70. ÐẠI TĨNH - TIỂU TĨNH
Thượng tọa Tĩnh ở chùa Quốc Thanh. Nhơn Hòa thượng Huyền Sa dạy chúng:
- Bọn các ông nếu có thể một đời như đưa ma mẹ, ta bảo đảm các ông sẽ tham cứu đến nơi đến chốn.
Sư bèn hỏi:
- Chỉ như trong kinh nói: "Không được đem tâm sở tri đo lường tri kiến vô thượng của Như Lai", lại là sao?
Huyền Sa nói:
- Ông cho rằng tham cứu được triệt để tâm sở tri, lại có thể đo lường được chăng?
Sư theo đó tin nhập (nhận được). Sau Sư trụ Thiên Thai hơn ba mươi năm không xuống núi, thông suốt tam học, giữ hạnh độc cư. Ngoài lúc thiền tịch, Sư thường xem Long Tạng, mọi người xa gần đều kính trọng Sư, gọi Sư là Thượng tọa Ðại Tĩnh. Có người hỏi:
- Ðệ tử mỗi lần ngồi thiền ban đêm, tâm niệm cứ bay nhảy, chưa biết phải nhiếp phục thế nào, xin Thầy thương xót chỉ dạy.
Sư đáp:
- Ông nên đem tâm bay nhảy tham cứu lại chỗ bay nhảy, sẽ thấy nó không chỗ nơi, lúc ấy tâm bay nhảy đâu còn! Rồi trở lại xem xét cái tâm tham cứu, tâm năng cứu bèn yên. Trí năng chiếu đã không, cảnh sở duyên cũng lặng lẽ. Lặng mà không lặng, vì chẳng có người năng lặng. Chiếu mà không chiếu vì không có cảnh bị chiếu. Cảnh và trí đều lặng, tâm tự nhiên an, ngoài không theo nhánh nhóc, trong không trụ vào định, hai đường đều dứt, một tánh an vui. Ðây cũng là yếu đạo về nguồn vậy.
Sư nhân thấy nghĩa huyễn hóa trong kinh bèn làm một bài kệ, để hỏi người học:
Nếu bảo các pháp đều huyễn có
Tạo các tội ác đâu có lỗi
Tại sao nghiệp tạo lại chẳng tiêu
Mà mượn lời Phật đem dạy dỗ.
(Nhược đạo pháp giai như huyễn hữu
Tạo chư quá ác ưng vô cữu
Vân hà sở tác nghiệp bất vong
Nhi tạ Phật từ hưng tiếp dụ?)
Lúc ấy có Thượng tọa Tiểu Tĩnh đáp rằng:
Nhân huyễn gây huyễn, huyễn xoay vần
Nghiệp huyễn hay vời quả báo huyễn
Chẳng rõ huyễn sanh các huyễn khổ
Biết rõ như huyễn, huyễn vô vi.
(Huyễn nhân hưng huyễn, huyễn luân vi
Huyễn nghiệp năng chiêu huyễn sở tri
Bất liễu huyễn sanh chư huyễn khổ
Giác tri như huyễn, huyễn vô vi).
Hai Thượng tọa Tĩnh cùng chết ở núi này. Ngày nay ở chùa Quốc Thanh còn có dấu tích.52. THIỀN SƯ QUY TÔNG TUYÊN
Thiền Sư Quy Tông Tuyên, người Hán Châu, nối pháp Ngài Lang Gia Quảng Chiếu kết thân với Quách Công Phủ. Chợt một hôm có quan trấn thủ Nam Khang đến, Sư sai người đem thơ cho Công Phủ lại dặn người đưa thơ chớ cho quan huyện trông thấy. Công Phủ đọc thơ thấy ủy thác rằng:
- Tôi còn sáu năm duyên đời chưa hết, hôm nay không chịu nổi áp bức muốn thác sanh vào nhà ông, mong ông chiếu cố cho.
Công Phủ vừa sợ vừa mừng, nửa đêm bà vợ mơ màng thấy Sư vào trong phòng ngủ, bất giác thất thanh nói:
- Ðây không phải là chỗ Hòa thượng đến.
Công Phủ hỏi duyên cớ, bà vợ kể lại. Công Phủ sai đốt đền, lấy thơ của Sư cho coi. Quả nhiên sau bà vợ có thai sanh con đặt là Tuyên Quang. Vừa đầy năm đã nhớ hỏi chuyện trước.
Ðến ba tuổi, Hòa thượng Bạch Vân Ðoan đi qua nhà này, Công Phủ kêu con ra tương kiến, vừa thấy kêu lên:
- Sư Ðiệt! (cháu).
Hòa thượng Ðoan nói:
- Cùng Hòa thượng từ biệt nhau đã mấy năm rồi?
Tuyên co ngón tay nói:
- Bốn năm.
Hòa thượng Ðoan nói:
- Tương biệt tại đâu?
- Tại Bạch Liên Trang.
- Lấy gì để chứng nghiệm?
- Cha mẹ tôi ngày mai sẽ mời Hòa thượng thọ trai.
Chợt có tiếng đẩy xe qua ngoài cửa. Hòa thượng Ðoan nói:
- Tiếng gì ngoài cửa vậy?
Tuyên làm thế đẩy xe. Hòa thượng Ðoan nói:
- Qua thế nào?
- Ðất bằng có một rãnh nước.
Ðến sáu tuổi không bệnh mà chết.