Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Phẩm Thọ Trì

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9205)
5. Phẩm Thọ Trì

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Thọ Trì, thứ 5

Lúc đó đức Thế Tôn, lại bảo đại Bồ Tát Hiền Hộ:

-Này Hiền Hộ! Trong chúng này có người nay ở trước mặt Ta, đích thân nghe lời Ta thuyết về tam muội như thế. Sau khi Ta diệt độ, nơi họ tái sanh lại sẽ được nghe tam muội quý báu này. Tuy nghe mà chẳng tin, lại còn phỉ báng chế nhạo, nên xa rời bạn hiền, theo gót bạn xấu.

Này Hiền Hộ! Lại có kẻ nào, đối với người hiền đã được nghe kinh điển tam muội vi diệu thâm sâu này, còn chẳng tin tưởng, chẳng cho là thật, không thể giải thích, huống là kẻ ác này nghe qua kinh điển, lại hay tin tưởng, rồi lại giảng giải! Vì sao? Này Hiền Hộ! Lời của chư Phật thật rất khó tin, vì rất khó biết được trí huệ của các Ngài.

Này Hiền Hộ! Nếu muốn thành tựu tam muội này, thì về sau ở đời tương lai phải cùng chúng sanh phát triển Phật pháp.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu có đại Bồ Táttại gia hay xuất gia, nghe qua tam muội này chẳng sợ, chẳng hoảng, chẳng hối hận, chẳng thối, chẳng phỉ báng, mà vui vẻ sanh tâm cung kính tin tưởng, quyết định chân thật không còn nghi ngờ, đọc tụng thọ trì suy tư nghĩa lý. Này Hiền Hộ! Những người này đức Thế Tôn sẽ thấy, sẽ biết, sẽ rõ.

Này Hiền Hộ! Làm sao chư Phật thấy được trai lành gái thảo đó? Làm sao chư Phật biết được họ? Làm sao chư Phật hiểu rõ họ? 

Này Hiền Hộ! Nếu hay tụng đọc thọ trì môn tam muội này, thì người đó quyết chẳng bao giờ làm điều xấu, chẳng phá giới thanh tịnh, chẳng hoại chánh tín, chẳng vào nơi tà.

Này Hiền Hộ! Những trai hiền gái thảo này quyết định tin sâu, thành tựu tư duy, hay phân biệt thành tựu suy tư, đầy đủ tín tâm trong giáo pháp, thường hay đọc tụng nhiếp trì pháp này.

Này Hiền Hộ! Ông nên biết rằng những người này quyết chẳng phải chỉ cầu chút ít công đức, chẳng phải chỉ gieo trồng chút ít căn lành.

Này Hiền Hộ! Những trai hiền gái thảo đó sanh ở nơi nào, dù thiếu cửa cải, mà các căn lành rộng lớn không nhỏ.

Này Hiền Hộ! Những trai hiền gái thảo đó, trong đời quá khứ ở chỗ Như Lai đã từng tu hạnh cúng dường trồng các căn lành. Hiền Hộ, ông nên biết rằng họ chẳng phải chỉ ở một chỗ đức Phật mà tu hạnh cúng dường, trồng các căn lành, cũng chẳng ở hai, ba, bốn, cho đến mười chỗ chư Phật mà trồng căn lành, cũng chẳng ở nơi trăm ngàn ức số Như Lai mà trồng căn lành. Hiền Hộ, ông nên biết rằng những trai lành gái thảo này đã từng ở trăm ngàn vô lượng vô biên chư Phật tu hạnh cúng dường, trồng các căn lành, nên mới được nghe tam muội Niệm Phật Hiện Tiền này. Nghe rồi sanh tín tâm khai mở ý, tức nhận thức đó là thật mà không nghi điều gì. Ðược nghe rồi lại mến thích đọc tụng thọ trì, cho đến vì người khác mà nói rộng sâu nghĩa lý đó. Vì sao? Này Hiền Hộ! Những trai lành gái thảo đó xưa kia đã từng ở trước chư Phật, được nghe tam muội này, đọc tụng thọ trì. Nhờ đó mà sau khi Như Lai diệt độ, và năm trăm năm sau đời mạt thế, lúc pháp sắp diệt, trong cuối đời tượng pháp, họ sẽ được nghe tam muội này, rồi sanh tín tâm mà không nghi ngờ, chẳng thối, chẳng quên, sanh tâm vui mừng lớn lao, tràn đầy khắp thân tâm, đọc tụng thọ trì, suy tư nghĩa lý, rồi giải thích cho người khác nghe, cho đến một ngày một đêm, hành trì tam muội này.

Này Hiền Hộ! Nếu lại có người, nghe qua tam muội này mà không sợ hãi, cũng chẳng thối thất, chẳng sanh tâm phỉ báng, rồi vui vẻ biết đó là chân thật, suy tư phân biệt, tâm khai ý mở, và được người khác khen ngợi, thì phước đức đó không thể tính lường, còn nói gì đến phước đức thọ trì đọc tụng chuyên cần suy tư tu hành, lại vì người khác giảng rộng suốt một ngày một đêm.

Hiền Hộ, ông nên biết rằng những trai hiền gái thảo đó nhờ việc này mà sẽ đạt được vô lượng a tăng kỳ công đức lớn, và trụ nơi bất thối chuyển, tùy theo sở nguyện cầu, được thành tựu như ý.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nay Ta dùng ví dụ để nói rõ những việc như thế. Ví như có người cầm giữ tất cả hạt bụi trong cõi tam thiên đại thiên thế giới. Người đó lại nhặt hết cỏ cây nhành lá, xay nhuyễn để chúng trở thành bụi bặm, bằng tất cả hạt bụi trong ba ngàn đại thiên thế giới. Này Hiền Hộ, ý ông nghĩ sao, số bụi bặm đó có nhiều chăng? 

Bồ Tát Hiền Hộ đáp:
-Bạch đức Thế Tôn! Số đó rất nhiều. 

-Này Hiền Hộ! Nếu trai lành gái thảo đem châu báu cúng dường các cõi Phật nhiều như số hạt bụi đó, thì ý ông nghĩ sao, họ đạt được phước đức nhiều chăng?

-Bạch đức Thế Tôn! Phước đức đó rất nhiều, mà về sau, những trai lành gái thảo đó nhờ việc này mà sẽ đạt được vô lượng a tăng kỳ phước đức hơn phước đức ở trên. 

-Ta nói cho ông nghe, nếu trai hiền gái thảo nào đem đầy cả bảy báu cúng dường chư Phật nhiều như số hạt bụi, thì sẽ được phước đức như thế. Tuy nhiên, nếu có trai hiền gái thảo nào vừa nghe qua tam muội Niệm Phật Hiện Tiền này, tạm thời sanh tâm vui vẻ, tin tưởng phân biệt biết đó là chân thật, tâm khai ý mở, đọc tụng thọ trì, cho đến tạm thời vì người khác mà giải thích, thì những phước đức mà họ đạt được, hơn phước đức trên vô lượng vô số, không thể tính đếm, không thể suy lường, không thể nghĩ bàn.

Này Hiền Hộ! Những trai hiền gái thảo này vừa nghe qua tam muội đây, sanh tâm vui vẻ, cho đến tạm thời vì người khác giải thích, đạt được vô lượng vô biên phước đức như thế, hà huống có trai hiền gái thảo khác, đối với kinh điển tam muội này, nghe xong liền tin, tin rồi thọ trì, thọ trì rồi y theo lời dạy mà hành trì.

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng;

“Nếu lấy ba ngàn đại thiên cõi 
Ðầy cả bảy báu dâng cúng dường
Ta nói phước đức kia tuy nhiều
Nhưng chẳng bằng chút phước nghe kinh
Bồ Tát vì cầu nhiều phước đức
Tin hiểu đọc tụng và suy tư
Giải thích tu hành niệm tam muội
Phước này hơn kia thật rất nhiều
Số bụi trong suốt ba ngàn cõi
Lại phân hạt bụi bằng số đó
So sánh số cát bụi như thế
Lấy đầy châu báu dâng cúng dường
Kinh tam muội được chư Phật khen
Chỉ đem một câu giảng cho người
Ta nói người đó được công đức
Hơn cả người dâng báu muôn phần
Nếu lại vì người mà giảng hết
Hoặc chỉ một phần như giọt sữa
Suy tư phát triển tâm Bồ Ðề
Hà huống phước vô lượng dài lâu
Tất cả chúng sanh sẽ thành Phật
Tịnh huệ rốt ráo chứng như Phật
Hoặc giả trong ức số nhiều kiếp
Nói về phước đó không thể hết
Trong đó Phật đều nhập Niết Bàn
Họ thường giải rộng vô số kiếp
Phước kia thật chẳng có ngần mé
Nương kinh vi diệu bốn câu kệ
Tất cả mọi vật trên thế gian
Bốn phương trên dưới và bốn bên
Ðầy cả châu báu dâng cúng họ
Vì cầu thắng phước, phụng chư Phật
Công đức này tuy khó tính lường
So sánh cùng số cõi thế giới
Nếu ai nghe thọ tam muội này
Khéo hay tuyên thuyết, phước hơn trên
Nếu ai với pháp này không nghi
Đối với các pháp cũng hiểu rõ
Vĩnh viễn dứt các đường ác thú
Hay nhập thiền tịch thắng tam muội
Nếu họ thường hay cúng dường Ta
Tất thọ nhiều phước không biết được
Tăng trưởng đa văn chứng Bồ Ðề
Thiền định họ được chư Phật khen
Nay Ta nói ông nghe lời thật
Thường niệm tinh tấn chớ làm biếng
Một lòng hân hoan phát dũng mãnh
Tự nhiên sớm chứng đạo Bồ Ðề
Người kia cúng dường trăm số Phật
Lại hay thọ trì Tam Ma Ðề
Hoặc ở đời sau nhiều sợ hãi
Tự sẽ sớm chứng định vi diệu
Nếu có gặp Ta và tỳ kheo
Cùng Ðại Sĩ như ông Hiền Hộ
Bồ Tát như thế mến đa văn
Quyết định sẽ đắc tam muội này
Nếu được nghe thánh tam muội này
Vì người giải thích hoặc viết chép
Ðà La Ni này Thế Tôn khen
Hay chứng tất cả Phật Bồ Ðề
Nếu ai khéo suy tư tam muội
Tất cả chư Phật cùng khen ngợi
Thường được tiếng thơmđa văn
Chư Phật thứ lớp mà diễn thuyết”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32575)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12031)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34442)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12519)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13732)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13101)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14228)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13851)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant