Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6. Phẩm Quán Sát

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8611)
6. Phẩm Quán Sát

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Quán Sát, thứ 6

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Hiền Hộ:

-Này Hiền Hộ! Nếu chư đại Bồ Tát muốn tư duy tam muội này, thì phải làm sao? 
Này Hiền Hộ! Bồ Tát đó phải tư duy như vầy: “Ðức Thế Tôn của tôi đang thuyết pháp trước hàng trời người”. 

Này Hiền Hộ! Bồ Tát nhất tâm tư duy như vầy: “Chư Phật Như Lai ngồi tòa sư tử tuyên thuyết chánh pháp, thành tựu đầy đủ tất cả tướng hảo, tối vi diệu tối thù thắng, đoan nghiêm, đáng mến nhìn không chán”. Chí tâm quán sát các tướng hảo lớn như thế, tức thấy rõ ràng tường tận mỗi mỗi đức tướng của chư Như Lai; đã thấy rồi bèn thỉnh hỏi tướng nhục đảnh. Ðã hỏi rồi lại quán sát những tướng hảo khác rõ ràng tường tận, và suy tư: “Tướng hảo vi diệu của chư Phật thật là hy hữu. Xin nguyện đời sau con được thành tựu đầy đủ thân tướng hảo như chư Phật. Xin nguyện đời sau con thành tựu đầy đủ oai nghi giới đức thanh tịnh. Xin nguyện đời sau con thành tựu đầy đủ tam muội này. Xin nguyện đời sau con được trí huệ viên mãn như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được giải thoát viên mãn như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được giải thoát tri kiến như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được tướng hảo viên mãn như chư Phật, chứng quả Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chứng quả vị Phật rồi, con cũng tuyên thuyết tất cả diệu pháp giữa hàng trời người như chư Phật”.

Bồ Tát quán sát chư Phật đầy đủ như thế, cho đến thành tựu tất cả pháp quán sát. Sau đó, lại suy tư rằng: “Trong đây gì là bản ngã, gì là pháp của ngã sở, ai sẽ chứng quả vị Phật, Bồ Đề? Tâm sẽ chứng đắc ư? Thân sẽ chứng đắc ư? Thân vốn ngang ngạnh, vô tri, vô giác, vô thức, vô phân biệt, vô tác giống như cỏ cây, ngói đá, gương kính, còn đạo Bồ Ðề thì không sắc, không hình, không ảnh tượng, không tướng mạo, không thể thấy biết, không thể cảm xúc biết, thì làm sao nương vào thân đó mà tu hành chứng quả Bồ Ðề như thế? Trong đó ai có thể chứng đắc được? Nếu do tâm chứng đắc, thi tâm vốn vô hình sắc, không thể thấy biết được, đồng như huyễn hóa. Quả Bồ Ðề thì cũng không có hình sắc để có thể thấy biết, vô lậu, vô vi, và đồng như huyễn hóa, thì làm sao chứng được, giác biết được, mà sao nói rằng thân tâm đắc đạo Bồ Ðề? 

Lúc đại Bồ Tát quán sát tường tận như thế, thấy rõ ràng thân tướng không thể chứng đắc đạo Bồ Ðề, cũng biết rằng tâm lại không thể chứng đạo Bồ Ðề. Vì sao? Các pháp không nương vào sắc mà chứng đắc sắc, nương tâm mà chứng đắc tâm. Chỉ nương vào lời nói mà biết tất cả pháp. Tuy vậy, chúng vốn là vô sắc, vô hình, vô tướng, vô lậu, không thể xem thấy, không thể chứng biết, không thể chứng đắc, không thể chẳng chứng đắc. Vì sao? Vì thân của chư Như Lai vốn vô lậu. Do thân chư Như Lai vô lậu nên tâm cũng vô lậu. Do tâm chư Như Lai vô lậu nên sắc tướng cũng vô lậu.

Lại nữa, sắc tướng của chư Như Lai vốn vô lậu, nên thọ cảm vô lậu, cho đến hành và thức cũng vô lậu, giới pháp của chư Như Lai cũng vô lậu, tất cả tam muội trí huệ cũng vô lậu, cho đến giải thoát tri kiến cũng vô lậu; như thế cho đến chư Như Lai, tất cả ngôn thuyết của chư Như Lai, những lời đã thuyết, nay thuyết và sẽ thuyết, cùng tất cả pháp đều vô lậu.

Này Hiền Hộ! Bậc trí hay thông đạt tất cả Phật pháp như thế, còn kẻ ngu thì nào biết được. Lúc họ quán sát như thế, không thể nắm bắt được tất cả pháp. Vì sao? Ai hay chứng ngộ mà không thể nắm bắt. Sao gọi là chứng ngộ và cũng không thể nắm bắt? Duyên theo sự chứng ngộ nào mà không thể nắm bắt? Họ hay quán sát như thế xong, thì nhập vào diệt tận định, phân biệt được các pháp, cũng chẳng phân biệt được các pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Như lúc lửa chưa cháy, có người nói như vầy: “Nay tôi sẽ dập tắt ngọn lửa này”. Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao, kẻ đó nói như thế có phải là người thành thật chăng?
Bồ Tát Hiền Hộ thưa:

-Bạch đức Thế Tôn! Không thành thật.
Phật bảo:

-Các pháp như thế xưa nay rốt ráo không thể nắm bắt được. Sao nay lại nói rằng: “Ta hay chứng biết tất cả pháp, Ta hay liễu đạt tất cả pháp, Ta hay giác ngộ tất cả pháp, Ta hay giải thoát tất cả chúng sanh”? Trong dòng sanh tử, những lời này không phải là lời chân chánh. Vì sao? Trong pháp giới vốn không có các pháp, cũng không có chúng sanh, thì sao lại bảo rằng có nhân duyên độ chúng sanh trong cõi này ư? Tuy nhiên, chỉ trong Thế Đế mới có nhân duyên độ.

Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao, người đó nói như vậy có thật chăng? 

Bồ Tát Hiền Hộ thưa:

-Bạch đức Thế Tôn! Không thật.

Phật bảo Hiền Hộ:
-Do đó, trai lành gái thảo nào muốn thành tựu đạo Bồ Ðề vô thượng, cho đến muốn thành tựu đạo Bồ Ðề Duyên Giác, đạo Bồ Ðề Thanh Văn, đều phải quán sát tất cả pháp như thế. Lúc quán chiếu sẽ nhập diệt tận định, không còn phân biệt hay chẳng không phân biệt. Vì sao? Này Hiền Hộ! Vì tất cả pháp xưa nay chẳng có sanh diệt, mà sau khi xuất định lại có phân biệt thì là chấp một bên, còn trong định không phân biệt là chấp một bên khác. Cả hai bên đó không phải là thiền định tịch tĩnh, cũng chẳng không phải là thiền định tịch tĩnh, không chỗ suy tư, không chỗ phân biệt, không chỗ chứng biết, không chỗ qua lại, không chỗ tụ tập, không chỗ suy nghĩ, không chỗ phát khởi.

Này Hiền Hộ! Ðó gọi là trung đạo mà tất cả sự việc, tính lường, nơi chốn đều y theo Thế Đế.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Trong Đệ Nhất Nghĩa Đế chân thật, không thể nắm bắt được chính giữa hoặc hai bên. Vì sao? Này Hiền Hộ! Tất cả pháp giống như hư không, xưa nay vốn tịch diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng có tích tụ, chẳng có trụ xứ, không thể y theo, không hình tướng, vô vi, không có tính đếm.

Này Hiền Hộ! Kia không thể tính đếm thì làm sao lại có? Không thể tính đếm nên không thể nhập vào con số. Không thể nhập vào con số cho đến không có trí tính đếm, danh từ lời nói.

Này Hiền Hộ! Lúc chư đại Bồ Tát quán sát như thế, biết chư Như Lai, không thể chấp trước. Vì sao? Do không thể chấp vào tất cả pháp, nên nương nơi không có xứ sở mà có thể chấp vào, cũng không có cội gốc nên có thể đoạn dứt. Do trừ diệt cội gốc nên không có chỗ nương vào.

Này Hiền Hộ! Chư đại Bồ Tát đó nên suy gẫm tam muội Chư Phật Hiện Tiền như thế. Nếu sau khi đã thấy chư Như Lai như thế xong, chớ nên giữ lấy đắm vào, chớ nên chấp trì. Vì sao? Này Hiền Hộ! Không thể chấp giữ tất cả pháp, vì chúng giống như hư không, bản tánh thường vắng lặng.

Này Hiền Hộ! Như chày kim cang được bỏ trong lửa, khéo tôi luyện rèn nén, nên trị được lửa mạnh khói độc. Như miếng sắt nóng vừa được lấy ra từ lò vẫn còn cháy đỏ, thì bậc trí không nên cầm nắm. Vì sao? Miếng sắt vẫn còn lửa vàng, nếu chạm vào thì sẽ bị phỏng. Cũng như thế, này Hiền Hộ! Bồ Tát quán chiếu chư Phật, không thể chấp giữ. Do đó, lúc Bồ Tát quán sát sắc tướng của chư Phật, chớ nên khởi tâm đắm trước. Quán sát thọ, cho đến hành thức cũng không nên khởi tâm đắm trước. Lại nữa, lúc Bồ Tát quán giới pháp cũng không nên chấp trước. Quán thiền định như thế, cho đến trí huệ giải thoát, giải thoát tri kiến cũng chớ nên chấp trước. Vì sao? Ai chấp giữ thì không thể rời pháp khổ sanh tử, vì pháp khổ sanh tử đều do chấp giữ mà có. Vì vậy, lúc Bồ Tát quán sát chư Phật như thế, chớ nên có ý tưởng chấp giữ.

Này Hiền Hộ! Tuy không chấp giữ, mà nên cần cầu công đức thù thắng vi diệu của chư Phật, đó gọi là Phật trí, Như Lai trí, trí huệ rộng lớn, trí huệ tự nhiên, trí huệ tự tại, trí huệ không thể nghĩ bàn, trí huệ khó xưng lường, trí huệ vô đẳng đẳng, trí huệ Nhất Thiết Trí. Nếu ai muốn nhập vào những loại trí huệ này, phải nên tinh tấn suy tư quán chiếu tam muội Thấy Phật Hiện Tiền.

Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này, nên thuyết kệ rằng:

“Giống như tấm kính và son phấn
Phụ nữ trang sức xoa bóng mặt 
Kẻ ngu khởi tâm nhiễm vào đó
Nơi nơi chạy theo vì cầu dục
Trong không hắn khởi tưởng điên đảo
Chẳng biết pháp đó hư vọng sanh
Kẻ đó bị lửa tham dục đốt
Cô kia khởi dục lại tự phát.
Nếu có Bồ Tát khởi niệm này
Gọi là vô trí, chấp tâm mình.
Cam lồ Bồ Ðề trong tương lai
Ta cứu chúng sanh thoát khổ nhọc
Trong đệ nhất nghĩa không chúng sanh
Thế gian chỉ có sanh lão tử
Các pháp vô hình như trăng nước
Sao có Bồ Ðề mà cầu được?
Các hình sắc như ảnh trong gương
Như huyễn như bóng như hư không
Phàm phu chấp vào không thể cưỡng
Họ tuy trói, hư không chẳng thật.
Chư Bồ Tát các bậc hiền trí
Biết đời điên đảo nên thấy rõ
Liễu đạt không người, ai thọ khổ?
Họ sẽ thành đạo vô thượng giác
Không ý phân biệt Phật Bồ Ðề
Tâm xưa nay vốn tự sáng tịnh 
Chẳng thấy sanh tửô trược
Họ chứng chân thật, Tối Thắng Tôn
Hết thảy sắc pháp, các vô lậu
Không thể phân biệt vọng và Không
Diệt trừ các dục, tâm giải thoát
Bậc trí đó chứng tam muội này
Trước niệm chư Phật thân vô tướng
Sau nghe các pháp vốn thanh tịnh
Suy gẫm như thế không nghĩ khác
Chứng tam muội này thật không khó
Thường suy tư quán các tướng không
Tức hay diệt các đống bụi bặm
Chẳng phân biệt thành hay hoại
Tất cả ngoại đạo mất trong đây.
Với tất cả sắc, không phân biệt
Mắt tuy thấy mà tâm không lụy
Họ thấy chư Phật như vòm trời
Vượt hẳn pháp giới trong thế gian
Tâm kia thanh tịnh mắt cũng sáng
Tuy cần tinh tấn thường trong định
Họ đắc đa văn không thể nói
Chứng tam muội này, thật tư duy
Nếu vì chẳng chứng thấy tam muội
Hết thảy kẻ mù lẽ chứng biết
Chớ nương thấy, chẳng không thấy
Trong đó ngoại đạo đều mê muội.
Thường rời tưởng tướng mà suy tư
Thấy kia chư Phật tâm thanh tịnh
Thấy vậy rồi bèn quán hết thảy
Họ mau chóng thành tựu tam muội
Kia không đất, nước, gió, và lửa
Cũng chẳng Không giới, trụ trước mặt
Nếu muốn quán sát hết thảy Phật
Nên tưởng nơi ngồi diễn diệu âm
Như Ta hôm nay tuyên diệu pháp
Tâm ai mến pháp, thấy thân Ta
Họ nên không có suy tư khác
Chỉ nên tưởng Phật thuyết chánh pháp
Chuyên quán vậy, chớ tưởng nhớ khác
Vì cầu tam muộiđa văn
Một lòng quán lời Ta dạy định
Tổng trì tất cả lời Phật dạy
Không có Phật nào trong quá khứ
Và trong hiện tại cùng tương lai
Chỉ thiền thanh tịnh vi diệu này
Kia không thể nói chứng hay bàn
Nơi ba cõi, Ta vô thượng Tôn
Vì lợi đời nên đặc biệt ra
Vì niệm chứng chư Phật Bồ Ðề
Tuyên thuyết tam muội không gì sánh
Nếu muốn thân và tâm an lạc
Cầu Phật công đức không nghĩ bàn
Cho đến chứng Bồ Ðề vi diệu
Nên tu tam muội thù thắng này
Muốn tịnh rộng sâu biển đa văn
chúng sanh mà thường cầu cần
Họ nên mau rời các bụi dục
Phải tu tam muội thù thắng này
Nếu muốn một đời thấy nhiều Phật
Thấy rồi cung kính lại thỉnh hỏi
Họ nên chóng xa chớ chấp trước
Phải quán sát tam muội vi diệu
Nơi đây không tham cũng không sân
Cũng không ngu si hay ganh ghét
Lại chẳng vô minh cùng lưới nghi
Phải trụ sâu định tịch tĩnh này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32578)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34443)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12521)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12614)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14854)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20531)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13852)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant