết tướng đó

 Mười phương Phật cũng vậy,

 Xá-Lợi-Phất phải biết

 Lời Phật nói không khác

 Với Pháp của Phật nói

 Nên sinh sức tin chắc

 Pháp của Phật lâu sau

 Cần phải nói chân thật

 Bảo các chúng Thanh-văn

 Cùng người cầu Duyên-giác

 Ta khiến cho thoát khổ

 Đến chứng được Niết-bàn

 Phật dùng sức phương tiện

 Dạy cho ba thừa giáo

 Chúng sanh nơi nơi chấp

 Dắt đó khiến ra khỏi.
 6. Khi đó trong đại chúng có hàng Thanh-văn lậu tận A-la-hán, ngài A-Nhã Kiều-Trần-Như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam cùng cận-sự-nữ, hạng người phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng : "Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này : "Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được."

 7. Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu? Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: Thưa Thế-Tôn! Nhân gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế-Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu? Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 8. Đấng Huệ-Nhật Đại-thánh

 Lâu mới nói pháp này,

 Tự nói pháp mình chứng

 Lực, vô-úy, tam-muội,

 Thiền-định, giải-thoát thảy

 Đều chẳng nghĩ bàn được.

 Pháp chứng nơi đạo tràng

 Không ai hỏi đến được,

 Ý con khó lường được

 Cũng không ai hay hỏi.

 Không hỏi mà tự nói

 Khen ngợi đạo mình làm

 Các đức Phật chứng được

 Trí huệ rất nhiệm mầu.

 Hàng vô-lậu La-hán

 Cùng người cầu Niết-bàn

 Nay đều sa lưới nghi

 Phật cớ chi nói thế?

 Hạng người cầu Duyên-giác.

 Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni,

 Các trời, rồng, quỉ, thần

 Và Càn-thát-bà thảy

 Ngó nhau mang lòng nghi

 Nhìn trông đấng Túc-Tôn,

 Việc đó là thế nào

 Xin Phật vị dạy cho?

 Trong các chúng Thanh-văn

 Phật nói con hạng nhất

 Nay con nơi trí mình

 Nghi lầm không rõ được

 Vì là pháp rốt ráo

 Vì là đạo Phật làm

 Con từ miệng Phật sanh

 Chắp tay nhìn trông chờ

 Xin ban tiếng nhiệm mầu

 Liền vì nói như thực

 Các trời, rồng, thần thảy

 Số đông như hằng sa

 Bồ-Tát cầu thành Phật

 Số nhiều có tám muôn

 Lại những muôn ức nước

 Vua Chuyển-Luân-vương đến

 Đều lòng kính chắp tay

 Muốn nghe đạo đầy đủ.
 9. Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ."
 10. Ngài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằng: "Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao? Trong hội đây có vô số trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ chúng-sinh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí huệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin".

 Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

 Đấng Pháp-Vương vô thượng

 Xin nói chuyện đừng lo

 Vô lượng chúng hội đây

 Có người hay kính tin.
 11. Đức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất : "Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, A-tu-la đều sẽ nghi sợ, Tỳ-kheo tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn."

 Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:

 Thôi thôi! Chẳng nên nói

 Pháp ta diệu khó nghĩ

 Những kẻ tăng-thượng-mạn

 Nghe ắt không kính tin.
 12. Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng : "Thưa Thế-Tôn ! Cúi xin Phật nói , cúi xin Phật nói. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức. Đời đời đã từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an ổn nhiều điều lợi ích.

 Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

 Đấng vô thượng Lưỡng-túc

 Xin nói pháp đệ nhất

 Con là trưởng tử Phật

 Xin thương phân biệt nói.

 Vô lượng chúng hội đây

 Hay kính tin pháp này

 Đời đời Phật đã từng

 Giáo hóa chúng như thế

 Đều một lòng chắp tay

 Muốn muốn nghe lãnh lời Phật.

 Chúng con nghìn hai trăm

 Cùng hạng cầu Phật nọ

 Nguyện Phật vì chúng này

 Cúi xin phân biệt nói

 Chúng đây nghe pháp ấy

 Thời sanh lòng vui mừng.
 13. Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt giải-nói."
 14. Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thẩy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phậtlui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà đã cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Đức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản.
 15. Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gã tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói."

 16. Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng : "Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe". Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh- thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.
 17. Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời nghi nói pháp y -thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô số phương tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp.

 Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.

 Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnhhiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng-sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phậthiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào đạo tri kiến Phậthiện ra nơi đời.

 Xá-Lợi-Phất! Đó là các đức Phật do vì một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời".
 18. Đức Phật bảo Xá-Lợi-Phất : "Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, những điều làm ra thường vì một việc : chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi"

 Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sanh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.

 Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phậtmười phương cũng như thế.

 Xá-Lợi-Phất! Thuở quá khứ các đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí."

 Xá-Lợi-Phất! Thuở vị lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật thừa nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".

 Xá-Lợi-Phất! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức cõi Phậtmười phương, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".

 Xá-Lợi-Phất ! Các đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-Tát, vì muốn đem tri kiến Phật mà chỉ cho chúng sanh, vì muốn đem tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phật vậy.

 Xá-Lợi-Phất ! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bản tánh kia dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà vì đó nói pháp.

 Xá-Lợi-Phất ! Như thế đều vì để chứng được một Phật thừa "nhứt-thiết chủng-trí."
 19. (không thấy đoạn số 19 trong kinh)
 20. Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa hà huống có ba!

 21. Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: Kiếp trược, phiền-não- trược, chúng-sinh-trược, kiến-trược, mệnh-trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng sinh nhơ nặng, bỏn sẻn, tham lam, ghét ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật thừa, phân biệt nói thành ba. Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, người này chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.

 Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đó tự cho mình đã được A-la-hán, là thân rốt sau rốt ráo Niết-bàn, bèn chẳng lại chí quyết cầu đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. Vì sao? nếu có Tỳ-kheo thực chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.

 Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.

 Khi ấy đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
 22. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

 Mang lòng tăng-thượng-mạng

 Cận-sự-nam ngã mạn

 Cận-sự-nữ chẳng tin,

 Hàng bốn chúng như thế

 Số kia có năm nghìn

 Chẳng tự thấy lỗi mình

 Nơi giới có thiếu sót

 Tiếc giữ tội quấy mình

 Trí nhỏ đó đã ra,

 Bọn cám tấm trong chúng

 Oai đức Phật phải đi,

 Gã đó kém phước đức

 Chẳng kham lãnh pháp này,

 Chúng nay không cành lá

 Chỉ có những hột chắc
 23. Xá-Lợi-Phất khéo nghe!

 Pháp của các Phật được

 Vô lượng sức phương tiện

 Mà vì chúng sanh nói.

 Tâm của chúng sanh nghĩ

 Các món đạo ra làm

 Bao nhiêu những tánh dục

 Nghiệp lành dữ đời trước

 Phật biết hết thế rồi

 Dùng các duyên thí dụ

 Lời lẽ sức phương tiện

 Khiến tất cả vui mừng.

 Hoặc là nói Thế kinh

 Cô khởi cùng Bổn-sự.

 Bổn-sanh, Vị-tằng-hữu

 Cũng nói những nhân duyên

 Thí dụTrùng tụng

 Luận nghị cộng chín kinh.

 Căn độn ưa pháp nhỏ.

 Tham chấp nơi sanh tử

 Nơi vô lượng đức Phật

 Chẳng tu đạo sâu mầu

 Bị các khổ não loạn

 Vì đó nói Niết-bàn.

 Ta bày phương tiện đó

 Khiến đều vào huệ Phật,

 Chưa từng nói các ông

 Sẽ được thành Phật đạo

 Sở dĩ chưa từng nói

 Vì giờ nói chưa đến,

 Nay chính là đến giờ

 Quyết định nói Đại-thừa.
 24. Chín bộ pháp của ta

 Thuận theo chúng sanh nói

 Vào Đại-thừa làm gốc

 Nên mới nói kinh này.

 Có Phật tử tâm tịnh

 Êm dịu cũng căn lợi,

 Nơi vô lượng các Phật

 Mà tu đạo sâu mầu,

 Vì hàng Phật tử này

 Nói kinh Đại-thừa đây.

 Ta ghi cho người đó

 Đời sau thành Phật đạo

 Bởi thâm tâm niệm Phật

 Tu trì tịnh giới vậy

 Hạng này nghe thành Phật

 Rất mừng đầy khắp mình,

 Phật biết tâm của kia.

 Nên vì nói Đại-thừa.

 Thanh-văn hoặc Bồ-Tát,

 Nghe ta nói pháp ra

 Nhẫn đến một bài kệ

 Đều thành Phật không nghi.
 25. Trong cõi Phật mười phương

 Chỉ có một thừa pháp

 Không hai cũng không ba

 Trừ Phật phương tiện nói

 Chỉ dùng danh tự giả

 Dẫn dắt các chúng sanh

 Vì nói trí huệ Phật.

 Các Phật ra nơi đời

 Chỉ một việc này thực

 Hai thứ chẳng phải chơn.

 Trọn chẳng đem tiểu thừa

 Mà tế độ chúng sanh,

 Phật tự trụ Đại-thừa

 Như pháp của mình được

 Định, huệ, lực trang nghiêm

 Dùng đây độ chúng sanh.

 Tự chứng đạo vô thượng

 Pháp bình-đẳng Đại-thừa

 Nếu dùng tiểu thừa độ

 Nhẫn đến nơi một người

 Thời ta đọa sân tham

 Việc ấy tất không được,

 Nếu người tin về Phật

 Như-Lai chẳng dối gạt

 Cũng không lòng tham ghen

 Dứt ác trong các pháp

 Nên Phật ở mười phương

 Mà riêng không chỗ sợ.

 Ta dùng tướng trang nghiêm

 Aùnh sáng soi trong đời

 Đấng vô lượng chúng trọng

 Vì nói thực tướng ấn
 26. Xá-Lợi-Phất! nên biết

 Ta vốn lập thệ nguyện

 Muốn cho tất cả chúng

 Bằng như ta không khác,

 Như ta xưa đã nguyện

 Nay đã đầy đủ rồi

 Độ tất cả chúng sanh

 Đều khiến vào Phật đạo

 Nếu ta gặp chúng sanh

 Dùng Phật đạo dạy cả

 Kẻ vô trí rối sai

 Mê lầm không nhận lời.

 Ta rõ chúng sanh đó

 Chưa từng tu cội lành

 Chấp chặt nơi ngũ dục

 Vì si ái sinh khổ,

 Bởi nhân duyên các dục.

 Sanh vào ba đường dữ

 Xoay lăn trong sáu nẻo

 Chịu đủ những khổ độc

 Thân mọn thọï bào thai

 Đời đời tăng trưởng luôn

 Người đức mỏng ít phước

 Các sự khổ bức ngặt

 Vào rừng rậm tà kiến

 Hoặc chấp có, chấp không

 Nương gá các chấp này

 Đầy đủ sáu mươi hai

 Chấp chặt pháp hư vọng

 Bền nhận không bỏ được

 Ngã mạn tự khoe cao

 Dua nịnh lòng không thực

 Trong nghìn muôn ức kiếp

 Chẳng nghe danh tự Phật

 Cũng chẳng nghe chánh pháp

 Người như thế khó độ.
 27. Cho nên Xá-Lợi-Phất!

 Ta vì bày phương tiện

 Nói các đạo dứt khổ

 Chỉ cho đó Niết-bàn

 Ta dầu nói Niết-bàn

 Cũng chẳng phải thật diệt,

 Các pháp từ bổn lai

 Tướng thường tự vắng lặng

 Phật tử hành đạo rồi

 Đời sau được thành Phật

 Ta có sức phương tiện

 Mở bày khắp ba thừa.

 Tất cả các Thế-Tôn

 Đều nói đạo nhất thừa

 Nay trong đại chúng này

 Đều nên trừ nghi lầm

 Lời Phật nói không khác

 Chỉ một, không hai thừa.
 28. Vô số kiếp đã qua

 Vô lượng Phật diệt độ

 Trăm nghìn muôn ức Phật

 Số nhiều không lường được.

 Các Thế-Tôn như thế

 Các món duyên thí dụ

 Vô số ức phương tiện

 Diễn nói các pháp tướng,

 Các đức Thế-Tôn đó

 Đều nói pháp nhất thừa

 Độ vô lượng chúng sanh

 Khiến vào nơi Phật đạo

 Lại các đại-Thánh-chúa

 Biết tất cả thế gian

 Trời người loài quần sanh

 Thâm tâm chỗ ưa muốn

 Bèn dùng phương tiện khác

 Giúp bày nghĩa đệ nhất.
 29. Nếu có loài chúng sanh

 Gặp các Phật quá khứ

 Hoặc nghe pháp bố thí

 Hoặc trì giới nhẫn nhục

 Tinh tấn, thiền, trí thảy

 Các món tu phước huệ,

 Những người như thế đó

 Đều đã thành Phật đạo

 Sau các Phật diệt độ

 Nếu người lòng lành dịu

 Các chúng sanh như thế

 Đều đã thành Phật đạo
 30. Các Phật diệt độ rồi

 Người cúng dườngxá-lợi

 Dựng muôn ức thứ tháp

 Vàng, bạc và pha-lê

 Xa-cừ cùng mã-não

 Ngọc mai khôi, lưu ly

 Thanh tịnh rộng nghiêm sức,

 Trau giồi nơi các tháp,

 Hoặc có dựng miếu đá

 Chiên-đàn và trầm-thủy

 Gỗ mật cùng gỗ khác

 Gạch ngói bùn đất thảy,

 Hoặc ở trong đồng trống

 Chứa đất thành miếu Phật

 Nhẫn đến đồng tử giỡn

 Nhóm cát thành tháp Phật,

 Những hạng người như thế

 Đều đã thành Phật đạo.
 31. Nếu như người vì Phật

 Xây dựng các hình-tượng

 Chạm trổ thành các tướng

 Đều đã thành Phật đạo.

 Hoặc dùng bảy báu làm

 Thau, đồng bạch, đồng đỏ

 Chất nhôm cùng chì kẽm

 Sắt, gỗ cùng với bùn

 Hoặc dùng keo, sơn, vải

 Nghiêm sức làm tượng Phật

 Những người như thế đó

 Đều đã thành Phật đạo

 Vẽ vời làm tượng Phật

 Trăm tướng phước trang nghiêm

 Tự làm hoặc bảo người

 Đều đã thành Phật đạo.

 Nhẫn đến đồng tử giỡn

 Hoặc cỏ cây và bút

 Hoặc lấy móng tay mình

 Mà vẽ làm tượng Phật

 Những hạng người như thế

 Lần lần chứa công-đức

 Đầy đủ tâm đại bi

 Đều đã thành Phật đạo

 Chỉ dạy các Bồ-Tát

 Độ thoát vô lượng chúng.
 32. Nếu người nơi tháp miếu

 Tượng báu và tượng vẽ

 Dùng hoa, hương, phan, lọng

 Lồng kính mà cúng dường

 Hoặc khiến người trổi nhạc

 Đánh trống, thổi sừng ốc

 Tiêu địch, cầm, không-hầu

 Tỳ-bà, chụp-chả đồng

 Các tiếng hay như thế

 Đem dùng cúng dường hết

 Hoặc người lòng vui mừng

 Ca ngâm khen đức Phật

 Nhẫn đến một tiếng nhỏ

 Đều đã thành Phật đạo
 33. Nếu người lòng tán loạn

 Nhẫn đến dùng một hoa

 Cúng dường nơi tượng vẽ

 Lần thấy các đức Phật

 Hoặc có người lễ lạy

 Hoặc lại chỉ chắp tay

 Nhẫn đến giơ một tay

 Hoặc lại hơi cúi đầu

 Dùng đây cúng dường tượng

 Lần thấy vô lượng Phật

 Tự thành đạo vô thượng

 Rộng độ chúng vô số

 Vào Vô dư Niết-bàn

 Như củi hết lửa tắt.

 Nếu người tâm tán loạn

 Bước vào trong tháp chùa

 Chỉ niệm Nam-mô Phật

 Đều đã thành Phật đạo

 Nơi các Phật quá khứ

 Tại thế, hoặc diệt độ,

 Có người nghe pháp này

 Đều đã thành Phật đạo
 34. Các Thế-Tôn vị lai

 Số nhiều không thể lường

 Các đức Như-Lai đó

 Cùng phương tiện nói pháp.

 Tất cả các Như-Lai

 Dùng vô lượng phương tiện

 Độ thoát các chúng sanh

 Vào trí vô lậu Phật,

 Nếu có người nghe pháp

 Không ai chẳng thành Phật.

 Các Phật vốn thệ nguyện

 Ta tu hành Phật đạo

 Khắp muốn cho chúng sanh

 Cũng đồng được đạo này.

 Các Phật đời vị lai

 Dầu nói trăm nghìn ức

 Vô số các pháp môn

 Kỳ thực vì nhất thừa.

 Các Phật Lưỡng-Túc-tôn

 Biết pháp thường không tánh

 Giống Phật theo duyên sanh

 Cho nên nói nhứt thừa.

 Pháp đó trụ ngôi pháp

 Tướng thế gian thường còn

 Nơi đạo tràng biết rồi

 Đức Phật phương tiện nói.

 Hiện tại mười phương Phật

 Của trời người cúng dường

 Số nhiều như hằng sa

 Hiện ra nơi thế gian

 Vì an ổn chúng sanh

 Cũng nói pháp như thế.

 Biết vắng bặt thứ nhứt

 Bởi dùng sức phương tiện

 Dầu bày các món đạo

 Kỳ thực vì Phật thừa

 Biết các hạnh chúng sanh

 Thâm tâm nó nghĩ nhớ

 Nghiệp quen từ quá khứ

 Tánh dục, sức tinh tấn

 Và các căn lợi độn

 Dùng các món nhân duyên

 Thí dụ cùng lời lẽ

 Tùy cơ phương tiện nói.
 35. Ta nay cũng như vậy

 Vì an ổn chúng sanh

 Dùng các món pháp môn

 Rao bày nơi Phật đạo

 Ta dùng sức trí huệ

 Rõ tính dục chúng sanh

 Phương tiện nói các pháp

 Đều khiến được vui mừng.

 Xá-Lợi-Phất nên biết!

 Ta dùng mắt Phật xem

 Thấy sáu đường chúng sanh

 Nghèo cùng không phước huệ

 Vào đường hiểm sanh tử

 Khổ nối luôn không dứt

 Sâu tham nơi ngũ dục

 Như trâu "mao" mến đuôi

 Do tham ái tự che

 Đui mù không thấy biết

 Chẳng cầu Phật thế lớn

 Cùng pháp dứt sự khổ

 Sâu vào các tà kiến

 Lấy khổ muốn bỏ khổ

 Phật vì chúng sanh này

 Mà sanh lòng đại bi
 36. Xưa, tu ngồi đạo tràng

 Xem cây cùng kinh hành

 Suy nghĩ việc như vầy:

 Trí huệ của ta được

 Vi diệu rất thứ nhứt

 Chúng sanh các căn chậm

 Tham vui si làm mù

 Các hạng người như thế

 Làm sao mà độ được?

 Bấy giờ các Phạm-vương

 Cùng các trời Đế-Thích

 Bốn Thiên-vương hộ đời

 Và trời Đại-Tự-Tại

 Cùng các thiên chúng khác

 Trăm nghìn ức quyến thuộc

 Chắp tay cung kính lễ

 Thỉnh ta chuyển pháp-luân.

 Ta liền tự suy nghĩ

 Nếu chỉ khen Phật thừa

 Chúng sanh chìm nơi khổ

 Không thể tin pháp đó

 Do phá pháp không tin

 Rớt trong ba đường dữ

 Ta thà không nói pháp

 Mau vào cõi Niết-bàn

 Liền nhớ Phật quá khứ

 Thực hành sức phương tiện

 Ta nay chứng được đạo

 Cũng nên nói ba thừa.
 37. Lúc ta nghĩ thế đó

 Mười phương Phật đều hiện

 Tiếng Phạm an-ủi ta

 Hay thay! đức Thích-Ca

 Bậc Đạo-Sư thứ nhứt

 Được pháp vô thượng ấy

 Tùy theo tất cả Phật

 Mà dùng sức phương tiện

 Chúng ta cũng đều được

 Pháp tối diệu thứ nhứt

 Vì các loại chúng sanh

 Phân biệt nói ba thừa.

 Trí kém ưa pháp nhỏ

 Chẳng tự tin thành Phật

 Cho nên dùng phương tiện

 Phân biệt nói các quả

 Dầu lại nói ba thừa

 Chỉ vì dạy Bồ-Tát.
 38. Xá-Lợi-Phất nên biết!

 Ta nghe các đức Phật

 Tiếng nhiệm mầu rất sạch

 Xưng: Nam-mô chư Phật!

 Ta lại nghĩ thế này

 Ta ra đời trược ác

 Như các Phật đã nói

 Ta cũng thuận làm theo

 Suy nghĩ việc đó rồi

 Liền đến thành Ba-Nại.

 Các pháp tướng tịch diệt

 Không thể dùng lời bày

 Bèn dùng sức phương tiện

 Vì năm Tỳ-kheo nói.

 Đó gọi chuyển pháp luân

 Bèn có tiếng Niết-bàn

 Cùng với A-la-hán

 Tên pháp, tăng sai khác.

 Từ kiếp xa nhẫn lại

 Khen bày Pháp Niết-bàn

 Dứt hẳn khổ sống chết

 Ta thường nói như thế
 39. Xá-Lợi-Phất phải biết

 Ta thấy các Phật tử

 Chí quyết cầu Phật đạo

 Vô lượng nghìn muôn ức

 Đều dùng lòng cung kính

 Đồng đi đến chỗ Phật

 Từng đã theo các Phật

 Nghe nói pháp phương tiện

 Ta liền nghĩ thế này

 Sở dĩ Phật ra đời

 Để vì nói Phật huệ

 Nay chính đã đúng giờ.
 40. Xá-Lợi-Phất phải biết!

 Người căn chậm trí nhỏ

 Kẻ chấp tướng kiêu mạn

 Chẳng thể tin pháp này

 Nay ta vui vô-úy

 Ở trong hàng Bồ-Tát

 Chính bỏ ngay phương tiện

 Chỉ nói đạo vô thượng.

 Bồ-Tát nghe pháp đó

 Đều đã trừ lưới nghi

 Nghìn hai trăm La-hán

 Cũng đều sẽ thành Phật

 Như nghi thức nói pháp

 Của các Phật ba đời

 Ta nay cũng như vậy

 Nói pháp không phân biệt

 Các đức Phật ra đời

 Lâu xa khó gặp gỡ

 Chính sử hiện ra đời

 Nói pháp này khó hơn

 Vô lượng vô số kiếp

 Nghe pháp này cũng khó,

 Hay nghe được pháp này

 Người đó cũng lại khó

 Thí như hoa linh-thoại

 Tất cả đều ưa mến

 Ít có trong trời, người

 Lâu lâu một lần trổ.
 41. Người nghe pháp mừng khen

 Nhẫn đến nói một lời

 Thời là đã cúng dường

 Tất cả Phật ba đời

 Người đó rất ít có

 Hơn cả hoa Ưu-đàm.

 Các ông chớ có nghi

 Ta là vua các pháp

 Khắp bảo các đại chúng

 Chỉ dùng đạo nhứt thừa

 Dạy bảo các Bồ-Tát

 Không Thanh-văn đệ tử
 42. Xá-Lợi-Phất các ông!

Thanh-văn và Bồ-Tát

Phải biết pháp mầu này

Bí yếu của các Phật

Bởi đời ác năm trược

Chỉ tham ưa các dục

Những chúng sanh như thế

Trọn không cầu Phật đạo

Người ác đời sẽ tới

Nghe Phật nói nhứt thừa

Mê lầm không tin nhận

Phá pháp đọa đường dữ

Người tàm quí trong sạch

Quyết chí cầu Phật đạo

Nên vì bọn người ấy

Rộng khen đạo nhất thừa.

Xá-Lợi-Phất nên biết

Pháp các Phật như thế

Dùng muôn ức phương tiện

Tùy thời nghi nói pháp

Người chẳng học tập tu

Không hiểu được pháp này

Các ông đã biết rõ

Phật là thầy trong đời

Việc phương-tiện tùy nghi

Không còn lại nghi lầm

Lòng sinh rất vui mừng

Tự biết sẽ thành Phật.
 
KINH DIỆU- PHÁP LIÊN- HOA
Quyển Thứ Nhất

Một sáng chiếu phương đông, thể diệu toàn bày, chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được, thầm hiểu ở trong lòng, phương tiện truyền bày một đạo nhả hương trời.

NAM-MÔ PHÁP-HOA HỘI-THƯỢNG PHẬT BỔ-TÁT (3 lần)

Thế-Tôn hiện điềm tốt, Di-Lặc nghi tướng lành, Văn-Thù vì chúng rộng phô bày: Phật xưa phóng hào-quang. Ba phen mời đấng Pháp Vương vì nói hương Diệu-Liên.

NAM-MÔ QUÁ-KHỨ NHẬT-NGUYỆT ĐĂNG-MINH PHẬT (3 lần)

THÍCH NGHĨA
(1) KINH: Pháp thường, mười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là "Khế Kinh" nghĩa là "pháp thường khế hiệp chân lý cùng khế hiệp căn cơ chúng sanh". DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả pháp. Kinh pháp nầy là bật nhất trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc biệt:
Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.

 1. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.
 2. Cọng hoa từ gốc tách riêng nhưng không chung cành với lá.
 3. Ong và bướm không bu đậu.
 4. Không bị người dùng làm trang điểm (xưa đàn bà Ấn-Độ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo đội v.v...)

(2) Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.

(3) Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công đức lành.

(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi.

(5) BA CÕI: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.
(6) Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải thoát còn phải học tập nên gọi "HỮU-HỌC".Quả A-la-hán đã được giải thoát, về trong Tiểu-thừa-pháp, thì không còn phải học nữa nên gọi "VÔ-HỌC".
(7) Quả chứng của Phật.

(8) TỒNG TRÌ: Gồm nhiếp các Pháp.

(9) Tài biện luận ưa giảng nói pháp.

(10) Chỗ rốt ráo, trọn vẹn, nên xong hoàn toàn.

(11) Tên của vị vua 33 nước trời Đao-Lợi ở trên đỉnh núi Tu-Di.

(12) Ba thứ tiếng vang dội và 3 thứ rung động của hình sắc.

(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Đao-Lợi.

(14) Thần phi-thiên: có phước như trời mà đức kém hơn trời.

(15) Chim cánh vàng (kim-sí-điểu)

(17) Thần rắn.

(18) 1) Trời; 2) Người; 3) A-tu-la; 4) Thú; 5) Quỉ; 6) Địa ngục.

(19) Phật là vua pháp (Pháp-vương). Bồ-Tát cũng như con của Phật nên là: Pháp-vương-tử.
(20) Người thọ tam quy ngũ-giới tu tại-gia gần gũi hộ thờ Tam-Bảo nên gọi cận-sự, đàn ông là Nam, đàn bà là nữ, ta quen gọi là "cư-sĩ".
(21) Vô số (một số lớn). Kiếp có: Tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp.Một tiểu-kiếp có 16.798.000 năm.Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp.Một đại-kiếp có 4 trung-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không.
(22) 1) Khổ-đế; 2) Tập-đế; 3) Diệt-đế; 4) Đạo-đế.
(23) 1) Vô-minh- 2) Hành- 3) Thức- 4) Danh sắc- 5) Lục nhập- 6) Xúc- 7) Thọ- 8) Aùi- 9) Thủ- 10) Hữu- 11) Sanh- 12) Lão-tử. Mười hai món này làm nhân duyên lẫn nhau.

(24) Cũng gọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-giới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4) Tinh-tấn-độ, 5) Thiền-định-độ, 6) Trí-huệ- độ.
(25) Trí của Phật.
(26) 1) Đông-thắng-thần-châu. 2) Nam-thiệm-bộ-châu (quả địa-cầu), 3) Tây-ngưu-hóa-châu, 4) Bắc-câu-lô-châu.
 
(27) Thọ-ký:Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v.v...

(28) Sông Hằng một con sông lớn xứ Ấn-Độ, trong sông và hai bờ có cát rất mịn, trong kinh thường dùng số cát ấy để chỉ một số đông nhiều.
(29) Ông thầy dắt dẫn.
(30) Thanh-văn thừa, Duyên-giác thừa, Phật-thừa.

(31) Phương chước hay phương pháp tiện lợi dễ dàng.
 
 
Sự tích tả

KINH PHÁP HOA

ÔNG NGHIÊM CUNG

Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Đại-Kiến năm đầu, ở xứ Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinh Pháp-Hoa để phân phát cho người trì tụng.

Lúc đó có thần ở miếu Cung-Đình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh.

Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: "Giúp ông mua giấy". Nói xong biến mất.

Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Đô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.

Đến cuối đời Đường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi.

Vậy thì tả kinh, hay in kinh công đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà ngay mọi người ở gần cũng được nhờ, cả Thần Thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm-Cung đây vậy.

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33059)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6485)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11193)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30337)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30396)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7936)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12134)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12205)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11552)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12740)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34670)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9807)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52214)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10708)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10475)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10671)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10412)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13028)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16192)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21762)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9572)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7070)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10345)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12681)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12740)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16185)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16476)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13808)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16515)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12062)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13751)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14274)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9161)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11714)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11227)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16258)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14309)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16166)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12668)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12035)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11753)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15626)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11468)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13994)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11982)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12593)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14944)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11934)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13099)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14485)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20641)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13173)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10901)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20643)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14291)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20276)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17576)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13958)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31815)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11957)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant