Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển một

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12180)
Quyển một

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐÀ RA NI

* Bắc Lương, Sa-môn Pháp Chúng ở quận Cao Xương dịch từ Phạn ra Hán
* Sa-môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn

Quyển một

Phần một

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong rừng cây Kỳ-đà cùng với 500 đại đệ tử đều câu hội đầy đủ.

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử từ thành Vương Xá đem theo đủ 92 ức chúng đại Bồ-tát. Tên quý vị ấy là: Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử, Từ Vương Pháp Vương Tử, Đại Mục Pháp Vương Tử, Phạm Âm Pháp Vương Tử, Diệu Sắc Pháp Vương Tử, Chiên-đàn Lâm Pháp Vương Tử, Sư Tử Hống Âm Pháp Vương Tử, Diệu Thinh Pháp Vương Tử, Diệu Sắc Hình Mạo Pháp Vương Tử, Chủng Chủng Trang Nghiêm Pháp Vương Tử, Thích Tràng Pháp Vương Tử, Đảnh Sanh Pháp Vương Tử, hết thảy 92 ức như vậy đến rừng Kỳ-đà thấy đức Phật Thế tôn, nhiễu quanh Phật ba vòng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, cùng nhau cung kính khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Đại vương Ba-tư-nặc đem 500 vương tử. Các vị ấy là: Càn-đề-la vương tử, Trưởng Sanh vương tử, Chơn Như Pháp vương tử, Pháp Hình vương tử… cả thảy 500 vương tử như vậy đều đến rừng Kỳ-đà, nhiễu Phật ba vòng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Ức-già-hằng-khư Ưu-bà-tắc trong thành Xá-vệ đem 600 Ưu-bà-tắc, tên các vị ấy là: Ức-già-đế Ưu-bà-tắc, Diệu Thinh Ưu-bà-tắc, Chư Tướng Trang Nghiêm Ưu-bà-tắc, Hảo Nghiêm Tâm Ưu-bà-tắc, Tu-đạt-đa Ưu-bà-tắc… hết thảy 600 Ưu-bà-tắc như vậy đều đến rừng Kỳ-đà, nhiễu Phật ba vòng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Lại có 500 đốc tín (lòng tin thuần thành) Ưu-bà-di, các vị ấy là: Tỳ-xá-khư Ưu-bà-di, Không Diệu Tướng Ưu-bà-di, Hoa Dị Kỹ Nữ Ưu-bà-di, Khiên-na-la Ưu-bà-di, Thuyền-thực-già Ưu-bà-di, Ma-ha-nam Ưu-bà-di… cả thảy 500 vị Ưu-bà-di như vậy đều đến rừng Kỳ-đà, nhiễu Phật ba vòng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Lại có Ức-già Trưởng giả tử cùng 500 Trưởng giả tử đều đầy đủ, các vị ấy tên là: Tu-đạt-đa Trưởng giả tử, Lư-như-đạt-đa Trưởng giả tử, Chiên-đàn Lâm Trưởng giả tử, Diệu Sắc Hình Mạo Trưởng giả tử… hết thảy 500 vị Trưởng giả tử như vậy đều đến rừng Kỳ-đà, nhiễu Phật ba vòng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Lúc bấy giờ, đức Văn-thù-sư-lợi liền từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay cung kính, mắt không tạm rời mà bạch đức Phật rằng: “Đức Thế tôn Như Lai trước sau đã nói các đà-ra-ni là môn cao tột trong tất cả thế gian, lại là cao tột trong Chánh pháp, lại là hơn hết trong chư Thiên. Chúng sanh ở đây lấy Pháp tối thắng này để vào các môn đà-ra-ni quán cảnh giới của Phật. Đức Thế tôn lấy từ bi lực vì vô lượng vô biên chúng sanh cho nên diễn bày giải nói danh tự đà-ra-ni.”

Phật dạy Văn-thù-sư-lợi: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, ông vì vô lượng khổ não chúng sanh nên thỉnh hỏi môn đà-ra-ni. Thiện nam tử, ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà lược nói danh tự của các đà-ra-ni. Thiện nam tử, có đà-ra-ni tên là Ma-ha-đản-trì, có đà-ra-ni tên Ma-ha-ly-bà-đế, có đà-ra-ni tên Bảo Tràng, có đà-ra-ni tên Bảo Diễm, có đà-ra-ni tên Bảo Cái, có đà-ra-ni tên Kim Cang Cái, có đà-ra-ni tên Kim Cang Diệu, có đà-ra-ni tên Chư Sắc Trang Nghiêm, có đà-ra-ni tên Kim Cang Sắc Thân, có đà-ra-ni tên Chủng Chủng Trang Nghiêm, có đà-ra-ni tên Bạt-hầu-già-la, có đà-ra-ni tên Tỳ-già-đà-la, có đà-ra-ni tên Thủy Quang, có đà-ra-ni tên Tam-muội, có đà-ra-ni tên Hoa Tụ, có đà-ra-ni tên Quyết Định, có đà-ra-ni tên Thường Trụ, có đà-ra-ni tên Chúng Hoa Hương, có đà-ra-ni tên Chủng Chủng Quang Minh. Thiện nam tử, những đà-ra-ni như thế đó 92 ức Hằng hà sa môn, mỗi mỗi đà-ra-ni lại có 92 ức Hằng hà sa môn, như vậy kẻ trí giả nên lần lượt thứ lớp thi thuyết ba phẩm (thượng, trung, và hạ căn), nói các đà-ra-ni này phải đúng thời mà nói.”

Văn-thù-sư-lợi đã đem 92 ức Bồ-tát trụ Vô sanh Pháp nhẫn, sáu trăm Ưu-bà-tắc trụ Bích-chi Phật tâm, năm trăm Ưu-bà-di viễn trần ly cấu được Pháp nhãn tịnh, năm trăm trưởng giả tử phát Tam-bồ-đề tâm. Vua Ba-tư-nặc đã đem hết thảy các vương tử, ở trước đức Như Lai, cầu xin xuất gia.

Phật dạy các vương tử: “Lành thay, lành thay! Nay ở trong Pháp của ta cầu xin xuất gia, nay chính là lúc đúng thời,”

Đức Phật dạy các vương tử: “Thiện lai Tỳ-khưu!” thì các vương tử râu tóc tự rớt, Pháp phục tự mặc, liền thành Sa-môn giới hạnh đầy đủ. Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân. Lúc ấy đức Thế tôn lặng thinh ấn khả, liền nhập chư đà-ra-ni môn phóng đại quang minh, chiếu nơi Đông phương vô lượng ức thiên na-do-tha tam thiên đại thiên thế giới. Từ phía sau Càn Đà Sơn phóng quang này rồi, có vô lượng ức thiên na-do-tha Dạ-xoa, Nam, Tây, Bắc phương và bốn phía, dưới đến Ca-đà-nan thế giới, trên đến tiếp thức 10 phương thế giới cũng lại như vậy. Mỗi mỗi đều có vô lượng ức thiên na-do-tha chúng Dạ-xoa, thấy hào quang ấy rồi, liền khi đó tìm ánh quang, qua đến thế giới Ta-bà, tới rừng Kỳ-đà, thấy đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai vào các môn đà-ra-ni, và thấy Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử nơi hai bên tả hữu đức Phật, muốn thỉnh Thế tôn chuyển Pháp luân.

Bấy giờ có vô lượng ức thiên na-do-tha Dạ-xoa chúng và Văn-thù-sư-lợi, các đại Bồ-tát cùng 500 đại đệ tử, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cư sĩ, cư sĩ tử, mỗi mỗi đều từ Phật nhập các môn đà-ra-ni. Lúc ấy trong chúng có một Tỳ-khưu gọi là Lôi Âm, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trong rừng nhập thiền tam-muội. Bấy giờ trong hư không có các chúng ma, lúc ấy trong chúng có một ma vương gọi là Đản-trà-la ở nơi hư không khởi lòng suy nghĩ rằng “vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nghe ngài nói Pháp được lợi lành lớn. Nay Tỳ-khưu này lại nhập thiền định tam-muội. Nếu ta không hoại diệt nhơn duyên thiện căn của Tỳ-khưu này, thì Tỳ-khưu này sẽ quyết định nơi đời Hiền kiếp thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, thành Nhứt thiết trí, được đại thiện lợi. Ta nay đem các quyến thuộc phá hoại thiện căn nhơn duyên của Tỳ-khưu này.”

Lúc ấy ma vương liền đem 92 ức quyến thuộc đến rừng Kỳ-đà ngăn che thiện căn nhơn duyên của Tỳ-khưu. Bấy giờ Lôi Âm Tỳ-khưu hết sức buồn rầu lo lắng, lớn tiếng kêu rằng:

- Nam mô thập phương tam thế vô lượng chư Phật
- Nam mô thập phương tam thế chư Pháp
- Nam mô thập phương thiểu phần Túc nhơn.

Xướng như vậy rồi, lúc ấy mười phương chư Phật đồng thinh xướng rằng: “Sẽ dùng pháp gì cứu Tỳ-khưu kia?” Bấy giờ Bảo Vương Phật giơ tay nói rằng: “Trong chúng Bồ-tát đây, có Bồ-tát nào có thể cứu khổ vị Tỳ-khưu chăng?”

Bấy giờ trong chúng có một Bồ-tát tên gọi Hoa Tụ, liền từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay hướng Phật mà bạch đức Phật rằng: “Sẽ lấy pháp gì răn bảo Đản-trà-la kia?” 

Bấy giờ Phật dạy Hoa Tụ đại Bồ-tát: “Ông không biết ư? Ta nay lấy bí pháp của chư Phật răn bảo Đản-trà-la kia.”

Bấy giờ Phật dạy Hoa Tụ đại Bồ-tát: “Ta sẽ lấy Ma-ha Đản-trì đà-ra-ni Chương cú hàng phục ma Ba-tuần này, tăng thêm căn lành cho Tỳ-khưu kia. Ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói bí pháp của chư Phật.”

Hoa Tụ bạch đức Phật rằng: “Cúi mong đức Thế tôn, chúng con mong muốn được nghe diệu Pháp như thế.”

Phật dạy: “Này Hoa Tụ, ta nay nói với ông chớ nên truyền diệu Pháp như thế, phải nên nhờ thần minh làm chứng. Gì gọi là thần minh? Thiện nam tử, phải có 12 điều mộng vương như sau, nếu thấy một điều mộng vương đó, mới có thể vì người khác mà nói.”

Bấy giờ đức Thế tôn liền nói đà-ra-ni chương cú:

Nam mô hốt hốt điệt tả Trệ đề dị cần Na dà di mi Sa ha Đá điệt tha Bồ kì lẫm bà Uất ba đa tì da Bồ kì lẫm bà Liệt phá la A nâu na Đá điệt tha A nâu na Đá điệt tha Phục đắc cứu truy Bồ kì lẫm bà Sa ha.

Khi nói Pháp này, có tám vạn bốn ngàn Bồ-tát trụ thiểu phần túc địa, có hai mươi sáu vạn Tỳ-khưu trụ Bích-chi Phật địa, lại có ba vạn bốn ngàn Tỳ-khưu đắc A-la-hán quả, có bảy vạn Ưu-bà-tắc phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, có năm trăm Ưu-bà-di xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh.

Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát liền tán khen Phật rằng:

Thế tôn sắc thân như núi vàng
Cũng như mặt trời chiếu thế gian
Hay dứt hết thảy các khổ não
Con nay cúi đầu Đại Pháp Vương

Thế tôn thân tướng như núi cả
Đại từ vô lượng hộ hết thảy
Chúng con thọ giáo thành chủng trí
Trừ bỏ xan tham, lìa các trước

Thế chúa Pháp Vương rất hi hữu
Như vậy diệu Pháp còn quá hơn
Khó thấy, khó nghe, cũng khó gặp
Nếu có thấy nghe thành Chánh giác

Thế tôn pháp lực hơn hơn hết
Quá hơn ba cõi, thấy chúng sanh
Nếu có chúng sanh chí tâm nghe
Không một người nào chẳng đắc đạo

Đã gọi kẻ sáng thành Chánh giác
Độ các chúng sanh không ngằn mé
Riêng đến đạo tràng làm Thiên sư
Vậy sau nói Pháp rốt ráo vui.

Khi Hoa Tụ Bồ-tát đã tán khen Phật rồi, thoạt nhiên ẩn thân, liền qua Tây phương Ta-bà thế giới, đến rừng Kỳ-đà thấy Lôi Âm Tỳ-khưu bị 92 ức thiên ma Ba-tuần che giấu. Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát nói với Đản-trà-la rằng: “Ngươi nay làm gì? Có phải muốn phá hoại thiện căn nhơn duyên của Tỳ-khưu này?”

Thế tôn oai lực rất vô lượng
Hay hoại tất cả các ngoại đạo
Hay phá tất cả các ác tặc
Hay lập tất cả các thiện pháp.

Lúc bấy giờ ma vương nghe lời ấy rồi, lòng càng kinh hãi, lông mình đứng dựng, tức thời báo rằng:

“Ta là thế vương
Tự tại nơi đời
Hay hoại tất cả
Các thiện trí tuệ.”

Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát bảo ma vương rằng:

“Trí huệ Thế tôn chiếu hư không
Hay tận tất cả các ác pháp
Ta sẽ phục ngươi như Tần-bà
Ngươi nếu không tin, nay sẽ biết.”

Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát nói với Lôi Âm rằng: “Ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông nói phục các ác thú. Ta sẽ phục ma Ba-tuần này, nhân đây ông sẽ được chứng biết phương tiện của chư Phật.”

Lúc ấy Hoa Tụ Bồ-tát liền nói chương cú đà-ra-ni:

Nam mô hốt hốt điệt tả Trệ đề dị cần Na dà da di Sa ha.

Khi nói Pháp này, có 600 ma vương, lễ chân Bồ-tát, chắp tay cung kính, bạch Bồ-tát rằng: “Có đà-ra-ni gọi là Tự Thệ, chúng tôi muốn lập đà-ra-ni như thế, cúi mong hứa cho!”

Hoa Tụ nói: “Tiểu trụ Đản-trà-la nói chưa đúng thời!”
Bấy giờ Hoa Tụ lại nói câu đà-ra-ni:

Đá điệt tha Bồ kì lẫm bà Uất ba đa tì da Bồ kì lẫm bà Liệt phá la A nâu na Đa điệt tha A nâu na Đa điệt tha Phục đắc cứu truy Bồ kì lẫm bà Sa ha.

Chính khi nói Pháp, có 600 vạn ma vương Ba-tuần đồng kêu trách: “Sao khổ thế này? Chịu khổ như vầy, phải làm thế nào để khỏi những khổ như thế?”

Bấy giờ Hoa Tụ liền bảo ma vương rằng: “Nếu muốn lìa các khổ như thế, các ngươi phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác.”

– Dạ vâng! Cúi mong đại sĩ, chúng con xin phát Tam-bồ-đề tâm!
Hoa Tụ nói: “Lành thay, lành thay!”
Khi ấy các ma vương liền nói đà-ra-ni rằng:

Nam mô ma ha phù đà kha Nam mô ma ha ly bà phù đà kha Nam mô Hoa Tụ đà-ra-ni Tỳ xá xà trất mục Uùc dà lâm Đàn tra lâm Cùng dà lâm Hằng dà cấm A lệ na lệ na la lệ Sa ha.

Bấy giờ Hoa Tụ khen ma vương rằng: “Lành thay, lành thay Phật tử! Có thể thọ trì Ma-ha Đản-trì đà-ra-ni Chương cú, sẽ được lợi ích lớn cho vô lượng ma chúng.”

Bấy giờ ma vương hớn hở vui mừng, liền cởi Kiếp-ba-dục y trên thân mà đem cúng dường, các y chất đầy như núi Tu-di mà đem cúng dường Hoa Tụ đại Bồ-tát. Đã cúng dường xong, ma vương lại bạch Hoa Tụ rằng: “Mười hai vị đại vương chúng tôi sẽ thọ trì Ma-ha Đản-trì đà-ra-ni Chương cú này, lại còn che chở, cúng dường người nào trì Kinh này. Những người như vậy, nếu gặp khổ ách, phải nên xưng 12 thần danh của chúng tôi.”

Hoa Tụ liền dạy ma vương rằng: “Tên của các vị ấy như thế nào?”

Ma vương thưa:

1. Vương tên Đản-trà-la
2. Vương tên Cân-đề-la
3. Vương tên Mậu-trì-la
4. Vương tên Càn-cơ-la
5. Vương tên Đa-lâm-la
6. Vương tên Ba-lâm-la
7. Vương tên Đàn-lâm-la
8. Vương tên Thuyền-đa-lâm-la
9. Vương tên Cùng-già-lâm-la
10. Vương tên Ca-lâm-la
11. Vương tên Cùng-già-lâm-la
12. Vương tên Bà-lâm-la.

Hết thảy các vương như vậy đều xướng lên rằng: “Bọn chúng tôi sẽ thọ trì đọc tụng Kinh đà-ra-ni để nhiếp cứu người tu hành, khiến cho họ bền chắc Tam-bồ-đề tâm và hoạch đắc thiện lợi.”

Bấy giờ Hoa Tụ tán khen ma vương rằng: “Lành thay, lành thay! Các ngươi ngày nay phát tâm đại dõng mãnh thọ trì, ủng hộ đà-ra-ni Kinh điển và đem ban cho người tu hành, không bao lâu các ngươi sẽ được thành Đẳng chánh giác.”

Lúc ấy các ma vương nhảy nhót vui mừng, được điều chưa từng có, liền từ tòa đứng dậy, lễ chân Bồ-tát, trước sau vây quanh, vui mừng tuân hành phụng giữ đà-ra-ni Kinh điển.

Bấy giờ Lôi Âm liền từ tòa đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Hoa Tụ rằng: “Lành thay! Chúng Pháp Tụ Sĩ đem Đại Phương Đẳng đà-ra-ni này đến để cứu tôi, khiến cho tôi ở trong Pháp sanh tâm được tăng thọ; thí như người chết, chết rồi sống lại, tôi nay cũng lại như thế. Ngài nay chính là chư Pháp mẫu trong pháp hùng mãnh, khiến thân tôi sống lại trong tâm pháp bền chắc.”

Hoa Tụ nói: “Tôi không phải là chư Pháp mẫu. Đà-ra-ni như thế mới đáng là mẫu, mới đáng là phụ. Ông sẽ thọ trì đà-ra-ni này.”

Bấy giờ Lôi Âm bạch Hoa Tụ rằng: “Lúc ấy, tôi hướng đến đức Thế tôn được vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây, vì chúng sanh mà nói Pháp.”

Bấy giờ Hoa Tụ hỏi Lôi Âm rằng: “Tên đức Thế tôn ấy là chi?”

Lôi Âm đáp rằng: “Tên Thích-ca Mâu-ni, từ bi che khắp vô lượng chúng sanh như Ngài không khác vậy, đại từ vô lượng cũng dụ như Ngài, cứu nhiếp tất cả ách khổ địa ngục, ban vui vô lượng. Hai chúng ta có thể cùng đến đó cúng dường Thế tôn, sẽ được lợi lành.”

Khi nói lời ấy thì trong hư không có 82 ức chư Thiên Đao-lợi tấu trỗi nhạc trời, thiêu hương, rải hoa cúng dường ngài Hoa Tụ. Bấy giờ trong chúng ở hư không, có một Thiên vương gọi là Ma-ha Dà-lại-xa bảo chư Thiên chúng: “Hai vị đại sĩ này muốn hưng khởi đại Pháp, chúng ta qua đó để chính tai nghe được Pháp cam lồ của chư Phật.”

Bấy giờ hai vị đại sĩ liền từ tòa đứng dậy, sửa sang y phục rồi cùng các chúng ma và các Thiên nhơn lội bộ mà đi. Khi ấy, chư Thiên liền theo hai người qua đến Kỳ-hoàn.

Lúc ấy đức Thế tôn xa nghe Thiên nhạc, từ thiền định dậy bảo A-nan rằng: “Ra bên ngoài xem tiếng gì đấy?”

Bấy giờ A-nan vâng lời đức Thế tôn dạy, liền ra ngoài nghe, thấy có hai người cùng vô lượng đại chúng trước sau vi nhiễu cũng như núi vàng qua đến Kỳ-hoàn. Bấy giờ ngài A-nan trở vào trong Kỳ-hoàn, quỳ dài chắp tay mà bạch đức Phật rằng: “Ngoài kia có hai người thân như núi vàng, mầu nhiệm không chi sánh kịp, dụ như mặt trời chói sáng, hay chiếu suốt hết thảy trong ngoài.”

Khi A-nan nói chưa dứt lời, Hoa Tụ Bồ-tát phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, chu biến tất cả, ai thấy hào quang nào đều được giải thoát. Bấy giờ Hoa Tụ thầm nghĩ “lấy gì chứng minh?” Suy nghĩ như vậy rồi, bấy giờ Bà-tẩu từ địa ngục ra, đem theo 92 ức tội nhơn tìm hào quang đến Ta-bà thế giới, mười phương thế giới mỗi mỗi cũng đều đem 92 ức tội nhơn, cũng lại như vậy, cũng tìm hào quang qua tới Ta-bà thế giới. Bấy giờ vô lượng vô biên đại chúng trước sau đoanh vây đến Kỳ-hoàn tinh xá, thấy đức Phật Thích-ca Mâu-ni và hai vị hiền sĩ này ở hai bên tả hữu của Phật.

Bấy giờ Xá-lợi-phất thấy trong tâm đại chúng có điều nghi, năm trăm đại đệ tử và chư đại chúng, lòng mỗi vị đều sanh nghi. Xá-lợi-phất biết tâm chúng nghi, tự mình cũng chưa rõ, liền từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, bạch đức Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, đại chúng như thế từ phương nào bỗng nhiên đến nơi rừng Kỳ-đà này? Thưa đức Thế tôn, Bồ-tát như thế xưa đã chưa từng thấy mà nay lại thấy, Trời người như thế xưa đã chưa từng thấy mà nay lại thấy, ma vương như thế xưa đã chưa từng thấy mà nay lại thấy, tội nhơn (người ở địa ngục) như thế xưa đã chưa từng thấy mà nay lại thấy. Bồ-tát, Trời người, ma vương, tội nhơn như thế nay từ phương nào thoạt nhiên đến đây?”

Bấy giờ đức Thế tôn lặng thinh không đáp. Lúc ấy Văn-thù-sư-lợi nói với Xá-lợi-phất rằng: “Này Thiện nam tử, đại chúng như thế, ta nay sẽ nói, ông hãy lắng nghe. Vị Bồ-tát ấy tên là Hoa Tụ, thấu rõ phương tiện, từ phương Đông đến chỗ Phật. Còn chư Thiên kia là từ cõi Trời Đao-lợi mà đến chỗ Phật. Các ma chúng kia là ma chúng của cõi này vậy. Với các tội nhơn, người thứ nhứt tên là Bà-tẩu. Ông nay nên biết, khi đức Thế tôn chưa ra đời, người ấy làm điều không lành nên phải đọa địa ngục trải nhiều thọ khổ. Ông không thấy sao? Hoa Tụ đại Bồ-tát này phóng đại bi quang, nhơn ánh quang ấy, Bà-tẩu từ A-tỳ đại địa ngục ra mà qua đến đây.”

Xá-lợi-phất thưa: “Bà-tẩu tiên nhơn này, được nghe Phật nói đã lâu rồi, vì làm điều không lành nên vào địa ngục. Tại sao nay nói Bà-tẩu tiên nhơn ra khỏi địa ngục, được gặp Như Lai đến Chơn đẳng Chánh giác, và các tội chúng từ các phương khác cùng với Bà-tẩu qua đến nơi đây? Phật nói một người làm điều không lành khiến nhiều người khác ra khỏi địa ngục, việc này khó tin, cái nghĩa đó như thế nào? Văn-thù-sư-lợi, mong ngài nói cho ít lời để giúp tôi được lìa các điều nghi lầm.”

Phật dạy Xá-lợi-phất: “Lành thay, lành thay! Khéo hỏi việc đó, hãy lắng nghe, hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói!”

Xá-lợi-phất thưa: “Cúi mong đức Thế tôn, con mong muốn nghe!” 

Phật bảo Xá-lợi-phất: “Thiện nam tử, chớ nên nói thế, đại chúng như vậy qua đến chỗ ta đều có nhơn duyên, tóm lại có ba việc: Thứ nhất, chúng ấy chẳng thể nghĩ bàn, Bồ-tát chúng muốn khiến ta nói Đại Phương Đẳng đà-ra-ni, cho nên khiến ta hiển bày phương tiện vị tằng hữu, vì vậy đến ngăn che Lôi Âm Tỳ-khưu này. Về nhơn duyên thiện căn của Lôi Âm Tỳ-khưu, ta nay sẽ nói, các ông lắng nghe!”

Xá-lợi-phất thưa: “Cúi mong đức Thế tôn, con mong muốn nghe!”

Thiện nam tử, thứ hai: chúng ấy gồm Hoa Tụ Bồ-tát và Trời Đao-lợi sở dĩ đến chỗ ta là vì muốn hiển bày oai thần lực của đà-ra-ni này, lại muốn hiển dương sức thần thông của mười phương chư Phật, vì nhơn duyên đó mà đến chỗ ta.

Thiện nam tử, thứ ba: chúng ấy vì muốn phá định thọ quả báo của hết thảy chúng sanh, các chúng như vậy, vì nhơn duyên đó, qua đến chỗ ta. Thiện nam tử, chớ nên nói Bà-tẩu tiên nhơn là người địa ngục vậy. Vì cớ sao thế? Ông nay lắng nghe, Thiện nam tử, Bà ấy gọi là Thiên, Tẩu ấy gọi là Huệ, cho nên gọi là Bà-tẩu. Như vậy, người Thiên Huệ thì tại sao lại rốt ráo chịu khổ địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là Quảng, Tẩu ấy gọi là Thông. Quảng thông tất cả các Pháp thì tại sao lại rốt ráo vào địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là cao, Tẩu ấy gọi là diệu, trong các phương tiện, người này cao diệu hơn hết thảy. Đã là người cao diệu thì tại sao lại rốt ráo chịu khổ địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là ly, Tẩu ấy gọi là đoạn, ly đoạn tất cả khổ não ấy thì tại sao lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là thiện, Tẩu ấy gọi là tri, như vậy thiện tri hết thảy Pháp thì làm thế nào lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là cương, Tẩu ấy gọi là nhu, người cương nhu thì tại sao lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là từ, Tẩu ấy gọi là bi, từ bi như thế ấy thì làm thế nào lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là lực, Tẩu ấy gọi là thiện, người lực thiện thì làm thế nào lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là thần, Tẩu ấy gọi là thông, người thần thông thì làm sao lại rốt ráo vào nơi địa ngục trải qua các thọ khổ? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là tướng, Tẩu ấy gọi là hảo, kẻ có tướng hảo thì làm sao lại rốt ráo vào nơi địa ngục? Điều đó không có lý.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là tổng, Tẩu ấy gọi là trì, tổng trì phương tiện thì làm sao lại vào nơi địa ngục rốt ráo chịu khổ? Xá-lợi-phất! Những việc này rất nhiều, ta nay chỉ lược nói, nói mười việc về nhơn duyên Bà-tẩu. Nếu phải nói rộng ra hai chữ danh hiệu ấy, thì nghĩa ấy rất nhiều, cùng năm suốt đời cũng không hết.

Thiện nam tử, chớ nói Bà-tẩu tiên nhơn ở tại địa ngục rốt ráo thọ khổ. Thiện nam tử, nếu nói lời ấy tức là hủy báng đà-ra-ni trên đây, và hủy báng kim cang sắc thân, cho đến hủy báng Bảo Vương Như Lai kai, và hủy báng Hoa Tụ đại Bồ-tát này, và còn hủy báng mười phương ba đời chư Phật. Người này quyết vào địa ngục không nghi. Tại vì sao? Hủy báng đà-ra-ni trên là hủy báng tất cả chư Phật, (người này) quyết vào địa ngục không còn nghi ngờ vậy. Thiện nam tử, chớ nói Bà-tẩu tiên nhơn ở tại địa ngục!”

Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất bạch đức Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, từng nghe Phật nói Bà-tẩu tiên nhơn vào nơi địa ngục trọn không ngày ra, sở dĩthế cho nên con mới dám phát lời hỏi. Đức Thế tôn, Bà-tẩu tiên nhơn vào địa ngục lúc nào mà nhờ Phật giải thoát?”

Thiện nam tử, ta xưa ở trên Đâu-suất Thiên, Bà-tẩu tiên nhơn này ở tại Diêm Phù Đề làm chủ lái buôn, đem 620 vạn thương nhân vào biển lượm của báu, nương hải thuyền đi ra biển, lần lần vào sâu để lấy trân bảo. Được các báu rồi, chở trên hải thuyền muốn về bổn quốc, giữa đường gặp nạn cá kình Ma-yết, nạn sóng nước, nạn gió bão, lại gặp nạn Dạ-xoa. Sáu trăm hai mươi vạn người như vậy thời mỗi người một họ, khấn hứa Ma-hê-thủ-la Thiên. Bấy giờ bọn họ liền lìa bốn nạn, trở về bổn quốc. Tới bổn quốc rồi, mỗi người dắt một con dê muốn đến Thiên miếu. Bấy giờ Bà-tẩu thầm nghĩ rằng “ta nay làm sao nói với những lái buôn, dạy họ đừng làm các việc ác. Ta nay sẽ bày phương tiện cứu mạng những con dê ấy”, nghĩ xong liền hóa ra hai người, một là cổ xuất gia Sa-môn, hai là tại gia Bà-la-môn. Khi ấy Bà-la-môn ở trong chúng xướng lời rằng: “Thiên chủ cùng 620 vạn người muốn đến Thiên miếu.”

Bấy giờ Sa-môn gặp Bà-la-môn ở giữa đường. Sa-môn hỏi rằng: “Ông cùng đại chúng muốn qua phương nào?”

Người tại gia nói: “Tôi muốn qua Thiên miếu mà cầu đại lợi.”

Sa-môn nói: “Tôi xem các ông muốn được đại suy chứ làm thế nào mà được đại lợi.”

Như vậy lần lượt tranh luận không thôi. Bấy giờ chúng nhơn hỏi Bà-la-môn rằng: “Đây là người nào mà hình mạo như thế?”

Bà-la-môn nói: “Đây là cổ thời Sa-môn.”
Những người kia hỏi: “Sa-môn nói gì?”
Bà-la-môn nói: “Sa-môn nói sát sanh tế Trời sẽ bị tội lớn.”

Mọi người nói với Bà-la-môn rằng: “Đó là si Sa-môn! Cần gì phải dụng lời nói, mau qua Thiên miếu sẽ được đại lợi.”

Bấy giờ Bà-la-môn nói: “Chúng tôi là đại sư, nay ở tại Thiên miếu, không việc gì mà không thấu đạt, có thể cùng chung thưa hỏi.”

Lúc bấy giờ mọi người đều nói “Hay thay!”

Sa-môn cùng Bà-la-môn và hết thảy mọi người, trước sau vi nhiễu, đến chỗ đại tiên. Bấy giờ Sa-môn hỏi đại tiên rằng: “Giết dê cúng Trời sẽ được sanh Thiên hay vào địa ngục?”

Đại tiên đáp rằng: “Si Sa-môn! Giết dê tế Trời mà đọa địa ngục ư?”

Sa-môn hỏi: “Không đọa ư?”

Bà-tẩu nói không, Sa-môn liền nói: “Nếu quả không đọa, ông phải chứng minh cho biết.”

Bấy giờ Bà-tẩu tức thời hãm thân, nhập A-tỳ địa ngục. Khi mọi người thấy việc như thế rồi liền kêu “Than ôi! Họa thay! Quả thật như vậy, đại tiên Thông Trí nay đã sa vào nơi địa ngục, huống hồ bọn chúng ta lại không khỏi đọa vào địa ngục ấy sao?”

Bấy giờ mọi người buông thả lũ dê rong chạy bốn phương, rồi vào trong núi truy tìm các tiên. Đã được tiên rồi, thọ tiên pháp trải qua 21 năm, mỗi mỗi đều mạng chung sanh Diêm Phù Đề. Thời ấy, ta từ Đâu-suất Thiên hạ sanh Diêm Phù Đề bạch tịnh vương gia. Bấy giờ 620 vạn người sanh nước Xá-vệ được thọ thân người. Ông không biết ta khi xưa mới đến nước Xá-vệ, đã hàng phục 620 vạn người khiến họ xuất gia, phát Tam-bồ-đề tâm, thì đâu phải ai khác, chính là những kẻ thương buôn xưa kia vậy. Thiện nam tử, Bà-tẩu tiên nhơn có sức oai thần như vậy, hóa độ các người như vậy qua đến chỗ ta, thì làm sao nói là người bị đọa vào địa ngục?

Lại nữa Thiện nam tử, Bà-tẩu tiên nhơn vào địa ngục rồi, trong mười phương đại địa ngục hóa độ những chúng sanh cực khổ, mong họ phát thiện tâm. Phát thiện tâm rồi, cầu ra khỏi địa ngục. Hoa Tụ Bồ-tát từ phương Đông qua đến Ta-bà thế giới này phóng đại quang minh, vậy các tội nhơn tìm ánh quang đến Ta-bà thế giới được gặp ta, gốc nhơn tâm lành ấy nên qua đến chỗ ta.”

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi khen Bà-tẩu tiên nhơn rằng: “Lành thay, lành thay, đại sĩđại phương tiện, hay hóa độ chúng sanh thọ khổ như vậy, mang họ đến chỗ tôi, không lâu sẽ xa lìa tất cả các hoạn.”

Khi ấy 500 đại đệ tử xa lìa nghi hoặc, hoan hỉ phụng hành.

Bấy giờ Lôi Âm liền từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, vòng tay chắp lại mà bạch đức Phật rằng:

– Kính thưa đức Thế tôn, con hướng đến nơi rừng mà tự suy nghĩ “Đức Thế tôn khi xưa tu hành khổ hạnh rất khó làm, nhập chư thiền định, tu đại bi tâm, được bi tâm rồi cứu các chúng sanh khiến lìa ba cõi mà được vui Niết-bàn. Con nay cũng nên vào chư thiền định, nên tu từ bi tứ vô lượng tâm, cũng nên xa lìa các giặc phiền não, cũng nên xa lìa hết thảy các nạn thế gian”. Nghĩ niệm vậy rồi, muốn vào môn đà-ra-ni. Chúng ma vương này đến ngăn trở sự tư duy của con như thế, khiến con không được chánh niệm, liền gào khóc kêu to, rồi không lâu sau, Bồ-tát Hoa Tụ thoạt nhiên đến chỗ con, con cũng không biết, Bồ-tát như thế qua đến chỗ con hàng ma oán rồi, bỗng nhiên con nhìn thấy bốn phương, thấy Bồ-tát Hoa Tụ đứng ở trước con, lại thấy mười phương chư Phật đều nương cưỡi liên hoa bảy báu ở trong hư không, thấy các ma vương vòng tay chắp lại, cung kính vi nhiễu Hoa Tụ Bồ-tát. Bấy giờ con cho đó là ma vương, rồi nghe trong hư không tiếng gọi con rằng “Ông nay tại sao không biết cung kính Đại sĩ như vậy?” Con nghe lời ấy rồi, liền từ tòa đứng dậy, đảnh lễ dưới chân, dùng đôi mắt nhìn trong hư khôngchư Thiên Vương dùng các danh hoa mà đem cúng dường. Khi ấy chư Thiên liền lấy các thứ danh hoa cầm đem cho con. Con được hoa rồi liền đem cúng dường Hoa Tụ Bồ-tát ma-ha-tát. Con liền bạch “Kỳ-hoàn có đức Phật tên là Thích-ca Mâu-ni. Hai chúng ta có thể cùng chung cúng dường để được đại lợi” Nghe lời này rồi (Hoa Tụ Bồ-tát) đáp rằng “Hay thay, hay thay!” và liền từ tòa đứng dậy cùng nhị chúng này qua đến chỗ Phật. Kính thưa đức Thế tôn, những việc này rất nhiều, con nay chỉ lược nói để đức Thế tôn được chứng biết. Cúi mong đức Thế tôn diễn bày đường lối giải thoát. Bồ-tát đã đến phương độ này có nhơn duyên gì để cứu con?”

Bấy giờ đức Phật dạy Lôi Âm: “Thiện nam tử, Bồ-tát ấy xưa kiathiện tri thức của ông, đã từng cúng dường mười phương Hằng hà sa chư Phật, ở nơi các đức Phật đã rõ thấu phương tiện, thâm nhập được các môn đà-ra-ni, hay quán sát thâm sâu cảnh giới của chư Phật, biết căn tánh lợi độn của chúng sanh. Thiện nam tử, ở phương Đông có đức Phật tên là Bảo Vương, thế giới tên là Chúng Hương, cách thế giới này 20 vạn ức cõi Phật. Bồ-tát này từ phương đó mà qua đến nơi đây, muốn khiến ta hiển bày đại phương tiện xa xưa vậy. Ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói. Này Thiện nam tử, thời quá khứ có Phật tên là Chiên-đàn Hoa Như Lai Vô sở trước Chí chơn Đẳng chánh giác. Đức Phật kia cách đời nay đã quá lâu xa không thể nghĩ bàn. Lúc đó ta cũng như ông không khác. Lại nữa Thiện nam tử, lúc ấy có một Bồ-tát tên là Thượng Thủ, làm một khất sĩ vào thành khất thực. Bấy giờ có một Tỳ-khưu tên là Hằng-già, gọi khất sĩ lại hỏi rằng: “Ông từ đâu đến?”

Đáp rằng: “Tôi từ trong chơn thật đến.”

Hằng-già hỏi: “Gì gọi là thật?”

Tịch diệt tướng cho nên gọi là chơn thật.
– Nói rằng là tịch diệt tướng, vậy trong đó có chỗ sở cầu hay không có chỗ sở cầu?
– Không có sở cầu.
– Nói rằng không có sở cầu, thì cần gì phải dụng cầu?
– Trong cái không có sở cầu cho nên ta mới cầu vậy.
– Nói rằng trong cái không sở cầu thì dụng cái cầu để làm gì?
– Có sở cầu ấy tất cả đều không, đắc ấy cũng không, trước ấy cũng không, thật ấy cũng không, đến ấy cũng không, gọi ấy cũng không, hỏi ấy cũng không, tịch diệt Niết-bàn cũng lại đều không, tất cả hư không phần giới cũng lại đều không. Ta như vậy lần lượtKhông Pháp mà cầu chơn thật.
– Đã thật thì dụng gì mà cầu? Ông nói vạn pháp cũng lại đều không thì dụng cầu làm gì?
– Lấy cái Không-Không ấy mà làm thật.
– Bồ-tát nay phải thế nào mà cầu thật pháp?
– Phải nơi sáu món Ba-la-mật trong ấy mà cầu.
– Gì là sáu?
– Là Đàn Ba-la-mật, Thi Ba-la-mật, Sằn-đề Ba-la-mật, Tỳ-lê-da Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật [1] .

Thượng thủ nói rồi, Hằng-già nhảy nhót vui mừng, rồi liền đầu mặt kính lễ dưới chân Thượng Thủ mà hỏi rằng: “Phải lấy món ăn gì để cúng dường ngài?”

Thượng Thủ đáp: “Phải lấy tu-đà vị mà cúng dường.”

Lúc bấy giờ Hằng-già liền đến đô thị mà xướng lên rằng: “Tôi muốn bán thân, ai có cần mua không?”

Lúc đó trong chúng có một cư sĩ tên Tỳ-nô-luật bước tới nói: “Tôi muốn mua. Ông cần những gì?”

Hằng-già bảo: “Cần tu-đà-la-la.”

– Cần bao nhiêu trái?
– Tôi cần năm trái.

Lúc đó cư sĩ liền đếm năm tiền, mua đạo nhơn này để sai sử. Bấy giờ Hằng-già bạch đại gia rằng: “Thân tôi đã thuộc về ông, nhưng từ đây trong bảy ngày, tôi muốn cúng dường Thượng Thủ Tỳ-khưu.”

Bấy giờ cư sĩ bảo Hằng-già rằng: “Tôi đem ông về đến chợ nhà rồi sẽ thả ông về.”

Lúc ấy Hằng-già thấy nhà cửa rồi bèn đi bộ trở về, trông thấy Thượng Thủ khất thực chưa được, liền đưa Thượng Thủ đến đô thị mua sắm trăm vị đồ ăn thức uống. Sắm sửa các thứ xong, mang đến chùa tên Tứ Vương thiết lễ cúng thí, bày biện các thứ, giường nệm tòa ngồi, các loại hương thơm hoa quý cúng dường Thượng Thủ, lại còn bày nhiều loại ẩm thực và nhiều vật thực mầu nhiệm khác mà cúng dường.

Bấy giờ Thượng Thủ bảo Hằng-già rằng: “Thiện nam tử, nay chính là thời, ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói tất cả chư Phật thọ hành thật pháp.”

Lúc ấy Thượng Thủ rộng vì Hằng-già nói thọ hành thật pháp, nên thọ chương cú đà-ra-ni như vầy:

Đá điệt tha Bồ kì lẫm bà Uất ba đa tì da Bồ kì lẫm bà Liệt phá la A nâu na Đá điệt tha A nâu na Đá điệt tha Phục đắc cứu truy Bồ kì lẫm bà Sa ha Nam mô hốt hốt điệt tả Trệ đề dị cần Na dà da di Sa ha Ma ha phù đà ti Nam mô ma ha ly bà phù đà kha Nam mô Hoa Tụ đà-ra-ni Tỳ xá xà trất mục Uùc dà lâm Đản tra lâm Cùng dà lâm Hằng dà cấm A lệ na lệ na la lệ Sa ha.

Bấy giờ Hằng-già hớn hở vui mừng mà hỏi Thượng Thủ rằng: “Làm thế nào để phụng trì thật pháp của chư Phật?”

Lúc ấy Thượng Thủ bảo hành giả rằng: “Nếu có kẻ trai lành, người gái tín nào nguyện muốn nghe, ông phải hiện trong mộng, phải hiện thân trước người ấy. Vậy nếu họ thấy thân ông, ông sẽ dạy cho họ tu hành thật pháp.”

– Phải làm thế nào để tu hành?

– Khi muốn thực hành, phải bảy ngày trai giới, ngày ngày tắm rửa ba lần, mặc y mới thanh tịnh, ngồi trước tượng Phật, làm bảo cái năm sắc, tụng chương cú này 120 biến, nhiễu quanh 120 lần. Làm như vậy rồi, ngồi lại mà tư duy, tư duy xong rồi trở lại tụng chương cú này, trong bảy ngày như vậy.

Bấy giờ hành giả liền hỏi Thượng Thủ: “Phải dùng ngày nào?”

Thiện nam tử, cần phải dùng những ngày từ mồng 8 đến 15 mỗi tháng để tu hành pháp này. Lúc ấy, cho dù có chúng sanh từng phạm tội ngũ nghịch, thân có hủi lác, mà pháp này không trừ lành thì thật là không có lý đó. Nếu Ưu-bà-tắc phạm tam quy y cho đến sáu điều trọng giới, nếu không hoàn sanh thì không có lẽ đó. Nếu có người phạm những giới như Bồ-tát 24 giới, Sa-di 10 giới, Thức-xoa Sa-di-ni giới, Tỳ-khưu giới, Tỳ-khưu-ni giới, phải nhứt tâm sám hối, nếu không hoàn sanh thì không có lẽ đó, trừ không chí thành. Lại nữa Thiện nam tử…”

Bấy giờ Thượng Thủ rộng vì Hằng-già mà nói tên 24 trọng giới:

1. Nếu có Bồ-tát thấy chúng sanh đói kém đến cầu ẩm thực, ngọa cụ mà không chìu ý thì gọi là phạm đệ nhất trọng giới.
2. Nếu có Bồ-tát dâm dục vô độ chẳng lựa cầm thú thì gọi là phạm đệ nhị trọng giới.
3. Nếu có Bồ-tát thấy Tỳ-khưu chứa nuôi vợ con, rồi nói ra lỗi ấy, thì gọi là phạm đệ tam trọng giới.
4. Nếu thấy có người lo rầu không vui, muốn tự hủy thân mạng, mà Bồ-tát lại dụng ý tăng thêm hờn giận làm hỏng mất mạng căn của họ, lại như còn đem cho thêm lửa để thiêu cháy hết thảy tài vật của họ, thì gọi là phạm đệ tứ trọng giới.
5. Nếu có Bồ-tát ra khỏi tinh xá, đến khoảng đồng trống gặp được của rơi, tùy ý lấy dùng, thì gọi là phạm đệ ngũ trọng giới.
6. Nếu có Bồ-tát thấy có người này giận dữ muốn hại mạng người kia, mà mình còn dùng lời ngọt dịu khen sự giận hờn của họ, thì gọi là phạm đệ lục trọng giới.
7. Nếu nghe hoặc thấy có người giận hờn, muốn thiêu đốt Tăng phòng, mà Bồ-tát không tận tình can ngăn tâm ác của kẻ kia, thì gọi là phạm đệ thất trọng giới.
8. Nếu nghe hoặc thấy có người phạm trọng tội, Bồ-tát nên kín đáo gọi người kia đến chỗ mình mà khuyên rằng: “Tôi có thuốc hay tưới rửa ông, để giới căn có thể hoàn sanh.” Nếu họ không chịu đến thì Bồ-tát phải gọi ba lần. Nếu gọi không đủ ba lần thì Bồ-tát phạm đệ bát trọng giới.
9. Nếu nghe thấy có người phạm tội ngũ nghịch, Bồ-tát nên đến bên họ mà nói “Đây không phải là chánh pháp, chẳng phải là hạnh tốt, chớ nên làm điều ấy.” Nếu Bồ-tát không làm nhv thì gọi là phạm đệ cửu trọng giới.
10. Nếu thấy nghe người khác muốn hưng khởi làm việc lành lớn mà Bồ-tát lại có tâm giận hờn muốn phá hoại huệ thiện của người ta, thì gọi là phạm đệ thập trọng giới.
11. Nếu thấy có người uống rượu say sưa, mà Bồ-tát không tận tình đến khuyên can, trừ tự nhơn duyên, rằng “Đây không phải là hành vi tốt”, thì gọi là phạm đệ thập nhứt trọng giới.
12. Nếu thấy nghe có người này phạm dâm với vợ người khác, mà Bồ-tát còn đi học lại cho người chồng rằng “Người đó phạm ông, ông nên đề phòng!”, thì gọi là phạm đệ thập trọng giới.
13. Nếu Bồ-tát xem oan gia của người khác rồi khởi tưởng oan gia ấy, thì gọi là phạm đệ thập tam trọng giới.
14. Nếu thấy có người thương kẻ oán như con đỏ, mà Bồ-tát lại đi nói với người ấy rằng “Tại sao lại xem kẻ đó như con đỏ”, thì gọi là phạm đệ thập tứ trọng giới.
15. Nếu thấy có kẻ tụ tập để tranh đấu lẫn nhau, mà Bồ-tát còn trợ giúp để đánh đập, thì gọi là phạm đệ thập ngũ trọng giới.
16. Nếu biết việc kín đáo riêng tư của người, mà Bồ-tát còn bày chuyện phỉ báng hoặc nói với tứ chúng khiến người ta không vui, sanh tâm giận hờn, thì gọi là phạm đệ thập lục trọng giới.
17. Nếu thấy nghe việc thiện của người khác mà Bồ-tát lại bảo rằng “Không nên làm điều ấy” , thì gọi là phạm đệ thập thất trọng giới.
18. Nếu đang đi giữa đường và thấy có người trùng hưng chùa tháp, tinh xá, mà Bồ-tát lại không đến giúp đỡ, thì gọi là phạm đệ thập bát trọng giới.
19. Nếu biết có người xa lìa thiện tri thức để gần gũi bạn ác, Bồ-tát không được tán khen người ấy, mà phải khuyên họ lánh xa kẻ ác để gần gũi bạn lành. Nếu Bồ-tát không làm nhv, thì gọi là phạm đệ thập cửu trọng giới.
20. Chỗ của Chiên-đà-la, hoặc chỗ của người ác, chó ác, chỗ Thanh văn nhị thừa, những nạn như vậy Bồ-tát không được đến, trừ khi mình có việc gấp, nếu không thì gọi là phạm đệ nhị thập trọng giới.
21. Nếu có thấy, nghe, hoặc nghi sát, Bồ-tát phải tự suy nghĩ “ăn thứ thịt này là đoạn hạt giống đại từ, đắc đại tội.” Nếu không nghĩ như vậy mà còn bảo rằng mình không thấy, không nghe, không nghi sát, thì ăn sẽ không có lỗi, thì gọi là phạm đệ nhị thập nhứt trọng giới.
22. Nếu có thấy, nghe, hoặc nghi sát, mà Bồ-tát còn cho rằng “nếu không ăn thịt này tức trái ba đời chư Phật bảo tàng, lại trái với ân của ba đời chư Phật”, rồi cho tôn người ấy, thì gọi là phạm đệ nhị thập nhị trọng giới.
23. Nếu có Bồ-tát hiểu các phương tiện, biết căn cơ của chúng sanh, mà lại không chịu chỉ dạy khi người ta thưa hỏi, thì gọi là phạm đệ nhị thập tam trọng giới.
24. Nếu khi đang trì giới này, mà thấy Hoa Tụ, hoặc thấy Hư Không Tạng, hoặc thấy Quán Thế Âm, hoặc thấy mỗi mỗi chư Bồ-tát; hoặc thấy hoặc không thấy những điều vừa kể hoặc nhiều việc khác nữa, thì Bồ-tát không được nói với người khác rằng “Tôi thấy Pháp Vương Tử như thế, như thế …vv.” Nếu nói ra thì hiện thân sẽ bị chướng đạo pháp, bị bịnh lác trắng, hoặc bị ngu si, hoặc bị mù lòa, hay bị hoa mắt vọng tưởng phân biệt các pháp yếu của chư Phật, mắc bịnh ngu si. Loè báng giới này phải mắc tai ương như vậy. Khi trì giới này thì không được nói ra ngoài rằng “tôi thấy việc này việc nọ”. Trong thời gian bảy ngày không được nói. Ngoài ra còn nhiều việc nữa cũng không được nói.

Thiện nam tử, đây gọi là đệ nhị thập tứ giới của Bồ-tát ma-ha-tát. Thiện nam tử, nơi nơi chỗ chỗ chớ vọng tuyên nói bí pháp của chư Phật. Thiện nam tử, hết thảy chư Phật do nơi giới này mà thành Đẳng chánh giác. Quá khứ chư Phật cũng nhơn giới này mà thành Đẳng chánh giác. Vị lại chư Phật cũng lại như vậy.

Bấy giờ Hằng-già hỏi Thượng Thủ rằng: “Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà được thọ giới này không?”

– Những người như vậy được thọ giới này.

Hằng-già bạch rằng: “Làm thế nào để thọ được hảo giới như vậy?”

– Khi thọ giới này, nên thỉnh một Tỳ-khưu hiểu giới tướng, thỉnh các chúng Tăng tùy lòng sở kham, không luận nhiều ít. Lại nên thỉnh 24 hình tượng, nếu nhiều hơn cũng không ngại. Làm các thứ ẩm thực rất mỹ vị để cúng dường chúng Tăng và Tỳ-khưu ấy, năm vóc sát đất nới trước hình tượng và các tôn Tăng, chí tâm lễ kính, xướng lên như vầy:

Chư Phật sắc tạng chư chúng Tăng
Con nay quy y thọ tôn Giới
Chúng Tăng mở rộng lòng từ mà chứng biết cho.

Lại xướng thêm rằng:

Trong pháp hùng mãnh vi diệu tôn vương,
Ngày nay cho con được thọ trì Giới này.

Bấy giờ người ấy nên tự nói rõ biết giới rồi, lại thỉnh đủ ba lần rồi cho thật thuần thuộc giới tánh này, nguyện suốt đời tu hành thọ trì, nguyện tu hành bền chắc giữ gìn không trái phạm. Trì giới này tùy ý vãng sanh.

Hằng-già trọn đời tu Bồ-đề tánh Bồ-tát ma-ha-tát, tự nghe giới này; khi thọ giới này, phải y pháp như thế.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32590)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12035)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12582)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34446)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10588)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10341)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7004)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11405)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20535)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13103)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant