Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Phẩm Thứ Tư: Tín giải

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10698)
4. Phẩm Thứ Tư: Tín giải

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Tư: Tín giải

Chúng ta đi sang Phẩm thứ tư, Phẩm Tín Giải. Phẩm này đưa ra một ví dụ về đứa con nghèo túng cùng cực. Thật ra ví dụ này không phải do Bụt nói, mà do một số các thầy đã đạt được giác ngộ nhờ những điều mà Bụt vừa chỉ dạy, nên họ đã có thể nói ra ví dụ này. Các thầy đó là thầy Tu Bồ Đề (Subhũti), thầy Đại Ca Chiên Diên (Maha KatyẠyana), thầy Đại Ca Diếp), (Maha KẠỐyapa), và thầy Đại Mục Kiền Liên (Maha MaudgalyẠyanẠ). Các thầy này sau khi nghe Bụt giảng thuyết, giật mình tỉnh thức và quỳ xuống bạch với Bụt rằng: Chúng con thuộc về hàng Thượng tọa trong giới Thanh văn, tuổi chúng con đã lớn, chúng con nghĩ rằng mình đã được Niết Bàn tuyệt đối và không còn trách vụ gì nữa, và cũng không có ý định trở nên một vị toàn giác như Bụt. Nhưng bây giờ chúng con biết rằng điều đó không đúng. Chúng con được nghe Bụt khai thị rồi, nên mới cảm thấy mình có cái tiềm lực rất lớn ở trong tim, và chúng con đã từ bỏ cái mặc cảm nghèo hèn của một người tự túc, tự mãn, và chúng con mang trong lòng cái năng lượng vô lượng vô biên của một vị Bồ Tát. Nhờ Bụt giúp chúng con mở mắt ra, nên chúng con mới có được cái năng lượng vô lượng vô biên đó, chúng con xin đền ơn Bụt bằng cách nói ra cho đại chúng hôm nay một thí dụ. Và các vị đó đã nói ra cái thí dụ gọi là Cùng tử.
Cùng tử là đứa con nghèo khó cùng cực. Người con đó, từ hồi bé thơ, đã bỏ nhà trốn qua một nước khác, trên hai, ba mươi năm nay. Lớn lên, người đó rất là nghèo khổ, đi tha phương cầu thực để nuôi thân, rồi tình cờ một hôm về tới quê hương của mình mà không biết. Người đó không biết gốc tích của mình từ đâu, không biết gia thế của mình ngày xưa ra sao.

Trong khi đó người cha lại là một người rất giàu, ba mươi năm nay đã cố ý tìm con và trong lòng luôn luôn thương tiếc đứa con đã bỏ đi từ hồi thơ ấu. Ông ta giàu quá mức mà không có người nối giỏi. Tuy nhớ thương con bao nhiêu năm, nhưng chưa bao giờ có cơ hội bộc bạch với bạn bè, vì vậy mà niềm nhớ thương càng lớn. Ông cứ nghĩ rằng một mai kia khi mình chết thì cái tài sản khổng lồ này sẽ đi vào trong kho tàng của nhà nước, vì vậy cho nên ông thương tiếc và nhớ nghĩ đến đứa con không thôi.

Hôm ấy, anh chàng cùng tử tình cờ đi tới nhà giàu ấy để xin làm thuê làm mướn. Đứng ngoài cửa nhìn vào, thấy một ông ngồi trên một chiếc giường sư tử, có một cái ghế rất quí đỡ dưới hai chân, và có những hàng Bà la môn, Sát đế lợi và các hàng giàu sang, trưởng giả cung kính bao quanh. Ông ta giàu quá mức nên các chính trị gia và các hàng Vương tử cũng đều phải tới để cầu thân cận. Phía trên có che màn báu, phía dưới có những tràng phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới trên đất, và tất cả các thứ bông hoa đẹp nhất trong vùng đều được đem tới để chưng bày. Chàng cùng tử thấy ông ta sang trọng như một vị vua, nên tự hỏi: tại sao mình đến đây? nguy hiểm quá, họ có thể bắt mình đem bỏ vào tù, thân phận như mình không được bén mảng tới những chỗ sang trọng như thế này. Nghĩ vậy xong chàng liền bỏ chạy. Nhưng lúc chàng vừa ló mặt qua cửa rào, thì vị trưởng giả đã liền nhận được ra con mình. Quá xúc động, ông sai một gia nhân chạy theo bắt lại đứa con. Vì xúc động, mất bình tĩnh nên ông đã ra một cái lệnh không được thông minh cho lắm, và người gia nhân chạy đuổi theo chàng cùng tử kia đã làm chàng ta sợ quá. Chàng bèn nói: Thưa ông tôi đâu có làm nên tội tình gì, tôi đâu có xúc phạm đến ai đâu mà tại sao lại bắt tôi? Người gia nhân vẫn bắt chàng, trói lại rồi đem về. Anh chàng cùng tử nghĩ rằng, thôi chết rồi, bị bắt như thế này, thế nào mình cũng bị giết chết. Sợ quá chàng bị bất tỉnh, ngã xuống. Lúc đó người cha mới thấy cái lầm lỗi của mình, thấy mình đã dùng những phương tiện quá mạnh. Chúng ta hay thương theo cách đó, khi thương mình làm cho người kia ngộp luôn, không thở nổi! Thương thì phải có phương tiện truyền cảm. Đôi khi thương, mình nên giả bộ nói tôi không thương!

Khi thấy gia nhân đem về một anh chàng bị bất tỉnh như vậy thì vị trưởng giả rất hối hận. Ông bảo: Làm vậy không được, hãy lấy nước lạnh phun vào mặt cho nó tỉnh lại. Khi chàng cùng tử tỉnh lại, vị trưởng giả liền nói: Ta không làm gì ngươi đâu, ta bắt lầm ngươi vì tưởng ngươi có tội, kỳ thực thì ngươi không có tội lỗi gì cả, ngươi là người lương thiện và có tự do, bây giờ ngươi muốn đi đâu thì đi. Theo lệnh của vị trưởng giả, gia nhân trao trả tự do cho chàng cùng tử. Đó là ý nghĩa chân thực của sự thương yêu. Khi thương thật sự, mình phải trả tự do cho người mình thương. Còn nếu bắt trói người đó lại, dù bằng những sợi dây tình cảm tơ tóc của mình, thì chưa phải là thương.

Khi chàng cùng tử tỉnh dậy và được nghe câu nói ngươi được tự do thì mừng quá. Trong đời của chàng, chưa bao giờ chàng sung sướng như vậy. Chàng có được gì đâu? nhưng chàng sung sướng vô cùng vì chàng có cái quí nhất ở trên đời, chàng có tự do! Lúc đó vị trưởng giả mới dùng phương tiện quyền xảo, bảo gia nhân đi theo, ăn mặc rách rưới xấu xa, rất nghèo khổ, đến làm bạn với chàng đó, rủ đi tìm công ăn việc làm, rồi từ từ trả tiền công cho người đó thêm nhiều hơn trước. Tuy vậy vị trưởng giả ra lệnh rằng phải thuê chàng ta làm những nghề hèn mọn nhất, như là đi hốt phân, gánh nước, những việc mà người có chút máu mặt không bao giờ làm. Tại vì người cùng tử này có đầy mặc cảm, chàng nghĩ mình không ra gì trong xã hội, nên mình chỉ muốn những pháp nhỏ thôi, tức là pháp gánh phân, đổ rác, đổ thùng. Cố nhiên khi được những công việc như vậy, chàng thấy thích hợp với khả năng của mình, và chàng rất lấy làm sung sướng khi được làm những công việc đó, nhất là khi mình làm việc ấy mà lại được trả công gấp hai ba lần những việc khác. Hạnh phúc tràn trề và chàng nghĩ rằng mình chỉ cần từng đó hạnh phúc thôi, mình không cần hạnh phúc nhiều hơn.

Vài tháng sau, chàng cùng tử được dụ về ở gần nhà vị trưởng giảKế hoạch của ông là kế hoạch lâu dài. Biết con ở cách mình không quá ba trăm thước, nhưng lòng nhớ thương vẫn tràn đầy, vì vậy ông bèn giả dạng, tháo hết vàng bạc châu báu đeo trên người, ăn mặc tầm thường, mon men sang làm quen với chàng cùng tử để được nhìn mặt đứa con của mình. Ông chủ tuy làm ra vẻ tầm thường, không sang cả, nhưng vẫn có phong độ, uy thế của một ông chủ. Khi đến với chàng cùng tử, ông rất ngọt ngào, săn đón, hỏi han: "Anh từ đâu tới, làm ở đây được bao lâu rồi, ăn uống có đầy đủ không, có được trả lương hậu hỉ không?" v.v... Tất cả những thương yêu đều được gói ghém trong những câu han hỏi như vậy. Nghĩ cho kỹ thì cũng tội nghiệp, tội nghiệp cho Bụt. Ông nói thêm: "Tuy anh không phải là con tôi nhưng đối với tất cả những người làm, tôi đều xem họ như con tôi cả, thành ra anh đừng sợ gì hết". Vị trưởng giả dùng những phương tiện như vậy để làm cho sự sợ hãi, và những mặc cảm của đứa con từ từ bớt đi.

Với phương pháp đó, ông làm thân với người con. Có lần ông bảo rằng, tuy là chủ nhưng ta đã già yếu, còn ngươi thì còn trẻ, còn mạnh, ngươi lại có một tấm lòng rất trung thực, rất tốt, trong khi làm việc ngươi không đến trễ, về sớm, không ăn nói hỗn hào, nên ta rất thương ngươi, thôi để ta sẽ coi ngươi như con nuôi của ta. Từ từ ông làm nẩy sinh cái tình cảm đối với ông ở trong lòng của đứa con. Không dám nhận là con ruột, vì nếu ông nhận chàng cùng tử là con ruột thì chàng đâu dám tin.
Ta thấy rất rõ ở đây sự so sánh với câu chuyện chánh pháp, ban đầu nói rằng học trò ta có thể không được thành Bụt như ta, chỉ có thể thành Thanh văn, chỉ có thể chứng được Niết Bàn của Tiểu Thừa mà thôi. Đó là vì các người này mang quá nhiều mặc cảm, nên chỉ có thể cho họ một chiếc xe dê, mà không thể cho họ được một chiếc xe trâu bạch, và xe này chỉ có mình ta mới được ngồi. Ở đây cũng vậy, vị trưởng giả bảo rằng tuy được ta thương, nhưng ngươi chỉ được làm con nuôi của ta thôi. Và ông từ từ dẫn dụ nó đi tới. Chàng cùng tử sung sướng hết mức, coi mình là người có phước nhất ở trên đời. Biết mình đang có công ăn việc làm, chàng thấy rõ trong mấy mươi năm nay chưa bao giờ có người đối đãi với mình tử tế như vậy. Giờ đây mình được niềm tin của chủ, được chủ cho phép, mình có thể đi ra đi vào trong nhà mà không sợ sệt nữa. Lúc đó chàng cùng tử đã được giao phó cho một số công tác rất quan trọng, nhưng chàng vẫn có mặc cảm rằng mình là người ngoài. Tuy được lòng tin của chủ, nhưng mình vẫn là một đứa con nuôi, một đứa gia nhân được chủ tin cẩn. Từ từ chàng cùng tử được đóng vai quản gia, nghĩa là chàng có thể làm những quyết định quan trọng, thu xuất những món tiền lớn. Tuy vậy chàng vẫn mang tâm trạng gia nhân, một người con nuôi được thương, trong khi làm những công việc đó.

Một thời gian sau, vị trưởng giả lâm bệnh nặng. Biết mình sắp lìa đời, ông thấy rằng đã đến lúc mình có thể nói thật với con. Đâu có phải lúc nào mình cũng có thể nói sự thật được, mình phải biết nói cho đúng lúc, nếu không sự thật có thể làm đứng tim người khác! Vì vậy mà vị trưởng giả phải đợi đến lúc này mới nói được sự thật với con. Ông cho triệu tập một buổi họp lớn, trong đó ông mời luôn cả quốc vương, các đại thần, các vị võ quan trong dòng sát đế lợi, hàng cư sĩ và tất cả quyến tộc của ông. Như vậy ông trưởng giả này đúng là một người có quyền thế rất lớn. Chế độ tư bảnẤn độ thời đó đã phát triển rất mạnh, và cái địa bàn trong đó kinh Pháp Hoa xuất hiện là xứ Ấn độ vào thượng bán thế kỷ thứ nhất. Tại đó có một vị vua cai trị, nhưng trong vương quốc của ông, cái chế độ tiền tệ đã đi đến tình trạng khi giàu quá thì mình có thể nắm được luôn cả nhà Vua trong tay. Giống hệt nước Mỹ bây giờ vậy, mình không cần làm tổng thống, nhưng nếu mình là giám đốc của một công ty quốc tế lớn, thì tổng thống cũng phải riu ríu nghe theo mình. Vì chi tiết này mà người nghiên cứu kinh điển đã kết luận rằng kinh Pháp Hoa xuất hiện sau thượng bán thế kỷ thứ nhất. Thực ra thì nó đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ hai, và theo tôi, kinh Pháp Hoa đã có thể xuất hiện sau kinh Duy Ma độ chừng 10 hay 20 năm, trễ nhất là 30 năm.

Khi tất cả mọi người đã có mặt đầy đủ, thì ông trưởng giả mới cho gọi chàng cùng tử ra và, trước mặt đông đủ mọi tân khách, ông nói: người này tuy gọi là quản gia trong nhà tôi, nhưng kỳ thực là con ruột của tôi. Ông bắt đầu nói tất cả sự thật ra. Vì cái thời điểm đã tới, trái cây đã chín muồi, cho nên sự thực có thể trình bày ra được mà không tạo ra những nứt rạn, đổ vỡ, và đứa con đã chấp nhận được sự thật đó, và đạt tới được một cái gọi là vị tằng hữu, nghĩa là chưa từng có. Trong đời chàng, không bao giờ chàng đã dám nghĩ mình là con đích tử của một vị trưởng giả, quyền thếtài sản lớn lao tới mức đó. Điều này tương đương với giây phút Bụt thuyết kinh Pháp Hoa, nói ra cho tất cả mọi người biết ai cũng đều có thể thành Bụt được cả. Và đó là tâm trạng của các vị Thanh văn khi nhận ra rằng mình là con đích tôn của Bụt, mình là những vị Bồ Tát, mình là những vị Bụt sẽ thành, và mình không nên mang mặc cảm của những người Thanh văn, những người Duyên giác nữa. Đó là đại ý của thí dụ cùng tử.

Cái thí dụ này, như tôi đã nói, không phải do Bụt trực tiếp nói ra, mà là do sự trình bày của các thầy Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Ca DiếpMục Kiền Liên mà thủ lãnh của bốn thầy nầy là thầy Ma-ha Ca Diếp. Sau khi trình bày cái thí dụ tuyệt vời đó ra rồi thì thầy Ca Diếp mới tóm tắt lại nghĩa lý của thí dụ này trong phần kệ tụng, từ trang 161 đến 175, đoạn 10 đến 16. Quý vị nhớ đọc phần kệ tụng cho thật kỹ, còn kỹ hơn cả phần trường hàng, tại vì phần kệ tụng đã có trước phần văn xuôi.

Trang 170, đoạn kệ thứ 15: Chỉ xong được việc này, lại không biết việc khác. Chúng con những người Thanh văn đệ tử của Bụt, khi thực hiện được tịch diệt bên trong lòng, tức là đã trừ được kiến-hoặc và tư-hoặc, tức là những phiền não đứng về phương diện nhận thức cũng như đứng về phương diện tình cảm, thì đã tự cho là đầy đủ, và tưởng làm như vậy là đã làm xong công việc của mình rồi, chúng con không biết cái sứ mạng của người Phật tử còn lớn lao hơn. Chúng con dầu có nghe, Pháp tịnh cõi nước Phật, cùng giáo hóa chúng sanh, đều không lòng ưa vui. Dầu chúng con có thoáng nghe Bụt nói về bồ đề tâm, về sự giáo hóa chúng sanh, về sự thành lập các cõi tịnh độ, nhưng chúng con không thấy náo nức, là tại vì chúng con không có cái chí nguyện lớn. Nhưng giờ đây chúng con đã được nghe, đã được thấy cái sứ mạng của mình, cho nên chúng con có một nguồn năng lượng vô biên trong tâm, và chúng con sẽ đi theo con đường mà Bụt muốn chúng con đi, tức là kế thừa sự nghiệp của Bụt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32578)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12032)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34443)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12521)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14854)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20531)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14229)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13852)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant