THƯ GỞI TRƯỜNG HỌC
Nguyên tác: Letters to schools
Lời dịch: Ông Không
THƯ GỞI TRƯỜNG
HỌC
Quyển
I
– 1979 –
Ngày 01 tháng giêng
Thư
gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-01-1979
Có vẻ vì chúng ta quan tâm đến giáo dục, có hai yếu tố chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ. Một là chuyên cần và yếu tố thứ hai là lười biếng. Hầu hết mọi tôn giáo đã nói về hoạt động của cái trí, để được kiểm soát, được định hướng theo ý muốn của Chúa, hay bởi một tác nhân bên ngoài nào đó; và hiến dâng cho một thần thánh nào đó, được chạm khắc bằng bàn tay hay tưởng tượng bởi cái trí, cần một chất lượng nào đó của chú ý mà trong đó cảm xúc, cảm tính và tưởng tượng lãng mạn đều có liên hệ đến. Đây là hoạt động của cái trí mà là tư tưởng. Từ ngữ chuyên cần ám chỉ chăm sóc, canh chừng, quan sát và một ý thức sâu thẳm của tự do. Hiến dâng cho một mục đích, một vật, một con người, hay một nguyên tắc là phủ nhận tự do này. Chuyên cần là chú ý mà tự nhiên tạo ra một ân cần, quan tâm vô biên và sự trong sáng của thương yêu. Tất cả việc này đòi hỏi sự nhạy cảm cực độ. Người ta nhạy cảm với những tổn thương tâm lý hay những ham muốn riêng của người ta, hay người ta nhạy cảm với một con người riêng biệt, quan sát những ham muốn của người ấy và đáp ứng mau lẹ đến những yêu cầu của người ấy; nhưng loại nhạy cảm này bị giới hạn và hầu như không thể nào gọi là nhạy cảm được. Chất lượng của nhạy cảm mà chúng ta đang bàn đến xảy ra một cách tự nhiên khi có trách nhiệm tổng thể mà là tình yêu. Chuyên cần có chất lượng này.
Lười biếng là dửng dưng, uể oải; dửng dưng đối với những cơ quan của thân thể, đối với trạng thái tinh thần và dửng dưng đối với những người khác. Trong dửng dưng có sự nhẫn tâm chai lỳ. Trong trạng thái này cái trí trở nên lờ đờ, hoạt động của tư tưởng chậm lại, nhạy bén của trực nhận bị khước từ và nhạy cảm là một sự việc không thể nào hiểu rõ được. Hầu hết chúng ta thỉnh thoảng chuyên cần nhưng thường xuyên đều lười biếng. Chúng không thực sự là những đối nghịch. Nếu chúng là những đối nghịch, vậy thì chuyên cần sẽ vẫn còn là lười biếng. Chuyên cần có là kết quả của lười biếng hay không? Nếu nó là như vậy, nó vẫn còn là thành phần của lười biếng và vì vậy không thực sự là chuyên cần. Hầu hết mọi người đều chuyên cần trong lợi ích riêng của họ, dù rằng lợi ích đó được gắn kết với gia đình, với một nhóm người, một giáo phái hay một quốc gia riêng. Trong lợi ích này có hạt giống của lười biếng mặc dù có sự tập trung liên tục của chính mình. Sự tập trung này bị giới hạn bởi vậy nó là lười biếng. Sự tập trung này là năng lượng bị nhốt trong một biên giới chật hẹp. Chuyên cần là tự do khỏi tập trung tự tạo này và mang lại một phong phú của năng lượng. Khi người ta hiểu rõ bản chất của lười biếng, chuyên cần hiện hữu mà không cần bất kỳ nỗ lực nào. Khi điều này được hiểu rõ – không phải chỉ bằng những định nghĩa thuộc từ ngữ về lười biếng và chuyên cần – lúc đó sự hoàn hảo tột đỉnh nhất trong tư tưởng, hành động, cách cư xử của chúng ta sẽ tự thể hiện. Nhưng bất hạnh thay, chúng ta không bao giờ đòi hỏi cho chính mình chất lượng tột đỉnh của tư tưởng, hành động và cách cư xử. Chúng ta hầu như không bao giờ thách thức chính mình và nếu chúng ta có lần nào làm như thế, chúng ta lại có rất nhiều lời bào chữa vì không đáp ứng trọn vẹn. Việc này ám chỉ rằng, có phải như vậy không, một sự lười biếng của cái trí, một hoạt động lờ đờ của tư tưởng? Thân thể có thể lười biếng nhưng cái trí cùng suy nghĩ nhạy bén và tinh tế của nó không bao giờ lười biếng. Sự lười biếng của thân thể có thể dễ dàng hiểu rõ được. Sự lười biếng này có thể bởi vì người ta bị làm việc quá nhiều hay quá buông thả, hay đã chơi những trò chơi quá cực nhọc. Vì thế thân thể cần nghỉ ngơi mà có lẽ được coi là lười biếng dù nó không phải như thế. Cái trí cảnh giác, đang tỉnh táo, nhạy cảm, biết được khi nào các cơ quan thân thể cần được nghỉ ngơi và chăm sóc.
Trong những trường học của chúng ta rất quan trọng phải hiểu rõ rằng chất lượng của năng lượng mà là chuyên cần đòi hỏi một loại thức ăn phù hợp, một loại vận động đúng cách, và ngủ đầy đủ. Thói quen, công việc đều đặn, là kẻ thù của chuyên cần – thói quen của tư tưởng, của hành động, của cách cư xử. Chính tư tưởng tạo ra khuôn mẫu riêng của nó và sống trong khuôn mẫu đó. Khi khuôn mẫu đó bị thách thức, có hai cách là hoặc nó không cần lưu tâm hoặc tư tưởng tạo ra một khuôn mẫu an toàn khác. Đây là chuyển động của tư tưởng – từ một khuôn mẫu này đến một khuôn mẫu khác, từ một kết luận, một niềm tin đến một cái khác. Đây chính là sự lười biếng của tư tưởng. Cái trí chuyên cần không có thói quen; nó không có khuôn mẫu của đáp lại. Nó là chuyển động vô tận, không bao giờ kết hợp thành thói quen, không bao giờ bị trói buộc trong những kết luận. Chuyển động đó có một chiều sâu và khối lượng khổng lồ khi nó không còn biên giới bị tạo ra bởi sự lười biếng của tư tưởng.
Bởi vì bây giờ chúng ta quan tâm đến giáo dục, bằng phương cách nào người giáo viên có thể chuyển tải sự chuyên cần này cùng nhạy cảm của nó, cùng ân cần phong phú của nó mà trong đó sự lười biếng của tinh thần không còn chỗ đứng? Dĩ nhiên người ta hiểu rõ rằng người giáo dục quan tâm đến câu hỏi này và nhìn thấy sự quan trọng của chuyên cần suốt mọi ngày trong cuộc sống của anh ấy. Nếu anh ấy làm như thế, vậy thì làm thế nào anh ấy khởi sự vun quén được sự nở hoa của chuyên cần này? Anh ấy có quan tâm sâu sắc đến em học sinh hay không? Anh ấy có thực sự nhận trách nhiệm tổng thể cho những người trẻ tuổi này mà anh ấy đang phụ trách hay không? Hay anh ấy chỉ ở đó để kiếm sống, bị trói buộc trong sự đau khổ của kiếm được quá ít tiền? Như chúng ta đã vạch rõ trong những lá thư trước, dạy học là năng lực cao quí nhất của con người. Bạn ở đó và bạn có những em học sinh trước mặt bạn, chính như vậy mà bạn dửng dưng phải không? Hay bởi vì những rắc rối riêng của bạn ở nhà đang lãng phí năng lượng của bạn?
Phải
mang theo những vấn đề tâm lý từ ngày này qua ngày khác
là một lãng phí thời gian và năng lượng, là dấu hiệu của
lười biếng. Một cái trí chuyên cần gặp gỡ những vấn
đề khi nó nảy sinh, quan sát bản chất của nó và giải quyết
nó ngay tức khắc. Trì hoãn một vấn đề tâm lý không giải
quyết được vấn đề. Nó là một lãng phí của năng lượng
và tinh thần. Khi bạn giải quyết những vấn đề ngay khi
nó nảy sinh, vậy thì bạn sẽ thấy rằng chẳng còn vấn
đề nào cả.
Vì
vậy chúng ta phải quay trở lại câu hỏi: là một người
giáo dục trong những ngôi trường này hay bất kỳ những ngôi
trường nào khác, liệu bạn có thể vun quén được chuyên
cần này hay không? Chỉ trong chuyên cần này nở hoa của tốt
lành mới hiện hữu. Nó là trách nhiệm tổng thể không thể
chối bỏ được của bạn và trong nó là tình yêu này mà
tự nhiên sẽ tìm ra một phương cách để giúp đỡ em học
sinh.
Ngày 15 tháng giêng
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-01-1979
Rất quan trọng khi giáo viên nên cảm thấy an toàn cả về tinh thần lẫn tâm lý trong những ngôi trường này. Vài giáo viên có vẻ sẵn lòng dạy học mà không quan tâm nhiều về tiền bạc của họ; họ có lẽ đã đến đây vì việc dạy dỗ và vì những lý do tâm lý, nhưng mỗi giáo viên nên cảm thấy an toàn như họ ở nhà, được chăm sóc, mà không có những lo âu về tiền bạc. Nếu chính người giáo viên không cảm thấy an toàn và vì vậy không được tự do để chú ý đến em học sinh và sự an toàn của em bé, người giáo viên sẽ không thể có trách nhiệm tổng thể được. Nếu người giáo viên không được hạnh phúc trong chính anh ấy, sự chú ý của anh ấy sẽ bị phân chia và anh ấy không thể vận dụng hết toàn năng lực của anh ấy.
Vì vậy nó trở nên rất quan trọng rằng chúng ta nên tuyển những giáo viên thích hợp, mời mỗi người ở lại những ngôi trường của chúng ta trong một khoảng thời gian để tìm ra liệu người thầy giáo hay cô giáo có thể vui vẻ tham gia vào điều gì đang được thực hiện hay không. Việc này phải có tác động chung, hỗ tương cho cả hai phía, trường học và người dạy học. Rồi thì người giáo viên, vì hạnh phúc, được an toàn, cảm thấy rằng anh ấy như ở nhà, có thể tạo trong em học sinh chất lượng an toàn này, cảm thấy rằng trường học là ngôi nhà của em.
Cảm
thấy như ở nhà ngụ ý, rằng không còn ý thức sợ hãi,
rằng em được bảo vệ về phần vật chất, được chăm
sóc và được tự do phải không? Sự bảo vệ, mặc dù em
học sinh có lẽ phản kháng ý tưởng đang được bảo vệ,
đang được che chở, không có nghĩa rằng em bị nhốt trong
một nhà tù, bị hạn chế và canh chừng nghiêm ngặt. Tự
do rõ ràng không có nghĩa làm điều gì người ta thích và
nó cũng rõ ràng rằng người ta không bao giờ có thể làm
điều gì người ta thích được. Nỗ lực làm điều gì người
ta thích – tạm gọi là tự do cá nhân, mà là chọn một hướng
hành động tùy theo sự ham muốn của người ta – đã tạo
ra sự hỗn loạn về kinh tế và xã hội trong thế giới. Phản
ứng cho sự hỗn loạn này là độc đoán.
Tự
do là một vấn đề rất phức tạp. Người ta phải tiếp
cận nó bằng chú ý tổng thể, bởi vì tự do không là đối
nghịch của tù tội hay một tẩu thoát khỏi những hoàn cảnh
mà người ta đang bị trói buộc. Nó không phải từ một sự
việc gì đó, hay sự lẩn tránh khỏi cưỡng ép, bắt buộc,
tự do không có đối nghịch; nó là chính nó, ở trong nó.
Chính hiểu rõ về bản chất của tự do là đánh thức thông
minh, nó không là một điều chỉnh đến cái gì là, nhưng
hiểu rõ cái gì là và vì vậy vượt khỏi nó. Nếu người
giáo viên không hiểu rõ bản chất của tự do anh ấy sẽ
chỉ áp đặt những thành kiến của anh ấy, những giới hạn
của anh ấy, những kết luận của anh ấy vào em học sinh.
Vì vậy em học sinh tự nhiên sẽ kháng cự hay chấp nhận
qua sợ hãi, trở thành một con người tầm thường, dù nhút
nhát hay hung hăng. Chỉ trong hiểu rõ sự tự do sống này –
không phải ý tưởng về nó hay sự chấp nhận bằng từ ngữ
về nó mà trở thành một khẩu hiệu – thì cái trí mới được tự do để học hỏi.
Rốt cuộc ra, một trường học là một nơi mà em học sinh theo căn bản được hạnh phúc, không phải bị dọa nạt, không phải bị kinh hãi bởi những kỳ thi, không phải bị những thúc bách để hành động theo một khuôn mẫu, một hệ thống. Nó là một nơi mà nghệ thuật của học hỏi đang được dạy. Nếu em học sinh không hạnh phúc, em không có khả năng học hỏi nghệ thuật này.
Học thuộc lòng, ghi nhớ thông tin, được hiểu là học hỏi. Việc này tạo ra một cái trí bị giới hạn và vì vậy bị điều kiện nặng nề. Nghệ thuật của học hỏi là đặt thông tin vào đúng vị trí của nó, để hành động khéo léo tùy theo điều gì được học hỏi, nhưng cùng lúc không bị trói buộc bởi những giới hạn của hiểu biết và những hình ảnh hay biểu tượng mà tư tưởng tạo ra. Nghệ thuật ngụ ý đặt mọi thứ vào đúng vị trí của nó, không phải tùy theo một lý tưởng nào. Hiểu rõ hệ thống máy móc của những lý tưởng và những kết luận là học hỏi nghệ thuật quan sát. Một khái niệm được đặt vào chung bởi tư tưởng, hoặc trong tương lai hoặc theo quá khứ, là một lý tưởng – một ý tưởng được chiếu rọi hay một hồi tưởng. Nó là một vở kịch của những cái bóng, tạo ra một trừu tượng của thực tại. Trừu tượng này là một lẩn tránh khỏi điều gì đang xảy ra ngay lúc này. Tẩu thoát khỏi thực tại, sự kiện này là trạng thái không hạnh phúc. Bây giờ liệu chúng ta như những giáo viên có thể giúp đỡ em học sinh được hạnh phúc theo ý nghĩa thực sự hay không? Chúng ta có thể giúp em quan tâm đến điều gì đang xảy ra thực sự hay không? Đây là chú ý. Em học sinh đang nhìn ngắm một chiếc lá run rẩy dưới ánh mặt trời là chú ý. Cưỡng bách em quay trở lại quyển sách ngay khoảnh khắc đó là cản trở sự chú ý; trái lại giúp đỡ em nhìn ngắm chiếc lá đó trọn vẹn khiến em ý thức được chiều sâu của chú ý mà trong đó không còn xao lãng. Cùng cách như vậy, bởi vì em bé vừa hiểu rõ được chú ý ám chỉ điều gì em sẽ có thể quay lại quyển sách hay bất kỳ điều gì đang được dạy. Trong chú ý này không có cưỡng bách, không có tuân phục. Nó là tự do mà trong đó có quan sát tổng thể. Liệu chính người giáo viên có thể có chất lượng chú ý này hay không? Và chỉ như vậy người giáo viên mới có thể giúp người khác được.
Trong hầu hết thời gian chúng ta tranh đấu chống lại những xao lãng. Không có những xao lãng. Giả sử rằng bạn đang mơ mộng hay cái trí của bạn đang lang thang; đó là điều gì đang thực sự xảy ra. Hãy quan sát việc đó. Quan sát đó là chú ý. Thế là không còn xao lãng.
Điều
này có thể được dạy dỗ cho những em học sinh, nghệ thuật
này có thể được học hỏi hay không? Các bạn chịu trách
nhiệm hoàn toàn về em học sinh; các bạn phải tạo ra bầu
không khí học hỏi này, một trạng thái nghiêm túc mà trong
đó có ý thức của tự do và hạnh phúc.
Ngày 01 tháng hai.
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-02-1979
Như
chúng ta đã vạch rõ nhiều lần trong những lá thư này, những
ngôi trường tồn tại chính yếu là tạo ra một thay đổi
sâu sắc trong những con người. Người giáo dục hoàn toàn
chịu trách nhiệm về việc này. Nếu người giáo dục không
nhận ra yếu tố trọng điểm này anh ấy sẽ chỉ đang giảng
giải cho em học sinh trở thành một người kinh doanh, một
kỹ sư, một luật sư, hay một người chính trị. Có quá nhiều
giáo viên dường như không có khả năng thay đổi chính bản
thân họ hay xã hội của họ. Trong cấu trúc hiện nay của
xã hội những luật sư và những người kinh doanh có lẽ là
cần thiết, nhưng khi những ngôi trường này hiện hữu thì
mục đích của nó là, và luôn luôn tồn tại như vậy, thay
đổi con người thật sâu thẳm. Những giáo viên trong những
ngôi trường này nên thực sự hiểu rõ điều này, không phải
bằng trí năng, không phải như một ý tưởng, nhưng bởi vì
họ thấy được ngụ ý đầy đủ của điều này bằng toàn
thân tâm của họ. Chúng ta quan tâm đến sự phát triển tổng
thể của một con người, không chỉ quan tâm đến sự tích
lũy hiểu biết.
Những
ý tưởng và những lý tưởng là một sự việc, và một sự
kiện, một điều đang xảy ra thực sự lại là một sự việc
khác. Hai sự việc này không bao giờ có thể theo cùng nhau.
Những lý tưởng đã được áp đặt vào những sự kiện
và bóp méo điều gì đã xảy ra để tuân theo điều gì nên
là, cái lý tưởng. Lý tưởng là một kết luận được rút
ra từ điều gì đang xảy ra và hy sinh thực tại để tuân
theo cái đó mà đã được lý tưởng hóa. Việc này đã là
qui trình của hàng ngàn năm và mọi học sinh lẫn tất cả
những bậc trí thức đã say sưa hưởng thụ trong sự hình
thành những lý tưởng. Lẩn tránh cái gì là, là bắt đầu
công việc phân hóa cái trí. Sự phân hóa này thâm nhập tất
cả những tôn giáo, chính trị và giáo dục, tất cả liên
hệ của con người. Hiểu rõ qui trình lẩn tránh này và vượt
khỏi nó là sự quan tâm của chúng ta.
Những
lý tưởng làm phân hóa cái trí: chúng được sinh ra từ những
ý tưởng, những nhận xét và hy vọng. Những ý tưởng là
những xao lãng của cái gì là và bất kỳ ý tưởng nào hay
kết luận nào về điều gì đang thực sự xảy ra làm biến
dạng điều gì đang xảy ra, và vì thế sự phân hoá xảy
ra. Nó chuyển chú ý đi khỏi sự kiện, cái gì là, và vì
vậy điều khiển chú ý đến những tưởng tượng. Chuyển
động đi khỏi sự kiện này đã tạo ra những biểu tượng,
những hình ảnh, mà sau đó chiếm lĩnh sự quan trọng nhất.
Chuyển động đi khỏi sự kiện này là sự phân hóa của
cái trí. Những con người buông thả trong chuyển động đi
khỏi này trong những lúc nói chuyện, trong những liên hệ
của họ, trong hầu hết mọi thứ họ làm. Sự kiện được
diễn giải ngay lập tức thành một ý tưởng hay một kết
luận mà sau đó ra lệnh những phản ứng của chúng ta. Khi một điều gì đó được nhìn thấy, ngay lập tức tư
tưởng làm một bản sao và bản sao đó trở thành sự thật.
Bạn nhìn thấy một con chó và ngay lập tức tư tưởng quay
sang bất kỳ hình ảnh nào bạn có lẽ có về những con chó,
và thế là bạn không bao giờ nhìn thấy con chó đó.
Điều
này có thể được dạy dỗ cho những em học sinh: hãy ở
cùng sự kiện, điều gì thực sự đang xảy ra ngay lúc này,
dù rằng nó thuộc tâm lý hay ở phía bên ngoài, hay không?
Hiểu biết không là sự kiện; nó nói về sự kiện và việc
đó có vị trí thích hợp của nó, nhưng hiểu biết ngăn cản
trực nhận cái gì là thực sự; vậy thì phân hóa xảy ra.
Hiểu
rõ điều này rất quan trọng cho chúng ta. Những lý tưởng
được nghĩ là cao quí, được tán dương, có một ý nghĩa
quyết định, và điều gì đang thực sự xảy ra được coi
như là chỉ thuộc giác quan, thuộc thế tục và thuộc giá
trị thấp hơn. Những trường học khắp thế giới có mục
đích, lý tưởng được đề cao tán dương nào đó; vì vậy
họ đang giáo dục những em học sinh trong sự phân hóa.
Điều
gì phân hóa cái trí? Chúng ta đang sử dụng từ ngữ cái trí
để ám chỉ những tri giác, khả năng để suy nghĩ và bộ
não mà lưu trữ tất cả những ký ức và những trải nghiệm
như hiểu biết. Chuyển động toàn bộ này là cái trí. Ý
thức cũng như tiềm thức, một tầng tạm gọi là siêu ý
thức – toàn bộ những cái này là cái trí. Chúng ta đang
hỏi điều gì là những nhân tố, những hạt giống của phân
hóa trong tất cả việc này? Chúng ta đã nói rằng những lý
tưởng gây phân hóa. Cũng vậy hiểu biết gây phân hóa cái
trí. Hiểu biết, riêng biệt hay phổ biến, là chuyển động
của quá khứ, và khi quá khứ tỏa bóng lên sự kiện, thực
tại, sự phân hóa xảy ra. Hiểu biết, được chiếu rọi
vào tương lai và hướng dẫn điều gì đang xảy ra ngay lúc
này, là phân hóa. Chúng ta đang sử dụng từ ngữ phân hóa
để có nghĩa rằng cái đó mà đang bị vỡ ra, cái đó mà
không được coi là một nguyên vẹn. Sự kiện không bao giờ
có thể bị vỡ ra; sự kiện không bao giờ có thể bị giới
hạn bởi hiểu biết. Sự nguyên vẹn của sự kiện mở cánh
cửa vào vô hạn. Nguyên vẹn không thể nào bị phân chia;
nó không tự mâu thuẫn; nó không thể phân chia chính nó. Nguyên
vẹn, tổng thể là chuyển động vô hạn.
Bắt
chước, tuân phục là một trong những nhân tố lớn lao của
sự phân hóa cái trí; mẫu mực, người anh hùng, đấng cứu
rỗi, vị đạo sư, là cái nhân tố hủy hoại to lớn nhất
của phân hóa. Tuân theo, vâng lời, qui phục, là khước từ
tự do. Tự do ngay từ khởi đầu không phải ở khúc cuối.
Nó không là tuân phục, bắt chước, chấp nhận trước và
cuối cùng mới tìm ra tự do. Đó là tinh thần của chủ nghĩa
độc tài, dù rằng của vị đạo sư hay của vị giáo sĩ.
Đây là sự hung bạo, sự nhẫn tâm, của người độc tài,
của uy quyền, của vị đạo sư hay của vị giáo sĩ có chức
vụ cao.
Vì
vậy uy quyền là phân hóa. Uy quyền là sự phá vỡ tánh hòa
đồng, tánh tổng thể, tánh nguyên vẹn – uy quyền của một
người giáo viên trong một trường học, uy quyền của một
mục đích, của một lý tưởng, của cái con người mà nói
rằng ta biết, uy quyền của một học viện, một tổ chức.
Áp lực của uy quyền trong bất kỳ hình thức nào là nhân
tố xuyên tạc của sự phân hóa. Theo căn bản uy quyền khước
từ tự do. Chức năng của một giáo viên trung thực là hướng
dẫn, giải thích, thông tin, mà không có ảnh hưởng gây phân
hóa của uy quyền. Uy quyền của so sánh gây hủy diệt. Khi
một em học sinh bị so sánh với một em khác, cả hai đều
đang bị tổn thương. Sống không còn so sánh là sống cùng
tánh hòa đồng.
Liệu
bạn, người giáo viên có làm được việc này hay không?
Ngày 15 tháng hai
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-02-1979
Có
vẻ rằng con người có những sức lực khổng lồ của năng
lượng. Họ đã lên đến mặt trăng, đã leo những đỉnh
núi cao nhất của quả đất, họ có năng lượng khủng khiếp
cho những cuộc chiến tranh, cho những dụng cụ của chiến
tranh, và năng lượng to lớn dành cho sự phát triển công nghệ,
tích lũy cái hiểu biết vô biên mà con người đã thâu lượm
được, làm việc mỗi ngày, năng lượng để xây dựng những
kim tự tháp và tìm hiểu nguyên tử. Khi người ta xem xét tất
cả việc này, thật là kinh ngạc khi nhận ra năng lượng đã
bị lãng phí đi. Năng lượng này đã dùng vào sự tìm hiểu
những sự việc phía bên ngoài, nhưng con người chẳng dành
ra bao nhiêu năng lượng để tìm hiểu vào toàn thể cấu trúc
tâm lý của chính anh ta. Năng lượng được cần thiết, cả
phía bên ngoài lẫn phía bên trong, để hành động hay để
hoàn toàn yên lặng.
Hành
động và không-hành động đòi hỏi năng lượng lớn lao.
Chúng ta đã sử dụng năng lượng một cách tích cực trong
những cuộc chiến tranh, trong khi viết những quyển sách, trong
những cuộc giải phẩu, và làm việc dưới đại dương. Không-
hành động đòi hỏi hành động còn nhiều hơn là hành động
tạm gọi là tích cực. Hành động tích cực là kiểm soát,
hỗ trợ, tẩu thoát. Không-hành động là sự chú ý tổng
thể của quan sát. Trong quan sát này cái đó mà đang được
quan sát trải qua một thay đổi. Quan sát yên lặng này đòi
hỏi không chỉ năng lượng vật chất mà còn cả năng lượng
tâm lý sâu thẳm. Chúng ta đã quen thuộc với hành động tích
cực và sự quy định này giới hạn năng lượng của chúng
ta. Trong sự quan sát yên lặng, tổng thể, mà là không-hành
động, không có tiêu dùng năng lượng và vì vậy năng lượng
vô giới hạn.
Không-hành
động không là sự đối nghịch của hành động. Đi làm việc
hàng ngày, năm này qua năm khác trong nhiều năm, mà có lẽ
cần thiết như những công việc đó, gây giới hạn; nhưng
không làm việc không có nghĩa rằng bạn sẽ có năng lượng
vô giới hạn. Sự lờ đờ của cái trí là một lãng phí
của năng lượng giống như sự lười biếng của thân thể.
Giáo dục của chúng ta trong nhiều lĩnh vực làm chật hẹp
năng lượng này. Cách sống của chúng ta, mà là cuộc đấu
tranh liên tục để trở thành hay để không trở thành là
lãng phí năng lượng.
Năng
lượng là không thời gian và không dành cho đo lường. Nhưng
những hành động của chúng ta lại có thể đo lường được
và thế là chúng ta chuyển năng lượng vô giới hạn này sang
vòng tròn chật hẹp của cái tôi lệ thuộc. Và khi đã giới
hạn nó lại rồi, sau đó chúng ta lại tìm kiếm để có được
cái vô giới hạn. Sự tìm kiếm này là một phần của hành
động tích cực và vì vậy là một lãng phí của năng lượng
thuộc tâm lý. Vì vậy có một chuyển động không ngừng nghỉ
trong cái kho lưu trữ của cái tôi lệ thuộc.
Điều
gì chúng ta quan tâm trong giáo dục là làm tự do cái trí khỏi
cái tôi lệ thuộc. Như chúng ta đã nói vào nhiều dịp trong
những lá thư này, chính chức năng của chúng ta là tạo ra
một thế hệ mới được tự do khỏi năng lượng bị giới
hạn này mà được gọi là cái tôi lệ thuộc. Chúng ta phải
lặp đi lặp lại rằng những ngôi trường này tồn tại cho
mục đích tạo ra điều này.
Trong
lá thư trước, chúng ta đã nói về sự phân hoá của cái
trí. Gốc rễ của sự phân hoá này là cái tôi lệ thuộc.
Cái tôi lệ thuộc là hình ảnh, bức tranh, thế giới mà được
chuyển đi từ thế hệ này sang thế hệ khác, và người ta
phải tranh đấu với sức nặng truyền thống của cái tôi
lệ thuộc. Nó là sự kiện – không là kết luận của sự
kiện này hay làm thế nào sự kiện này đã hiện hữu được
– mà giải thích rất rõ ràng; nhưng quan sát sự kiện với
tất cả những phản ứng của nó, mà không có một động
cơ để gây biến dạng sự kiện, là hành động tiêu cực.
Hành động này sau đó chuyển đổi sự kiện. Rất quan trọng
cho chúng ta hiểu rõ việc này một cách sâu sắc; không phải
hành động vào sự kiện nhưng quan sát cái gì là, sự kiện.
Mỗi
con người đều bị thương tổn cả phần tâm lý lẫn phần
thân thể. Giải quyết sự đau đớn thân thể tương đối
dễ dàng nhưng đau khổ tâm lý thì vẫn còn ẩn nấp
đâu đó. Kết quả của vết thương tâm lý là xây dựng một
bức tường quanh chính mình, kháng cự sự đau khổ thêm nữa
và vì thế trở nên sợ hãi hay rút lui vào trạng thái cô
lập. Vết thương đó đã bị gây ra bởi hình ảnh của cái
tôi lệ thuộc năng lượng bị giới hạn của nó. Bởi vì
nó bị giới hạn nên nó bị tổn thương. Cái không thể đo
lường được không bao giờ có thể bị hư hại, không bao
giờ có thể bị phân hóa. Bất kỳ cái gì bị giới hạn
đều có thể bị tổn thương nhưng cái tổng thể vượt ngoài
tầm với của tư tưởng.
Liệu
người giáo dục có thể giúp đỡ em học sinh không bao giờ
bị tổn thương tâm lý, không chỉ trong khi em là thành viên
của ngôi trường nhưng suốt cuộc đời của em, hay không?
Nếu người giáo dục thấy được sự tổn hại ghê gớm
được sinh ra từ vết thương này, vậy thì anh ấy sẽ dạy
dỗ em học sinh như thế nào đây? Anh ấy sẽ thực sự làm
gì để thấy rằng người học sinh không bao giờ bị tổn
thương suốt cuộc đời em? Người học sinh đến ngôi trường
này đã bị tổn thương sẵn rồi. Có thể em không nhận thức
được sự tổn thương này. Người giáo viên qua quan sát những
phản ứng của em, những sợ hãi và những hung hăng của em,
sẽ khám phá ra sự tổn hại đã được gây ra. Vì thế người
giáo viên có hai vấn đề: làm tự do em học sinh khỏi những
tổn hại của quá khứ và ngăn ngừa những vết thương của
tương lai. Đây có là điều quan tâm của bạn hay không? Hay
bạn chỉ đọc lá thư này, hiểu nó bằng trí năng, mà là
không hiểu rõ gì cả, và vì vậy chẳng thèm quan tâm gì đến
em học sinh? Nhưng nếu bạn quan tâm, như bạn nên như thế,
bạn sẽ làm gì với sự kiện này – rằng em bị tổn thương
và bạn phải ngăn ngừa bằng mọi phương cách, mọi nỗ lực
những tổn thương thêm nữa? Bạn tiếp cận vấn đề này
như thế nào đây? Trạng thái cái trí của bạn ra sao khi bạn
đối diện vấn đề này? Nó cũng là vấn đề của bạn,
không chỉ là vấn đề của em học sinh. Bạn bị tổn thương
và em học sinh cũng vậy. Vì vậy cả hai đều phải quan tâm:
nó không là vấn đề của một phía; bạn cũng liên quan nhiều
bằng em học sinh. Sự liên quan này là yếu tố trọng điểm
mà bạn phải đối mặt, phải quan sát. Chỉ có một ham muốn
được tự do khỏi vết thương quá khứ của bạn và hy vọng
không bao giờ bị tổn thương lại là một lãng phí của năng
lượng. Chú ý hoàn toàn, quan sát sự kiện này sẽ không chỉ
kể câu chuyện của chính vết thương đó, nhưng chính chú
ý này xô đẩy đi, quét sạch đi sự tổn thương.
Vì
vậy chú ý là năng lượng vô biên này mà không bao giờ có
thể bị tổn thương hay phân hoá. Làm ơn hãy đừng chấp
nhận điều gì được nói trong những lá thư này. Chấp nhận
là hủy diệt sự thật. Hãy thử nghiệm nó đi – không phải
vào một ngày tháng nào đó trong tương lai, nhưng thử nghiệm
nó ngay khi bạn đọc lá thư này. Khi bạn thử nghiệm nó,
không lơ là cẩu thả nhưng bằng tất cả thân tâm của bạn,
lúc đó bạn sẽ khám phá cho chính mình sự thật của vấn
đề. Và rồi chỉ đến lúc đó bạn mới có thể giúp đỡ
em học sinh xóa sạch quá khứ đồng thời có một cái trí
không còn có thể bị tổn thương nữa.
Ngày 01 tháng ba
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-03-1979
Những
lá thư này được viết trong tinh thần bằng hữu. Chúng không
cố ý chi phối cách suy nghĩ của bạn hay thuyết phục bạn
tuân theo điều gì người viết suy nghĩ hay cảm thấy. Chúng
không là tuyên truyền. Đây thực sự là một cuộc đối thoại
giữa bạn và người viết, hai người bạn đang nói chuyện
với nhau về những vấn đề của họ, và trong tình bạn bè
tốt lành như thế này không bao giờ có bất kỳ ý nghĩa nào
của ganh đua hay chi phối. Cũng vậy bạn chắc đã quan sát
tình trạng thế giới và xã hội của chúng ta, và rằng là
phải có một thay đổi cơ bản trong cách sống của những
con người, sự liên hệ của họ với nhau, sự liên hệ của
họ với thế giới như một tổng thể và trong mọi hình thái
khác. Chúng ta đang nói chuyện cùng nhau, cả hai đều quan tâm
rất sâu sắc, không chỉ với những cái tôi riêng biệt của
chúng ta, nhưng còn đối với những em học sinh mà bạn hoàn
toàn chịu trách nhiệm. Người giáo viên là người quan trọng
nhất trong ngôi trường vì hạnh phúc và tương lai của nhân
loại đều tuỳ thuộc vào thầy giáo hay cô giáo. Đây không
là một câu phát biểu thuần túy bằng từ ngữ. Đây là một
sự thật tuyệt đối và không thể chối cãi được. Chỉ
khi nào chính người giáo dục cảm thấy sự cao quí và sự
kính trọng hoàn toàn trong công việc của anh ấy, anh ấy mới
ý thức rằng dạy học là nghề nghiệp thiêng liêng nhất,
quan trọng hơn nghề nghiệp của nhà chính trị, đáng kính
hơn những vị hoàng tử của thế giới. Người viết có dụng
ý trong mỗi từ ngữ của câu này và vì vậy làm ơn đừng
gạt nó qua một bên như là khoe khoang phóng đại hay một gắng
sức để làm cho bạn cảm thấy một quan trọng giả dối.
Bạn và những em học sinh phải cùng cùng nhau nở hoa trong
tốt lành.
Chúng
ta đã trình bày rõ ràng những nhân tố gây phân hóa hay gây
suy đồi của cái trí. Vì xã hội đang phân hóa, những ngôi
trường này phải là trung tâm cho sự tái sinh của cái trí.
Không phải của tư tưởng. Tư tưởng không bao giờ có thể
tái sinh được bởi vì tư tưởng luôn luôn bị giới hạn,
nhưng sự tái sinh tánh tổng thể của cái trí lại có thể
được. Sự có thể được này không là khái niệm nhưng thực
sự khi người ta đã suy xét tìm hiểu kỹ càng những phương
cách của thoái hóa. Trong những lá thư trước chúng ta đã
tìm hiểu một số phương cách này.
Bây
giờ chúng ta cũng phải tìm hiểu bản chất phá hoại của
truyền thống, của thói quen và của những hình thức lặp
đi lặp lại của tư tưởng. Tuân theo, chấp nhận truyền
thống, có vẻ đem lại một an toàn nào đó cho cuộc sống
của người ta, cả bên ngoài lẫn bên trong. Sự tìm kiếm
an toàn bằng mọi cách có thể được đã là động cơ, cái
sức mạnh điều khiển trong hầu hết mọi hành động của
chúng ta. Sự đòi hỏi có an toàn tâm lý phủ bóng lên an toàn
thân thể và vì vậy làm cho an toàn thân thể không còn vững
chắc nữa. An toàn tâm lý này là nền tảng của truyền thống
được chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác qua
những từ ngữ, qua những nghi lễ, qua những niềm tin – dù
rằng đó là tôn giáo, chính trị hay xã hội. Chúng ta hiếm
khi nào đặt câu hỏi về khuôn mẫu đã được chấp nhận
này nhưng khi chúng ta đặt câu hỏi chúng ta lại luôn luôn
rơi vào một cái bẫy trong một khuôn mẫu mới. Đây đã là
cách sống của chúng ta: cự tuyệt cái này và chấp nhận
cái khác. Cái mới mẻ thì lý thú và quyến rũ hơn, và cái
cũ kỹ được để lại cho thế hệ đã qua. Nhưng cả hai
thế hệ đều bị trói buộc trong những khuôn mẫu, trong những
hệ thống và đây là chuyển động của truyền thống. Chính
từ ngữ truyền thống ám chỉ sự tuân phục, dù hiện đại
hay cổ xưa. Không có truyền thống tốt hay xấu: chỉ có truyền
thống, sự lặp lại hão huyền của nghi lễ trong tất cả
những nhà thờ, những đền chùa và những thánh đường.
Chúng hoàn toàn vô nghĩa, nhưng cảm xúc, cảm tính, lãng mạn,
tưởng tượng tô điểm cho chúng màu sắc và ảo tưởng.
Đây là bản chất của mê tín và mọi giáo sĩ trong thế giới
đều khuyến khích nó. Qui trình buông thả trong những sự
việc không có ý nghĩa hay đóng góp trong những sự việc không
quan trọng là sự lãng phí của năng lượng mà gây thoái hóa
cho cái trí. Người ta phải ý thức sâu sắc được những
sự việc này và chính chú ý đó xóa tan đi tất cả những ảo tưởng.
Vậy
thì có thói quen. Không có những thói quen tốt hay xấu; chỉ
có thói quen. Thói quen ngụ ý một hành động lặp đi lặp
lại mà phát sinh do bởi không ý thức. Người ta rơi vào những
thói quen một cách cố ý hay bị thuyết phục qua tuyên truyền;
hay, bởi vì sợ hãi, nên người ta rơi vào những phản xạ
tự bảo vệ. Nó cũng giống như vậy với vui thú. Tuân theo
một công việc đều đặn này, dù rằng hiệu quả hay cần
thiết trong cuộc sống hàng ngày bao nhiêu chăng nữa, có thể
dẫn dắt, và thông thường là như vậy, đến một cách sống
máy móc. Người ta có thể làm cùng công việc vào cùng một
giờ mỗi ngày mà nó không trở thành một thói quen khi có
tỉnh thức được công việc gì đang làm. Chú ý xua tan thói
quen. Chỉ khi nào không có chú ý thì những thói quen mới được
hình thành. Bạn có thể dậy sớm cùng một giờ mỗi buổi
sáng và bạn biết tại sao bạn lại đang dậy sớm. Tỉnh
thức này có lẽ hiện ra cho một người khác như một thói
quen, tốt hay xấu, nhưng thật ra với cái người mà tỉnh
thức, là chú ý, không có thói quen gì cả. Chúng ta rơi vào
những thói quen tâm lý hay những lề thói tâm lý bởi vì chúng
ta nghĩ rằng nó là cách sống thoải mái nhất và khi bạn
quan sát tỉ mỉ thậm chí những thói quen được hình thành
trong liên hệ, cá nhân hay với người khác, bạn sẽ phát
giác một chất lượng nào đó của sự lười biếng, cẩu
thả và bất chấp. Tất cả điều này tạo ra một ý thức
giả dối của tình thân mật, sự an toàn và sự độc ác
dễ dãi. Có mọi nguy hiểm trong thói quen: thói quen hút thuốc,
hành động lặp lại, sử dụng những từ ngữ, tư tưởng
hay cách cư xử. Việc này làm cho cái trí hoàn toàn mất nhạy
cảm và qui trình thoái hóa là để tìm ra một hình thức an
toàn ảo tưởng nào đó như một quốc gia, một niềm tin hay
một lý tưởng và bám vào nó. Tất cả những nhân tố này
rất hủy hoại đến an toàn thực sự. Chúng ta sống trong
một thế giới ảo tưởng mà đã trở thành một thực tế.
Tìm hiểu thế giới ảo tưởng này hoặc trở thành một người
cách mạng hoặc chấp nhận sự dễ dãi lơi lỏng. Cả hai
sự việc này là những nhân tố của thoái hóa.
Rốt
cuộc, bộ não với khả nămg phi thường của nó đã bị điều
kiện từ thế hệ này qua thế hệ khác để chấp nhận sự
an toàn giả dối này, mà bây giờ đã trở thành một thói
quen bám rễ sâu. Để phá vỡ những thói quen này chúng ta
trải qua nhiều hình thức khác nhau của tra tấn hành hạ,
vô số những tẩu thoát, hay quăng chúng ta vào một lý tưởng
không tưởng nào đó và vân vân. Chính là vấn đề của người
giáo dục để tìm hiểu, và khả năng sáng tạo của anh ấy
nằm trong việc quan sát rất chặt chẽ tình trạng bị điều
kiện bám rễ sâu của anh ấy và tình trạng đó của em học
sinh. Đây là một tiến trình qua lại hỗ tương: không phải
rằng bạn tìm hiểu tình trạng bị điều kiện của bạn
trước và sau đó bạn loan báo cho người khác về những khám
phá của bạn, nhưng cùng nhau tìm hiểu và tìm ra sự thật
của vấn đề. Công việc này đòi hỏi một chất lượng
nào đó của kiên nhẫn; không phải sự kiên nhẫn của thời
gian nhưng sự kiên trì và sự chăm sóc ân cần của trách
nhiệm tổng thể.
Ngày 15 tháng ba
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-03-1979
Chúng
ta đã trở nên quá khôn ngoan. Bộ não của chúng ta đã được
đào tạo để rất thông minh theo từ ngữ, theo trí năng. Chúng
bị nhồi nhét đầy thông tin và chúng ta sử dụng thông tin
này cho một nghề nghiệp gây lợi lộc. Một con người trí
thức khôn ngoan được tán thưởng, được tôn vinh. Những
con người như thế dường như đã cướp tất cả những vị
trí quan trọng trong thế giới này: họ có quyền hành, chức
vụ, thanh danh. Nhưng cuối cùng sự khôn ngoan của họ lại
phản bội chính họ. Trong tâm hồn họ, họ không bao giờ
biết được tình yêu hay từ tâm và lòng quảng đại sâu
xa là gì, bởi vì họ bị bao bọc trong hãnh tiến và ngạo
mạn của họ. Điều này đã trở thành khuôn mẫu của tất
cả những trường học chất lượng cao. Một em nam sinh hay
nữ sinh được thâu nhận vào những trường học như thế,
không thoát khỏi nền văn minh hiện đại và mất đi vẻ đẹp
tổng thể của cuộc sống.
Khi
bạn lang thang qua những cánh rừng có những cái bóng sậm
và ánh sáng lấp lánh và bỗng nhiên bắt gặp được một
khoảng không gian rộng mở, một cánh đồng xanh tươi được
vây quanh bởi những cây cối uy nghi – hay một dòng suối
lóng lánh, bạn tự hỏi tại sao con người đã mất đi sự
liên hệ với thiên nhiên và vẻ đẹp của quả đất, chiếc
lá rơi và cành cây gãy. Nếu bạn đã mất đi sự liên hệ
với thiên nhiên, vậy thì rõ ràng bạn sẽ mất đi sự liên
hệ với mọi sự vật khác. Thiên nhiên không chỉ là những
đóa hoa, bãi cỏ xanh tươi đẹp đẽ hay những dòng nước
đang chảy trong ngôi vườn nhỏ xíu của bạn, nhưng thiên
nhiên là toàn quả đất cùng tất cả những sự vật trên
nó. Chúng ta nghĩ rằng thiên nhiên tồn tại cho chúng ta sử
sụng, cho tiện nghi của chúng ta, vì vậy mất đi sự hiệp
thông cùng quả đất. Nhạy cảm đến chiếc lá rơi và cái
cây cao trên quả đồi này còn quan trọng hơn vượt qua mọi
kỳ thi và có một nghề nghiệp thành công. Những sự việc
như thế không là trọn vẹn, tổng thể của cuộc sống. Cuộc
sống giống như một con sông rộng lớn thênh thang với một
khối lượng nước khổng lồ không có cả khởi đầu lẫn
kết thúc. Chúng ta đã lấy đi từ cái dòng chảy cuồn cuộn
đó một xô nước và lượng nước tù tội bị giới hạn
đó trở thành cuộc sống của chúng ta. Đây là tình trạng
bị điều kiện của chúng ta cùng nỗi khốn khổ vô tận
của chúng ta. Chuyển động của tư tưởng không là vẻ đẹp.
Tư tưởng có thể tạo ra cái gì có vẻ như là vẻ đẹp
– bức tranh, bức tượng bằng đá cẩm thạch hay bài thơ
dễ thương – nhưng đây không là vẻ đẹp. Vẻ đẹp là
nhạy cảm tột đỉnh, không phải theo ý nghĩa của những
đau khổ và những lo âu riêng của người ta, mà theo ý nghĩa
bao phủ tổng thể sự tồn tại của con người. Có vẻ đẹp
chỉ khi nào dòng chảy của cái tôi lệ thuộc hoàn toàn kết
thúc. Khi cái tôi không còn, vẻ đẹp xuất hiện. Khi buông
bỏ cái tôi, niềm đam mê của vẻ đẹp hiện hữu.
Cùng
nhau trong những lá thư này, chúng ta đang bàn về sự thoái
hóa của cái trí. Chúng ta đã vạch rõ một số phương cách
của thoái hóa để cho bạn tìm hiểu và suy xét. Một trong
những hoạt động căn bản của nó là tư tưởng. Tư tưởng
là vật phá vỡ tánh tổng thể của cái trí. Tổng thể chứa
đựng một phần, nhưng một phần không bao giờ có thể là
tổng thể. Tư tưởng là phần năng động nhất của cuộc
sống chúng ta. Cảm thấy theo cùng tư tưởng. Thuộc căn bản
chúng là một mặc dù chúng ta có khuynh hướng tách rời
chúng. Khi tách rời chúng ra rồi, chúng ta lại trao quan trọng
nhiều cho cảm thấy, cho cảm tính, cho lãng mạn và hiến dâng,
nhưng tư tưởng, giống như một sợi dây trong chuỗi hạt
đeo cổ, đan quyện chính nó qua tất cả các hạt, che giấu,
sinh động, đang kiểm soát và đang định hình. Tư tưởng
luôn luôn ở đó, mặc dù chúng ta thích suy nghĩ rằng những
cảm xúc sâu sắc của chúng ta là khác biệt. Trong suy nghĩ
này đã tiềm ẩn sẵn ảo tưởng lớn lao, một dối lừa
rất được coi trọng và dẫn đến gian manh.
Như
chúng ta đã nói, tư tưởng là nhân tố thực sự của cuộc
sống hàng ngày của chúng ta. Tất cả những quyển sách tạm
gọi là thiêng liêng đều là sản phẩm của tư tưởng. Chúng
có lẽ được sùng bái như điều mặc khải nhưng theo căn
bản chúng vẫn là tư tưởng. Tư tưởng đã đặt vào những
bộ phận của máy phát điện và xây dựng những đền chùa
đồ sộ của quả đất, hỏa tiễn, và sự thù địch trong
con người. Tư tưởng phải chịu trách nhiệm cho những cuộc
chiến tranh, cho ngôn ngữ người ta sử dụng và cho cái hình
ảnh được làm bằng tay hay bằng cái trí. Tư tưởng chi phối
sự liên hệ. Tư tưởng đã miêu tả tình yêu, bầu trời
và nỗi đau đớn của đau khổ là gì. Con người thờ phụng
tư tưởng, ngưỡng vọng sự tinh tế của nó, sự ranh mãnh
của nó, sự bạo hành của nó, sự tàn nhẫn vì một nguyên
nhân của nó. Tư tưởng đã tạo ra những tiến bộ lớn lao
trong công nghệ và theo cùng nó là một khả năng dành cho sự
hủy diệt. Đây đã là câu chuyện của tư tưởng được
lặp đi lặp lại qua hàng thế kỷ.
Tại
sao con người lại trao sự quan trọng lạ lùng cho tư tưởng
như thế? Đó có phải bởi vì nó là một vật duy nhất mà
chúng ta có, mặc dù nó được kích động qua những giác quan?
Đó có phải bởi vì tư tưởng đã có thể thống trị thiên
nhiên, chi phối môi trường chung quanh nó, đã tạo ra được
sự an toàn vật chất nào đó? Đó có phải bởi vì nó là
cái dụng cụ quan trọng nhất mà qua đó con người có thể
vận hành, sống và hưởng lợi? Đó có phải bởi vì tư tưởng
đã tạo ra những thần thánh, những đấng cứu rỗi, trạng
thái siêu ý thức, để quên đi lo âu, sợ hãi, đau khổ, ganh
tị và tội lỗi? Đó có phải bởi vì nó đã giam giữ con
người vào chung với nhau như một quốc gia, như một tổ chức,
như một giáo phái? Đó có phải bởi vì nó tặng niềm hy
vọng cho một cuộc đời tối tăm? Đó có phải bởi vì nó
trao một cửa ngõ để tẩu thoát khỏi những cách sống hàng
ngày nhàm chán của cuộc đời chúng ta? Đó có phải bởi
vì không biết tương lai là gì, nó cung cấp an toàn của quá
khứ, sự ngạo mạn của nó, sự khăng khăng cả quyết dựa
vào trải nghiệm của nó. Đó có phải bởi vì trong hiểu
biết có sự bền vững, sự lẩn tránh sợ hãi trong vững
chắc của cái đã được biết? Đó có phải bởi vì tư tưởng
trong chính nó đã đảm trách một vị trí kiên cố, đã là
một nền tảng vững chắc để chống lại cái không biết
được? Đó có phải bởi vì tình yêu là không tính toán,
không thể đo lường được, trong khi tư tưởng lại đo lường
được và kháng cự lại chuyển động không thay đổi của
tình yêu?
Chúng
ta không bao giờ tra xét bản chất thực sự của tư tưởng.
Chúng ta đã chấp nhận tư tưởng như một vật hiển nhiên,
giống như đôi mắt và đôi chân của chúng ta. Chúng ta không
bao giờ thăm dò vào chiều sâu của tư tưởng: và bởi vì
chúng ta không bao giờ tìm hiểu nó, nó đảm trách một vai
trò quan trọng nhất. Nó là kẻ độc tài của cuộc sống
chúng ta và những kẻ độc tài hiếm khi nào bị thách thức.
Vì
vậy là những người giáo dục chúng ta sẽ phơi bày nó dưới
ánh sáng rực rỡ của quan sát. Ánh sáng của quan sát không
những ngay tức khắc xua tan ảo tưởng nhưng sự rõ ràng của
ánh sáng này bộc lộ những chi tiết nhỏ nhiệm nhất của
cái đó mà đang được quan sát. Như chúng ta đã nói, quan
sát không xuất phát từ một điểm cố định, một niềm
tin, thành kiến hay kết luận. Quan điểm là một yếu tố
không công bằng lắm và trải nghiệm cũng như vậy. Con người
của trải nghiệm là một con người nguy hiểm bởi vì anh
ấy bị trói buộc trong nhà tù hiểu biết riêng của anh ấy.
Vì
vậy liệu bạn có thể quan sát toàn bộ chuyển động của
tư tưởng bằng sự rõ ràng lạ thường hay không? Ánh sáng
này là tự do: nó không có nghĩa rằng bạn chiếm đoạt nó
và tận dụng nó cho mục đích thuận tiện và lợi lộc của
bạn. Chính sự quan sát tư tưởng là sự quan sát toàn bộ
thân tâm của bạn và chính thân tâm này được đặt vào
chung bởi tư tưởng. Vì tư tưởng có hạn định, bị giới
hạn, bạn cũng vậy.
Ngày 01 tháng tư
Thư
gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-04-1979
Chúng
ta vẫn còn quan tâm đến tánh tổng thể của cái trí. Cái
trí bao gồm những khả năng suy nghĩ, những cảm xúc thất
thường của bộ não và tư tưởng luôn luôn khuấy động.
Tất cả những việc này là cái trí, gồm cả những phẩm
chất khác nhau của ý thức. Khi cái trí tổng thể đang vận
hành nó không có giới hạn, nó có một năng lượng to lớn
và hành động không có bóng của tiếc nuối hay hứa hẹn
của phần thưởng. Chất lượng của cái trí này, tánh tổng
thể này là thông minh. Liệu thông minh này có thể được
chuyển tải cho em học sinh và giúp đỡ cậu bé hay cô bé
mau chóng nắm bắt được ý nghĩa của nó hay không? Chắc
chắn đó là trách nhiệm của người giáo dục phải tạo
ra sự việc này.
Khả
năng của tư tưởng bị định hướng và kiểm soát bởi ham
muốn và thế là khả năng bị chật hẹp lại. Khả năng này
bị giới hạn bởi sự chuyển động của ham muốn: ham muốn
là bản thể của cảm xúc. Tham vọng giới hạn khả năng
của bộ não, mà là tư tưởng. Khả năng này bị kềm hảm
bởi những đòi hỏi của xã hội và kinh tế hay bởi trải
nghiệm và động cơ riêng của người ta. Nó bị chật hẹp
lại bởi một lý tưởng, bởi luật lệ của những niềm
tin tôn giáo khác nhau, bởi sự sợ hãi không bao giờ chấm
dứt. Sợ hãi không tách rời khỏi vui thú.
Ham
muốn – bản thể của cảm xúc – bị định hình bởi môi
trường sống, bởi truyền thống, bởi những khuynh hướng
và tính khí riêng của chúng ta. Và vẫn vậy khả năng hay
hành động mà đòi hỏi toàn bộ năng lượng bị điều kiện
tùy theo sự thoải mái và vui thú của chúng ta. Ham muốn là
một yếu tố thúc đẩy trong cuộc sống của chúng ta, không
phải để bị đè nén hay lẩn tránh, không phải để bị
nịnh nọt và lý luận, nhưng trái lại để được hiểu rõ.
Hiểu rõ này chỉ có thể hiện hữu qua sự tìm hiểu ham muốn
và sự quan sát chuyển động của ham muốn. Vì biết được
ngọn lửa thôi thúc của ham muốn, hầu hết những điều
cấm đoán của giáo phái và tôn giáo đã biến nó thành một
cái gì đó mà phải đè nén, kiểm soát hay giao phó – chuyển
qua, như nó đã là, qua một vị thần thánh hay một nguyên
tắc. Vô số những lời thề đã được con người thực hiện
để khước từ hoàn toàn ham muốn đã không làm cách nào
tiêu hủy nó được. Nó vẫn còn ở đó.
Vì
vậy chúng ta phải tiếp cận nó một cách khác hẳn, luôn
luôn nhớ kỹ trong đầu óc rằng thông minh không đánh thức
được bởi ham muốn. Một ham muốn đi đến mặt trăng tạo
ra hiểu biết công nghệ khủng khiếp nhưng hiểu biết đó
là thông minh bị giới hạn. Hiểu biết luôn luôn được chuyên
nghiệp hóa và vì vậy không trọn vẹn, trái lại chúng ta
đang nói về thông minh mà là chuyển động của cái trí tổng
thể. Chúng ta chỉ quan tâm đến thông minh này đồng thời
đánh thức nó trong cả người giáo dục lẫn em học sinh.
Như
chúng ta đã nói từ trước, năng lượng bị giới hạn bởi
ham muốn. Ham muốn là cảm xúc, cảm xúc của trải nghiệm
mới, của những hình thức kích thích mới, cảm xúc khi leo
lên được những đỉnh núi cao nhất trên quả đất, cảm
xúc của quyền hành, của giai cấp. Tất cả những việc này
giới hạn năng lượng của bộ não. Ham muốn tạo ảo tưởng
của an toàn, và bộ não, mà cần an toàn, khuyến khích và
duy trì mọi hình thức của ham muốn. Vì vậy nếu chúng ta
không hiểu rõ phận sự của ham muốn, nó tạo ra sự thoái
hóa của cái trí. Đây là điều thực sự quan trọng cần
hiểu rõ.
Tư
tưởng là chuyển động của ham muốn này. Sự tò mò khám phá bị thôi thúc bởi ham muốn để có những cảm xúc
to lớn hơn và sự vững chắc ảo tưởng của an toàn. Sự
tò mò đã tạo ra một số lượng hiểu biết khổng lồ mà
có sự quan trọng của nó trong cuộc sống hàng ngày của chúng
ta. Sự tò mò có tầm quan trọng trong quan sát.
Tư
tưởng có lẽ là yếu tố chính cho sự thoái hóa của cái
trí, trái lại thấu triệt mở cánh cửa đến hành động
tổng thể. Chúng ta sẽ tìm hiểu đầy đủ ý nghĩa của thấu
triệt trong lá thư kế tiếp nhưng lúc này chúng ta phải
xem xét liệu tư tưởng có là một yếu tố hủy diệt tánh
tổng thể của cái trí hay không? Chúng ta đã nói rằng đúng
là như vậy. Đừng chấp nhận nó cho đến khi bạn đã tìm
hiểu nó thấu đáo và tự do.
Ý
của chúng ta qua từ ngữ tánh tổng thể của cái trí là khả
năng vô tận và sự trống không hoàn toàn mà trong đó có
được năng lượng vô hạn. Tư tưởng bởi chính bản chất
của nó đang bị giới hạn, áp đặt sự chật hẹp, sự giới
hạn của nó vào tánh tổng thể, và thế là tư tưởng luôn
luôn ở bên ngoài. Tư tưởng bị giới hạn bởi vì nó là
kết quả của ký ức và hiểu biết bị tích lũy nhờ trải
nghiệm. Hiểu biết là quá khứ và cái đã là luôn luôn bị
giới hạn. Hồi tưởng có thể chiếu rọi một tương lai.
Tương lai đó bị trói buộc vào quá khứ, vì vậy tư tưởng
luôn luôn bị giới hạn. Tư tưởng có thể đo lường được
– cái nhiều hơn và cái ít hơn, cái lớn hơn, cái nhỏ hơn.
Sự đo lường này là chuyển động của thời gian: tôi đã
là, tôi sẽ là. Vì vậy tư tưởng khi có quyền điều phối,
dù tinh tế, ranh mãnh và mạnh mẽ như thế nào chăng nữa,
làm biến đổi tánh tổng thể và chúng ta đã cho tư tưởng
sự quan trọng nhất.
Nếu
người ta được phép hỏi, sau khi đọc xong lá thư này, bạn
đã hiểu rõ ý nghĩa của bản chất của tư tưởng và tánh
tổng thể của cái trí hay chưa? Và nếu bạn hiểu rõ rồi,
liệu bạn có thể chuyển tải điều này cho em học sinh mà
là trách nhiệm tổng thể của bạn hay không? Đây là một
vấn đề khó khăn. Nếu bạn không có ánh sáng bạn không
thể giúp đỡ một người khác có được nó. Bạn có lẽ
giải thích rất rõ ràng hay định nghĩa nó trong những từ
ngữ đã được chọn lựa sẵn, nhưng nó sẽ không có đam
mê của sự thật.
Ngày 15 tháng tư
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-04-1979
Bất kỳ hình thức nào của xung đột, tranh đấu đều gây thoái hóa cái trí – cái trí là tổng thể tất cả sự hiện hữu của chúng ta. Chất lượng này bị hủy diệt khi có bất kỳ loại xung đột, bất kỳ loại mâu thuẫn nào. Vì hầu hết chúng ta đều sống trong một trạng thái xung đột và mâu thuẫn liên tục, trạng thái không trọn vẹn này đã gây thoái hóa. Ở đây chúng ta quan tâm khám phá cho chính mình liệu có thể tạo ra một kết thúc cho những yếu tố đã gây thoái hóa này hay không. Có lẽ hầu hết chúng ta không bao giờ suy nghĩ về việc này; chúng ta đã chấp nhận nó như một cách sống thông thường. Chúng ta đã thuyết phục chính mình rằng xung đột mang lại sự tăng trưởng – giống như ganh đua – và chúng ta có vô số giải thích khác nhau cho việc này: cái cây tranh đấu trong cánh rừng để có ánh sáng, đứa trẻ vừa được sinh ra tranh đấu để có hơi thở, người mẹ vất vả cực nhọc để sinh con. Chúng ta bị điều kiện để chấp nhận việc này và để sống theo phương cách này. Đây đã là phương cách của cuộc sống chúng ta trong những thế hệ và bất kỳ đề nghị nào về một phương cách sống không có xung đột dường như hoàn toàn không thể tin được. Bạn có lẽ lắng nghe điều này như một điều vô lý lý tưởng nào đó hay bác bỏ nó vì nói rằng nó vượt ngoài tầm tay, nhưng bạn không bao giờ suy xét liệu có bất kỳ ý nghĩa nào trong câu phát biểu rằng người ta có thể sống một cuộc sống không còn một cái bóng của xung đột. Khi chúng ta quan tâm đến tổng thể, hòa đồng và trách nhiệm tạo ra một thế hệ mới, vì chức năng duy nhất mà chúng ta có là những người giáo dục liệu bạn có thể tìm hiểu điều này hay không? Và trong khi tiến hành dạy dỗ liệu bạn có thể chuyển tải cho em học sinh điều gì bạn đang khám phá cho chính mình hay không?Xung đột trong bất kỳ hình thức nào là một thể hiện của sự kháng cự. Trong một dòng sông đang chảy xiết không có sự kháng cự ; nó chảy quanh những tảng đá to lớn, qua làng mạc và những thị trấn. Con người kiểm soát nó vì mục đích riêng của anh ấy. Rốt cuộc, tự do ngụ ý sự biến mất của kháng cự mà tư tưởng đã xây dựng quanh chính nó, phải vậy không? Chân thật là một vấn đề rất phức tạp. Bạn chân thật với cái gì và vì lý do gì? Có thể bạn chân thật với chính bản thân mình và vì thế công bằng với người khác hay không? Khi người ta nói với chính mình rằng người ta phải chân thật, điều đó có thể được hay không? Chân thật có là một vấn đề của những lý tưởng hay không? Một người lý tưởng có thể bao giờ cũng chân thật hay không? Anh ấy đang sống trong một tương lai được chạm khắc từ quá khứ; anh ấy bị trói buộc giữa cái đó mà đã là và cái đó mà nên là và thế là anh ấy không bao giờ có thể chân thật. Bạn có thể chân thật với chính mình hay không? Điều đó có thể được hay không? Bạn là trung tâm của rất nhiều hoạt động, thỉnh thoảng mâu thuẫn; của rất nhiều tư tưởng, những cảm thấy và những ham muốn luôn luôn đối nghịch lẫn nhau. Cái gì là ham muốn chân thật hoặc tư tưởng chân thật và cái gì không là? Đây không là những câu hỏi cố gắng gây ảnh hưởng hay những tranh cãi khôn ngoan. Rất quan trọng phải tìm ra được sự chân thật của tổng thể có nghĩa gì bởi vì chúng ta sắp sửa nói về thấu triệt và tánh tức khắc của hành động. Nếu chúng ta muốn nắm bắt được chiều sâu của thấu triệt, có được chất lượng hòa đồng trọn vẹn, hòa đồng đó mà là sự chân thật của tổng thể là điều tuyệt đối cần thiết.
Người ta có lẽ chân thật về một lý tưởng, về một nguyên tắc hay một niềm tin đã bám rễ. Chắc chắn đây không là chân thật. Chân thật chỉ có thể hiện hữu khi không còn xung đột của có hai, khi đối nghịch không hiện hữu. Có bóng tối và ánh sáng, đêm và ngày; có đàn ông, phụ nữ, kẻ cao, người thấp, và vân vân, nhưng chính tư tưởng làm cho chúng đối nghịch nhau, đặt chúng trong mâu thuẫn. Chúng ta đang diễn tả sự mâu thuẫn thuộc tâm lý mà con người đã nuôi dưỡng. Tình yêu không là đối nghịch của hận thù hay ganh ghét. Nếu nó là như thế, nó sẽ không là tình yêu. Khiêm tốn không là đối nghịch của tự mãn hay kiêu hãnh hay ngạo mạn. Nếu nó là như thế, nó vẫn còn là thành phần của kiêu hãnh và ngạo mạn, và vì vậy không là khiêm tốn. Khiêm tốn hoàn toàn tách biệt khỏi tất cả những việc này. Một cái trí khiêm tốn không ý thức được sự khiêm tốn của nó. Vì vậy chân thật không là đối nghịch của gian manh.
Người ta có thể chân thật trong niềm tin của người ta hay trong khái niệm của người ta nhưng sự chân thật đó mang lại xung đột và nơi nào có xung đột nơi đó không có chân thật. Vậy thì chúng ta đang hỏi liệu bạn có thể chân thật với chính mình hay không? Chính bản thân bạn là một pha trộn của nhiều chuyển động qua lại lẫn nhau, chi phối lẫn nhau và hiếm khi nào trôi chảy cùng nhau. Khi tất cả những chuyển động này trôi chảy cùng nhau vậy thì có chân thật. Lại nữa có sự tách rời giữa tầng ý thức và tầng tiềm thức, chúa và quỉ dữ; tư tưởng đã gây ra sự phân chia này và sự xung đột mà hiện hữu giữa những phân chia này. Tốt lành không có đối nghịch.
Với sự hiểu biết mới mẻ của chân thật là gì, tiếp theo chúng ta có thể tìm hiểu thấu triệt là gì. Điều này hoàn toàn rất quan trọng bởi vì đây là yếu tố có lẽ cách mạng được hành động của chúng ta và có lẽ tạo ra một chuyển đổi trong chính bộ não. Chúng ta đã nói rằng phương cách sống của chúng ta đã trở thành máy móc: quá khứ cùng tất cả hiểu biết và trải nghiệm được tích lũy, mà là cái nguồn của tư tưởng, đang điều khiển, đang định hướng tất cả mọi hành động. Quá khứ và tương lai liên hệ lẫn nhau và không tách rời được và chính qui trình của suy nghĩ đều dựa vào việc này. Tư tưởng luôn luôn bị giới hạn, bị hạn chế; mặc dù nó có vẻ giả vờ đến được thiên đàng, chính thiên đàng đó vẫn còn ở trong cái khung của tư tưởng. Ký ức có thể đo lường được, thời gian cũng như vậy. Chuyển động này của tư tưởng không bao giờ có thể tươi trẻ, mới mẻ, khởi đầu. Vì vậy hành động bị đặt nền tảng vào tư tưởng luôn luôn bị gãy vụn, không trọn vẹn, mâu thuẫn. Chuyển động tổng thể này của tư tưởng phải được hiểu rõ một cách sâu sắc cùng nơi liên hệ của nó trong những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, những sự việc phải được ghi nhớ. Vậy thì điều gì là hành động mà không có sự tiếp tục của hồi tưởng? Nó là thấu triệt.
Thấu triệt không là sự suy diễn kỹ càng của tư tưởng, sự tiến hành phân tích của tư tưởng, hay bản chất trói buộc vào thời gian của ký ức. Nó là trực nhận mà không có người trực nhận; nó xảy ra ngay tức khắc. Từ thấu triệt này hành động xảy ra, từ thấu triệt này sự giải thích về bất kỳ vấn đề nào đều chính xác, kết thúc và trung thực. Không có những hối tiếc, không có những phản ứng. Nó là tuyệt đối. Không thể nào có thấu triệt nếu không có chất lượng của tình yêu. Thấu triệt không là một công việc thuộc trí năng để bị tranh luận và bị công nhận. Tình yêu này là hình thức tột đỉnh của nhạy cảm – khi tất cả những giác quan đều đang nở hoa cùng nhau. Nếu không có nhạy cảm này – không phải đến những ham muốn, những vấn đề của người ta và tất cả những tầm thường của cuộc sống riêng của người ta – thấu triệt rõ ràng không thể có được.
Thấu triệt là nguyên vẹn. Nguyên vẹn ám chỉ toàn vẹn, tánh tổng thể của cái trí. Cái trí là tất cả sự trải nghiệm của nhân loại, hiểu biết được tích lũy rộng lớn với những kỹ năng kỹ thuật của nó, với những đau khổ, lo âu, sầu não và cô độc của nó. Nhưng thấu triệt vượt khỏi tất cả những sự việc này. Tự do khỏi đau khổ, khỏi lo âu, khỏi cô độc là tuyệt đối cần thiết để cho thấu triệt hiện hữu. Thấu triệt không là một chuyển động liên tục. Nó không thể nào bị nhốt giữ bởi tư tưởng. Thấu triệt là thông minh tột đỉnh và thông minh này sử dụng tư tưởng như một công cụ. Thấu triệt là thông minh cùng vẻ đẹp và tình yêu của nó. Chúng thực sự không thể tách rời: chúng thực sự là một. Đây là nguyên vẹn, tổng thể mà là thánh thiện thiêng liêng nhất.