THƯ GỞI TRƯỜNG HỌC
Nguyên tác: Letters to schools
Lời dịch: Ông Không
THƯ GỞI TRƯỜNG
HỌC
Quyển
I
– 1979 –
Ngày 01 tháng năm
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-05-1979
Rốt
cuộc ra, trường học là một nơi người ta có thể học không
chỉ hiểu biết cho cuộc sống hàng ngày nhưng còn nghệ thuật
sống với tất cả những phức tạp và tinh tế của nó. Chúng
ta dường như bỏ quên việc này và trở nên hoàn toàn bị
trói buộc trong sự hời hợt của hiểu biết. Hiểu biết
luôn luôn hời hợt và học hỏi nghệ thuật sống được
nghĩ là không cần thiết. Sống không được coi như một nghệ
thuật. Khi người ta rời trường học người ta ngừng học
hỏi và tiếp tục sống dựa theo những điều mà người ta
đã tích lũy như là hiểu biết. Chúng ta không bao giờ hiểu
rằng cuộc sống là nguyên một tiến hành của học hỏi.
Khi người ta quan sát cuộc sống, đang sống hàng ngày là một
thay đổi và chuyển động liên tục và cái trí của người
ta không đủ mau lẹ lẫn nhạy cảm để theo cùng những tinh
tế của nó. Người ta đến với nó bằng những phản ứng
và những cố định đã được tạo sẵn. Liệu sự việc
này có được ngăn cản trong những trường học này hay không?
Nó không có nghĩa rằng người ta phải có một cái trí phóng
khoáng. Thông thường một cái trí phóng khoáng giống như một
cái sàng lọc đang giữ lại một chút ít hay không giữ lại
gì cả. Nhưng một cái trí mà có khả năng trực nhận và
hành động thật mau lẹ là cần thiết. Đó là lý do tại
sao chúng ta đi vào vấn đề của thấu triệt cùng tánh tức
khắc hành động của nó. Thấu triệt không để lại một
dấu vết cho ký ức. Thông thường trải nghiệm, như nó được
hiểu, để lại những cặn bã của nó như ký ức và từ
cặn bã này người ta hành động. Vẫn vậy hành động làm
mạnh mẽ thêm cặn bã và vì thế hành động trở thành máy
móc. Thấu triệt không là một hành động máy móc. Vì vậy
liệu người ta có thể giáo dục trong trường học, rằng
cuộc sống hàng ngày là một tiến hành liên tục của học
hỏi và hành động trong liên hệ mà không làm mạnh mẽ thêm
cái cặn bã là ký ức hay không? Với hầu hết chúng ta ký
ức trở thành quan trọng nhất và chúng ta mất đi dòng chảy
xiết của cuộc sống.
Cả
em học sinh lẫn người giáo dục đều sống trong một trạng
thái hoang mang và vô trật tự, cả bên ngoài lẫn bên trong.
Người ta có lẽ không ý thức được sự thật này và nếu
ý thức được, người ta lại vội vã đặt trật tự vào
những sự việc bên ngoài nhưng hiếm khi nào người ta ý thức
được sự hoang mang và vô trật tự ở phía bên trong.
Thần
thánh là vô trật tự. Hãy quan sát vô số những vị thần
thánh mà con người đã sáng chế ra hay một vị chúa duy nhất,
một đấng cứu rỗi duy nhất, và quan sát sự rối loạn này
đã tạo ra trong thế giới, những cuộc chiến tranh nó đã
tạo ra, những sự phân chia những niềm tin, những biểu tượng
và những hình ảnh đang gây tách rời. Đây không là hoang
mang, rối loạn và vô trật tự hay sao? Chúng ta đã trở nên
rất quen thuộc với việc này, chúng ta chấp nhận nó một
cách dễ dàng, bởi vì cuộc sống của chúng ta quá mệt mỏi
do bởi nhàm chán và đau khổ đến độ chúng ta tìm kiếm
sự an ủi trong những thần thánh mà tư tưởng đã ranh mãnh
sáng chế ra. Đây đã là phương cách sống của chúng ta trong
hàng ngàn năm. Mỗi nền văn minh đã sáng chế ra những thần
thánh và những thần thánh đã là nguồn gốc của những chế
độ độc tài, những cuộc chiến tranh và hủy diệt. Những
tòa nhà của họ có lẽ đẹp đẽ cực kỳ nhưng ở phía
bên trong có sự tối tăm và nguồn gốc của hoang mang, rối
loạn.
Liệu
người ta có thể gạt đi những thần thánh này hay không?
Người ta phải gạt đi nếu người ta muốn suy xét tại sao
cái trí con người lại chấp nhận và sống trong vô trật
tự, thuộc chính trị, thuộc tôn giáo và thuộc kinh tế. Nguồn
gốc của vô trật tự này là gì, sự thật của nó là gì,
chứ không phải những lý luận thuộc thần học? Liệu người
ta có thể gạt bỏ đi những khái niệm của vô trật tự
và được tự do để tìm hiểu nguồn gốc vô trật tự hàng
ngày thực sự của chúng ta, không phải tìm hiểu trật tự
là gì nhưng tìm hiểu vô trật tự là gì hay không? Chúng ta
chỉ có thể nhận thức trật tự tuyệt đối là gì khi chúng
ta đã xem xét kỹ lưỡng vô trật tự và nguồn gốc của
nó. Chúng ta quá hăm hở tìm ra trật tự là gì, quá mất kiên
nhẫn với vô trật tự đến nỗi chúng ta có khuynh hướng
trấn áp chúng, nghĩ rằng trấn áp đó có thể mang lại trật
tự. Ở đây chúng ta không chỉ đang tìm hiểu liệu có trật
tự tuyệt đối trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta nhưng
còn tìm hiểu liệu sự rối loạn này có thể chấm dứt được
hay không? Vì vậy quan tâm đầu tiên của chúng ta là vô trật
tự và điều gì là nguồn gốc của nó. Đó là tư tưởng
phải không? Đó là những ham muốn mâu thuẫn lẫn nhau phải
không? Đó là sợ hãi và sự tìm kiếm an toàn phải không?
Đó là sự đòi hỏi liên tục để có vui thú phải không?
Tư tưởng có là một trong những nguồn gốc hay lý do chính
của vô trật tự? Không chỉ người viết nhưng bạn cũng
đang hỏi câu hỏi này, vì vậy làm ơn hãy luôn nhớ yếu
tố này. Bạn phải khám phá nguồn gốc, không phải được
chỉ bảo về nguồn gốc rồi sau đó lặp lại bằng lời
nói.
Tư
tưởng, như chúng ta đã vạch rõ, là bị giới hạn, bị hạn
chế, và bất kỳ điều gì bị giới hạn dù những hoạt
động của nó có lẽ rộng rãi bao nhiêu, đều luôn luôn mang
lại rối loạn. Cái bị giới hạn có tính phân chia và vì
vậy hủy diệt và gây rối loạn. Chúng ta đã nói đầy đủ
về bản chất và cấu trúc của tư tưởng, và có một thấu
triệt về bản chất của tư tưởng có nghĩa là trao cho nó
vị trí đúng và thế là nó mất đi sự thống trị gây áp
đảo.
Ham
muốn và những mục tiêu thay đổi của ham muốn có phải
là một trong những nguyên nhân vô trật tự của chúng ta hay
không? Trấn áp ham muốn là trấn áp tất cả cảm xúc –
mà có nghĩa làm tê liệt cái trí. Chúng ta nghĩ rằng đây
là cách mau lẹ và dễ dàng nhất để chấm dứt ham muốn
nhưng người ta không thể nào trấn áp được nó; nó mạnh
mẽ nhiều lắm và cũng quá tinh tế. Bạn không thể nắm bắt
được nó trong bàn tay của bạn và uốn nắn nó tùy theo mong
muốn của bạn – mà lại là ham muốn khác. Chúng ta đã nói
về ham muốn trong một lá thư trước. Ham muốn không bao giờ
có thể trấn áp, thay đổi hay sửa đổi được bởi ham muốn
đúng đắn hay ham muốn xấu xa. Nó vẫn luôn luôn còn là cảm
xúc và ham muốn; dù bạn làm bất kỳ điều gì về nó. Ham
muốn có sự khai sáng hay ham muốn có tiền bạc đều giống
hệt nhau, mặc dù những mục tiêu khác nhau. Liệu người ta
có thể sống không còn ham muốn hay không? Hay nói một cách
khác, liệu những giác quan có thể năng động cực kỳ mà
không có ham muốn chen vào hay không? Có những hoạt động
thuộc giác quan cả về tâm lý lẫn thân thể. Thân thể tìm
kiếm sự ấm áp, thực phẩm, tình dục; có sự đau đớn
của thân thể và vân vân. Những cảm xúc này là tự nhiên
nhưng khi chúng len lỏi vào lãnh vực của tâm lý, những rắc
rối bắt đầu. Và ở đó đã có sẵn sự rối loạn của
chúng ta. Hiểu rõ vấn đề này rất quan trọng, đặc biệt
khi chúng ta còn nhỏ. Quan sát những cảm xúc của thân thể
mà không có trấn áp hay phóng đại, và tỉnh thức, canh chừng
để cho chúng không bao giờ len lén đi vào lãnh vực phía bên
trong của tâm lý nơi chúng không có phận sự – vấn đề
đó là sự khó khăn của chúng ta. Toàn qui trình xảy ra mau
lẹ quá bởi vì chúng ta không nhìn thấy được việc này,
đã không hiểu rõ được nó, đã không bao giờ cố gắng
tìm hiểu điều gì thực sự xảy ra. Có phản ứng thuộc
giác quan ngay tức khắc đến thách thức. Phản ứng này là
tự nhiên và không nằm trong sự điều phối của tư tưởng,
của ham muốn. Khó khăn của chúng ta bắt đầu khi những phản
ứng thuộc giác quan này đi vào lãnh vực tâm lý. Thách thức
có thể là một người phụ nữ hay một người đàn ông hay
một điều gì đó dễ chịu, tạo ra cảm giác thích thú; hay
một ngôi vườn dễ thương. Đáp trả cho sự việc này là
cảm xúc và khi cảm xúc này chen vào lãnh vực tâm lý, ham
muốn bắt đầu và tư tưởng cùng những hình ảnh của nó
tìm kiếm sự thỏa mãn của ham muốn.
Câu
hỏi của chúng ta là làm thế nào ngăn cản những phản ứng
tự nhiên thuộc thân thể không đi vào lãnh vực tâm lý? Điều
này có thể được hay không? Nó chỉ có thể được khi bạn
quan sát bản chất của thách thức bằng chú ý tổng thể
và canh chừng những đáp trả thật cẩn thận. Chú ý tổng
thể này sẽ ngăn cản những phản ứng thuộc thân thể đang
len lén đi vào lãnh vực tâm lý phía bên trong.
Chúng
ta quan tâm đến ham muốn và hiểu rõ ham muốn, không phải
quan tâm đến yếu tố đè nén, lẩn tránh hay thăng hoa ham
muốn. Bạn không thể sống không có ham muốn. Khi bạn đói
khát bạn cần ăn uống. Nhưng hiểu rõ, mà có nghĩa là tìm
hiểu toàn hoạt động của ham muốn, là đưa nó vào vị trí
đúng đắn. Vì vậy nó sẽ không còn là nguồn gốc của vô
trật tự trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Ngày 15 tháng năm
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-05-1979
Điều
gì con người đã gây ra cho con người không có giới hạn.
Con người đã hành hạ con người, con người đã thiêu cháy
con người, con người đã giết chết con người, con người
đã bóc lột con người trong mọi cách có thể được – tôn
giáo, chính trị, kinh tế. Đây đã là câu chuyện của con
người với con người; người khôn ngoan bóc lột người ngu
dốt, người mù chữ. Tất cả những triết lý đều thuộc
trí năng và vì vậy không là tổng thể. Những triết lý này
đã biến con người thành nô lệ. Chúng đã sáng chế ra xã
hội nên là gì và đã hy sinh những con người cho những khái
niệm của chúng; những lý tưởng của những con người tạm
gọi là suy nghĩ đã làm mất đi bản chất con người. Sự
bóc lột người khác – đàn ông hay phụ nữ – dường như
là phương cách trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng
ta lợi dụng lẫn nhau và mỗi người chấp nhận sự lợi
dụng này. Từ sự liên hệ đặc biệt này, lệ thuộc phát
sinh với tất cả khốn khổ đã có sẵn trong sự lệ thuộc.
Con người cả bên trong lẫn bên ngoài đã lừa gạt chính
anh ấy và những người khác, và làm thế nào có được tình
yêu trong những hoàn cảnh như thế này?
Vì
vậy nó trở nên rất quan trọng cho người giáo dục phải
cảm thấy được trách nhiệm tổng thể trong sự liên hệ
cá nhân của anh ấy không những với em học sinh mà còn với
toàn thể nhân loại. Anh ấy là nhân loại. Nếu anh ấy không
cảm thấy có trách nhiệm với chính mình một cách tổng thể,
vậy thì anh ấy sẽ không cảm thấy sự đam mê của trách
nhiệm tổng thể này mà là tình yêu. Bạn là một người
giáo dục có cảm thấy trách nhiệm này hay không? Nếu không
– tại sao không? Bạn có lẽ cảm thấy có trách nhiệm với
người vợ, người chồng hay con cái riêng của bạn, và có
lẽ không thèm lưu tâm hay cảm thấy không có trách nhiệm
với những người khác. Nhưng nếu bạn cảm thấy có trách
nhiệm trong chính mình hoàn toàn, bạn chỉ còn duy nhất một
điều là có trách nhiệm với toàn thể nhân loại.
Câu
hỏi này – tại sao bạn không cảm thấy có trách nhiệm với
người khác là rất quan trọng. Trách nhiệm này không là một
phản ứng thuộc cảm xúc, không là một điều gì đó bạn
áp đặt cho chính mình – cảm thấy có trách nhiệm. Lúc đó
nó trở thành bổn phận và bổn phận đã mất đi hương thơm
hay vẻ đẹp của chất lượng phía bên trong của trách nhiệm
tổng thể này. Nó không là một điều gì đó mà bạn mời
mọc như một nguyên tắc hay một ý tưởng để bám chặt
vào, giống như sở hữu một cái ghế hay một cái đồng hồ.
Một người mẹ có lẽ cảm thấy trách nhiệm với người
con của bà ấy, cảm thấy đứa bé là một phần máu thịt
của bà ấy và vì vậy trao toàn bộ sự chăm sóc và chú ý
của bà ấy với em bé đó trong một vài năm. Bản năng làm
mẹ này là trách nhiệm hay sao? Có lẽ rằng chúng ta đã thừa
hưởng sự quyến luyến đặc biệt đến em bé này nơi con
thú đầu tiên. Nó tồn tại trong thiên nhiên từ con chim nhỏ
nhất đến con voi to lớn. Chúng ta đang hỏi – bản năng này
là trách nhiệm hay sao? Nếu mà như thế cha mẹ sẽ cảm thấy
có trách nhiệm về loại giáo dục đúng đắn, về một loại
xã hội hoàn toàn khác hẳn. Họ sẽ thấy rằng không còn
những cuộc chiến tranh và rằng chính bản thân họ nở hoa
trong tốt lành.
Vì
vậy có lẽ rằng một con người không quan tâm đến người
khác nhưng chỉ cam kết với chính anh ấy mà thôi. Cam kết
này là không có trách nhiệm tổng thể. Những cảm xúc riêng
của anh ấy, những ham muốn cá nhân riêng của anh ấy, những
quyến luyến riêng của anh ấy, thành công của anh ấy, tiến
bộ của anh ấy – những việc này rõ ràng sẽ mang lại sự
tàn nhẫn cả hiển lộ lẫn tinh tế. Đây là phương cách
của trách nhiệm thực sự hay sao?
Trong
những ngôi trường này anh ấy người mà cho và anh ấy người
mà nhận cả hai đều có trách nhiệm và vì vậy họ không
bao giờ có thể buông thả trong chất lượng đặc biệt của
trạng thái tách rời này. Sự tách rời ích kỷ có lẽ chính
là nguồn gốc gây ra sự thoái hóa tánh tổng thể của cái
trí mà chúng ta quan tâm sâu sắc. Điều này không có nghĩa
rằng không có sự liên hệ cá thể, thương yêu của nó, dịu
dàng của nó, khuyến khích và hỗ trợ của nó. Nhưng khi trách
nhiệm cá thể trở thành quan trọng nhất và trách nhiệm chỉ
có với một ít người, vậy thì sự tác hại đã bắt đầu;
sự thật về điều này được hiểu rõ đối với mọi con
người. Sự phân chia của liên hệ này là yếu tố gây ra
sự thoái hóa trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đã làm
vỡ vụn sự liên hệ để cho nó trở thành liên hệ với
cá thể, với một nhóm người, với một quốc gia, với những
khái niệm nào đó và vân vân. Cái bị phân chia không bao giờ
có thể hiểu rõ được tánh tổng thể của trách nhiệm.
Từ cái nhỏ bé chúng ta luôn luôn cố gắng nắm bắt cái
to lớn hơn. Cái tốt hơn không là điều tốt lành và tất
cả tư tưởng của chúng ta đều đặt nền tảng vào cái
tốt hơn, cái nhiều hơn – tốt hơn tại những kỳ thi, những
công việc làm tốt hơn, giai cấp tốt hơn, thần thánh tốt
hơn, những ý tưởng cao quí hơn.
Cái
tốt hơn là kết quả của so sánh. Bức tranh đẹp hơn, kỹ
thuật tốt hơn, nhạc sĩ hay hơn, người tài năng hơn, đẹp
đẽ hơn và thông minh hơn đều lệ thuộc vào sự so sánh
này. Chúng ta hiếm khi nào nhìn ngắm chính một bức tranh,
hay chính một người đàn ông hay phụ nữ. Luôn luôn có chất
lượng bẩm sinh của so sánh này. Tình yêu có là so sánh hay
không? Không phải bạn luôn luôn nói rằng bạn thương yêu
cái này, người này nhiều hơn cái kia, người kia hay sao? Khi
có sự so sánh này, đó là tình yêu hay sao? Khi có cảm thấy
của nhiều hơn này, mà là đo lường, vậy thì tư tưởng
đang vận hành. Tình yêu không là chuyển động của tư tưởng.
Chuyển động này là so sánh. Chúng ta đã khuyến khích sự
so sánh suốt cuộc đời của chúng ta. Khi ở trong trường
học bạn so sánh B với A, bạn đang hủy diệt cả hai người
này.
Vì
vậy liệu có thể giáo dục mà không còn mọi ý thức so sánh
hay không? Và tại sao chúng ta lại so sánh? Chúng ta so sánh
chỉ bởi lý do đơn giản rằng đo lường là phương cách
của tư tưởng và là phương cách của cuộc sống chúng ta.
Chúng ta được giáo dục trong sự phân hóa này. Cái tốt hơn
luôn luôn cao quí hơn cái gì là, hơn điều gì đang thực sự
xảy ra. Quan sát cái gì là, mà không so sánh, mà không đo lường,
là vượt khỏi cái gì là.
Khi
không có so sánh, có hòa đồng. Không phải rằng bạn trung
thực với chính mình, mà là một hình thức của đo lường,
nhưng khi không còn đo lường gì cả thì có chất lượng của
tổng thể này. Bản thể của cái tôi, cái tôi lệ thuộc,
là đo lường. Khi có đo lường có sự phân hóa. Điều này
phải được hiểu rõ sâu sắc không phải như một ý tưởng
nhưng như một thực tại. Khi bạn đọc hàng viết này bạn
có lẽ tạo ra một lý thuyết trừu tượng như một ý tưởng,
một ý niệm, và lý thuyết trừu tượng lại là một hình
thức khác của đo lường. Cái gì là không có đo lường.
Làm ơn hãy dành toàn bộ thân tâm của bạn cho hiểu rõ điều
này. Khi bạn nắm bắt được trọn vẹn ý nghĩa của điều
này, sự liên hệ của bạn với em học sinh và với gia đình
riêng của bạn sẽ trở thành một điều gì đó hoàn toàn khác hẳn. Nếu bạn hỏi rằng liệu sự khác biệt đó
sẽ được tốt hơn, vậy thì bạn lại kẹt vào cái
bánh xe chuyển động của đo lường. Vậy thì bạn bị lạc
đường. Bạn sẽ tìm ra sự khác biệt khi nào bạn thực sự
thử nghiệm được nó. Chính từ ngữ khác biệt ngụ ý đo
lường nhưng chúng ta đang sử dụng từ ngữ đó một cách
tuyệt đối. Hầu hết mọi từ ngữ chúng ta sử dụng đều
có cảm giác đo lường này, vì thế những từ ngữ ảnh hưởng
những phản ứng của chúng ta và những phản ứng làm sâu
đậm thêm ý thức so sánh. Từ ngữ và phản ứng có tương
quan lẫn nhau và nghệ thuật nằm trong tình trạng không bị
điều kiện bởi từ ngữ, mà có nghĩa rằng từ ngữ không
thể nào định hướng chúng ta. Hãy sử dụng từ ngữ mà
không có những phản ứng tâm lý với nó.
Như
chúng ta đã nói, chúng ta quan tâm đến việc chuyển tải lẫn
nhau về bản chất thoái hóa của những cái trí chúng ta và
vì vậy những phương cách của cuộc sống chúng ta. Nhiệt
thành không là đam mê. Bạn có thể nhiệt thành về một điều
gì đó vào một ngày và mất nó ngày hôm sau. Bạn có thể
nhiệt thành về việc chơi đá bóng và không còn thích thú
khi nó không còn giải khuây cho bạn được nữa. Nhưng đam
mê là một sự việc hoàn toàn khác hẳn. Nó không có sự
trì hoãn của thời gian trong nó.
Ngày 01 tháng sáu
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-06-1979
Như
một quy luật cha mẹ có rất ít thời gian cho con cái của
họ ngoại trừ khi các em là những em bé. Họ gởi các em đến
những ngôi trường nội trú hay địa phương hay họ giao cho
những người khác chăm sóc các em. Họ có lẽ không có thời
gian hay sự kiên nhẫn cần thiết để giáo dục các em ở
nhà. Họ bị bận rộn bởi những vấn đề riêng tư của
họ. Vì vậy những ngôi trường của chúng ta trở thành ngôi
nhà cho các em và những người giáo dục trở thành cha mẹ
kèm theo mọi trách nhiệm. Chúng ta đã biết vấn đề này
từ trước và vẫn cần thiết lặp lại nó: ngôi nhà là một
nơi các em có một sự tự do nào đó, một cảm giác được
an toàn, được cung cấp mọi thứ, ăn uống và chỗ ở. Các
em nhỏ trong những ngôi trường này có cảm thấy việc này
không? – rằng các em đang được chăm sóc cẩn thận, được
lưu tâm nhiều và được thương yêu nhiều, và được quan
tâm về cách cư xử của các em, những bữa ăn của các em,
quần áo của các em và thái độ của các em? Nếu như thế
ngôi trường trở thành một nơi em học sinh cảm thấy rằng
em thực sự ở nhà, cùng tất cả những an ủi giúp đỡ của
nó, rằng có những người vây quanh em đang chăm sóc những
sở thích của em, cách em nói chuyện, rằng em đang được
chăm sóc phần thân thể cũng như phần tâm lý, đang được
giúp đỡ để được tự do khỏi những tổn thương và sợ
hãi. Đây là trách nhiệm của mỗi người giáo viên trong những
ngôi trường này, không phải của một người hay hai người.
Toàn ngôi trường tồn tại vì việc này, vì một bầu không
khí mà trong đó cả những người giáo dục lẫn những em
học sinh đều đang nở hoa trong tốt lành.
Người
giáo dục cần nhàn rỗi để có sự yên tĩnh cho chính anh
ấy, để lấy lại năng lượng đã bị hao tổn, để ý thức
được những vấn đề riêng của anh ấy và giải quyết chúng,
để cho khi gặp gỡ lại những em học sinh anh ấy không phải
ôm theo những lời đồn đại, rối ren của những khổ sở
cá thể. Như chúng ta đã vạch rõ từ trước, bất kỳ vấn
đề nào phát sinh trong cuộc sống của chúng ta nên được
giải quyết ngay lập tức hay càng nhanh càng tốt, vì những
vấn đề, khi chúng được ôm theo từ ngày này sang ngày khác,
làm thoái hóa sự nhạy cảm của cái trí tổng thể. Nhạy
cảm này là tối thiết. Chúng ta mất đi nhạy cảm này khi
chúng ta chỉ giảng giải cho em học sinh một môn học. Khi
môn học trở thành vấn đề quan trọng nhất, nhạy cảm phai
tàn đi và rồi thì bạn thực sự không còn liên hệ với
em học sinh. Lúc đó em học sinh chỉ là một vật để chứa
đựng những thông tin. Vì vậy cái trí của bạn và cái trí
của em học sinh trở thành máy móc. Thông thường chúng ta
nhạy cảm đến những vấn đề riêng của chúng ta, đến
những ham muốn và những tư tưởng riêng của chúng ta và
hiếm khi nào nhạy cảm cùng những vấn đề của những người
khác. Khi chúng ta tiếp xúc liên tục với những em học sinh,
có một khuynh hướng áp đặt những hình ảnh riêng của chúng
ta vào các em, hay nếu em học sinh có những hình ảnh mạnh
mẽ riêng của em, có xung đột giữa những hình ảnh này.
Vì vậy nó trở nên rất quan trọng rằng người giáo dục
nên để lại những hình ảnh của anh ấy ở nhà và trở
nên quan tâm đến những hình ảnh mà cha mẹ hay xã hội đã
áp đặt vào em học sinh, hay hình ảnh mà chính em đã tạo
ra. Chỉ trong sự vận hành đó thì mới có sự liên hệ và
thông thường sự liên hệ giữa hai hình ảnh là ảo tưởng.
Những
vấn đề thuộc thân thể hay tâm lý làm lãng phí năng lượng
của chúng ta. Vậy người giáo dục có thể cảm thấy an toàn
về vật chất trong những ngôi trường này và vẫn vậy lại
được tự do khỏi những vấn đề tâm lý hay không? Đây
thực sự là vấn đề quan trọng cần hiểu rõ. Khi không có
cảm thấy về an toàn vật chất này, sự hoang mang tạo ra
những lao dịch về tâm lý. Việc này khuyến khích sự đờ
đẫn của cái trí và vì thế sự đam mê mà thật cần thiết
trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta sẽ phai tàn đi và
sự nhiệt thành thay thế vào nó.
Nhiệt
thành là một sự việc nguy hiểm vì nó không bao giờ có tính
liên tục. Nó vươn lên trong một làn sóng và chìm xuống.
Điều này bị hiểu lầm là sự nghiêm túc. Bạn có lẽ nhiệt
thành trong một khoảng thời gian về điều gì bạn đang làm,
hăm hở, năng động nhưng có sẵn trong nó là sự phóng đãng.
Lại nữa chúng ta cần hiểu rõ vấn đề này bởi vì hầu
hết những liên hệ đều thiên về lãng phí này. Đam mê hoàn
toàn khác hẳn với ham muốn mạnh mẽ, thích thú hay nhiệt
thành. Thích thú một điều gì đó có thể rất sâu đậm
và bạn có thể sử dụng sự thích thú đó để kiếm lợi
lộc hay tìm quyền hành, nhưng thích thú đó không là đam mê.
Thích thú có lẽ được kích thích bởi một mục tiêu hay
bởi một ý tưởng. Thích thú là tự buông thả. Đam mê được
tự do khỏi cái tôi. Nhiệt thành luôn luôn do một sự việc
gì đó. Đam mê là một ngọn lửa của chính nó. Nhiệt thành
có thể được kích động bởi một sự việc khác, một cái
gì đó ở bên ngoài bạn. Đam mê là sự gom tụ của năng
lượng mà không là kết quả của bất kỳ loại kích thích
nào. Đam mê vượt khỏi cái tôi.
Những
giáo viên có ý thức của đam mê này hay không? – vì từ
việc này sáng tạo mới hiện hữu. Trong khi dạy dỗ những
môn học người ta phải tìm ra những phương pháp mới mẻ
để truyền đạt thông tin bởi vì nếu không thông tin này
làm cho cái trí trở thành máy móc. Liệu bạn có thể dạy
môn sử – mà là câu chuyện của nhân loại – không là của
người Ấn độ, người Anh, người Mỹ và vân vân, nhưng
là câu chuyện của nhân loại mà là toàn cầu hay không? Lúc
đó cái trí của người giáo dục luôn luôn tươi trẻ, háo
hức, đang khám phá một sự tiếp cận hoàn toàn khác hẳn
đến công việc dạy học. Trong trạng thái này người giáo
dục sinh động cực kỳ và với sự sinh động này đam mê
có mặt.
Điều
này có thể thực hiện được trong tất cả những ngôi trường
của chúng ta hay không? – bởi vì chúng ta quan tâm đến việc
tạo ra một xã hội khác hẳn, cùng nở hoa của tốt lành,
cùng một cái trí không máy móc. Giáo dục thực sự là những
việc này, và liệu bạn, những người giáo dục có đảm
đương được trách nhiệm này hay không? Trong trách nhiệm
này có sẵn nở hoa của tốt lành trong chính bạn và trong
em học sinh. Chúng ta có trách nhiệm với toàn thể nhân loại
– mà là bạn và em học sinh. Bạn phải bắt đầu ở đó
và trải kín toàn quả đất này. Bạn có thể đi rất xa nếu
bạn bắt đầu từ rất gần. Cái gần nhất là bạn và em
học sinh của bạn. Chúng ta thường thường bắt đầu bằng
cái xa nhất – nguyên tắc tối cao nhất, lý tưởng vĩ đại
nhất, và bị lạc lõng trong giấc mộng điên khùng nào đó
của tư tưởng đầy hoang tưởng. Nhưng khi bạn bắt đầu
từ rất gần, với cái gần nhất, mà là bạn, vậy thì toàn
thế giới mở toang, bởi vì bạn là thế giới và thế giới
bên ngoài bạn chỉ còn là thiên nhiên. Thiên nhiên không có
tưởng tượng: nó là thực sự và điều gì đang xảy ra cho
bạn ngay lúc này là thực sự. Từ thực sự này bạn phải
bắt đầu – với điều gì đang xảy ra ngay lúc này – và
ngay lúc này là không thời gian.
Ngày 15 tháng sáu
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-06-1979
Hầu
hết mọi người đều ích kỷ. Họ không ý thức được sự
ích kỷ riêng của họ; đó là cái cách của cuộc sống riêng
của họ. Và nếu người ta ý thức rằng người ta ích kỷ,
người ta giấu giếm nó rất cẩn thận và tuân phục vào
khuôn mẫu của xã hội mà căn bản lại là ích kỷ. Cái trí
ích kỷ rất là ranh mãnh. Hoặc nó ích kỷ một cách hung bạo
và công khai hoặc nó ẩn nấp trong nhiều hình thức khác.
Nếu bạn là một nhà chính trị ích kỷ, nó tìm kiếm quyền
hành, giai cấp và được ưa chuộng; nó gắn kết chính nó
vào một ý tưởng, một nhiệm vụ và tất cả đều vì sự
tốt đẹp của công chúng. Nếu bạn là một nhà độc tài
nó bày tỏ chính nó trong sự cai trị bạo tàn. Nếu bạn có
khuynh hướng tôn giáo nó mang hình thức của sùng bái, hiến
dâng, gắn kết vào một niềm tin, một tín điều nào đó.
Nó cũng tự phơi bày trong gia đình; người cha theo đuổi ích
kỷ riêng trong tất cả những hình thức của cuộc sống ông
ấy và người mẹ cũng vậy. Sự nổi tiếng, sự giàu có,
hình dáng đẹp tạo thành một nền tảng cho chuyển động
lén lút che giấu này của cái tôi. Nó ở trong cấu trúc chức
sắc của giai cấp giáo sĩ, dù họ có tuyên bố rằng tình
yêu của họ với Chúa mạnh mẽ đến chừng nào, sự gắn
kết của họ vào hình ảnh tự tạo về một thần thánh đặc
trưng của họ sâu đậm bao nhiêu. Những người đứng đầu
của kỹ nghệ và những người thư ký nghèo nàn có ý thức
dục vọng khô cằn và lan rộng này của cái tôi. Người thầy
tu đã tuyên bố từ bỏ tất cả hình thức sống của thế
giới có lẽ lang thang khỏi bản chất của thế giới hay có
lẽ bị khóa chặt trong một nhà tu nhưng đã không bỏ lại
được chuyển động vô tận này của cái tôi. Họ có lẽ
thay đổi tên tuổi của họ, khoác vào những cái áo choàng
hay giữ những lời thề độc thân hay yên lặng, nhưng họ
đang cháy bỏng bởi lý tưởng nào đó, bởi hình ảnh nào
đó, bởi biểu tượng nào đó.
Nó
cũng giống như vậy với những nhà khoa học, với những triết
gia và với những vị giáo sư trong trường đại học. Người
làm những công việc nhân đạo, những vị thánh và những
vị đạo sư, người đàn ông hay người phụ nữ mà làm việc
không ngừng nghỉ vì những người nghèo khổ – tất cả
họ đều đang gắng sức để làm mất đi chính họ trong công
việc của họ nhưng công việc lại là bộ phận của nó.
Họ đã chuyển đổi tính ích kỷ đến những công việc lao
động của họ. Nó bắt đầu từ thời niên thiếu và tiếp
tục đến tuổi già. Sự tự mãn về hiểu biết, sự khiêm
tốn đã được luyện tập của người lãnh đạo, người
vợ phục tùng và người đàn ông thống trị, tất cả đều
có căn bệnh này. Cái tôi kết dính với chính thể, với vô
số những tổ chức, với vô số những ý tưởng và nguyên
nhân nhưng nó vẫn còn là cái gì nó đã là từ khởi đầu.
Con
người đã thử thực hiện nhiều luyện tập khác nhau, nhiều
phương pháp khác nhau, nhiều thiền định khác nhau để được
tự do khỏi cái trung tâm mà gây ra quá nhiều đau khổ và
rối loạn này, nhưng giống như một cái bóng nó không bao
giờ có thể nắm bắt được. Nó luôn luôn ở đó và nó
luồn lách qua những ngón tay của bạn, qua cái trí của bạn.
Thỉnh thoảng nó được củng cố thêm hay trở nên yếu ớt
tùy theo những hoàn cảnh. Bạn vây phủ nó ở đây, nó xuất
hiện ở chỗ khác.
Người
ta tự hỏi liệu người giáo dục, mà có trách nhiệm cho một
thế hệ mới, có thể hiểu rõ không phải bằng từ ngữ
cái tôi là một vật ma mãnh làm sao đâu, nó gây phân hóa,
gây biến dạng, gây nguy hiểm làm sao đâu trong cuộc sống
của chúng ta? Anh ấy có lẽ không biết làm cách nào được
tự do khỏi nó, thậm chí anh ấy có lẽ không ý thức về
sự có mặt của nó ở đó nhưng ngay khi anh ấy thấy được
bản chất chuyển động của cái tôi, liệu anh ấy hay chị
ấy có thể chuyển tải những tinh tế của nó cho em học
sinh hay không? Và đây không là trách nhiệm của anh ấy phải
làm công việc này hay sao? Hiểu rõ sự làm việc của cái
tôi còn lớn lao hơn là học hành về văn hóa. Hiểu biết
có thể được sử dụng bởi cái tôi vì sự phô trương riêng
của nó, sự hung hăng của nó, sự tàn nhẫn bẩm sinh của
nó.
Ích
kỷ là một vấn đề căn bản của cuộc sống chúng ta. Tuân
phục và bắt chước là bộ phận của cái tôi, cũng như ganh
đua và sự hung hăng của tài năng. Nếu người giáo dục trong
những ngôi trường này quan tâm đến vấn đề đó thật nghiêm
túc, mà tôi hy vọng rằng anh ấy có quan tâm, vậy thì làm
thế nào anh ấy sẽ giúp em học sinh không còn ích kỷ?
Bạn có lẽ nói rằng đó là tài năng của những vị thần
thánh kỳ lạ hay gạt bỏ nó qua một bên như một điều không
thể thực hiện được. Nhưng nếu bạn nghiêm túc, vì người
ta phải như thế, và có trách nhiệm hoàn toàn với em học
sinh, làm thế nào bạn khởi sự để làm tự do cái trí khỏi
năng lượng trói buộc vô tận này? – cái tôi mà đã gây
ra quá nhiều đau khổ? Liệu bạn, với sự chăm sóc bao la
– mà ám chỉ thương yêu – lại không giải thích bằng những
từ ngữ đơn giản nhất những hậu quả gì khi em học sinh
nói trong tức giận, hay khi em đánh một người nào đó, hay
khi em đang nghĩ về sự quan trọng riêng của em hay sao? Liệu
không thể giải thích cho em học sinh khi em quả quyết “đây
là cái của tôi” hay khoe khoang “tôi đã làm việc đó”
hay trốn tránh một hành động nào đó vì sợ hãi, rằng em
đang xây dựng một bức tường, viên gạch này kề viên gạch
khác, chung quanh chính bản thân em, hay sao? Liệu không thể
được khi những ham muốn của em, những cảm xúc của em,
thắng thế sự lý luận hợp lý của em, vạch rõ ra rằng
cái bóng của cái tôi đang tăng trưởng ở đó, hay sao? Liệu
không thể nói với em rằng nơi nào cái tôi hiện diện, trong
bất kỳ lớp vỏ nào, không có tình yêu hay sao?
Nhưng
em học sinh có lẽ hỏi người giáo dục, “Thầy đã nhận
ra tất cả việc này hay thầy chỉ đang đùa giỡn bằng những
từ ngữ?” Chính câu hỏi đó có lẽ đã đánh thức thông
minh riêng của bạn và chính thông minh đó sẽ cho bạn sự
cảm thấy trung thực và những từ ngữ đúng đắn khi trả
lời.
Như
một người giáo dục bạn không có giai cấp; bạn là một
con người với tất cả những vấn đề của cuộc sống giống
như một em học sinh. Khoảnh khắc bạn nói chuyện từ giai
cấp bạn thực sự đang hủy diệt sự liên hệ của con người.
Giai cấp ám chỉ quyền hành và khi bạn đang tìm kiếm việc
này, có ý thức hay không ý thức, bạn đi vào thế giới của
hung tợn. Bạn có một trách nhiệm lớn lao, người bạn của
tôi, và nếu bạn có trách nhiệm tổng thể này mà là tình
yêu, vậy thì những gốc rễ của cái tôi đã biến mất.
Điều này không được nói như một sự khuyến khích hay để
bạn cảm thấy rằng bạn phải làm việc này, nhưng vì chúng
ta là tất cả những con người, đại diện cho toàn nhân loại,
chúng ta hoàn toàn và luôn luôn chịu trách nhiệm về vấn
đề liệu rằng chúng ta có chọn lựa để là toàn nhân loại
hay không. Bạn có lẽ cố gắng thoái thác nó nhưng chính cái
chuyển động đó là hành động của cái tôi. Rõ ràng của
trực nhận là tự do của cái tôi.
Ngày 01 tháng bảy
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-07-1979
Nở
hoa của tốt lành là sự giải phóng năng lượng tổng thể
của chúng ta. Nó không là sự kiểm soát hay trấn áp của
năng lượng nhưng trái lại tự do hoàn toàn của năng lượng
vô biên này. Nó bị giới hạn, bị chật hẹp bởi tư tưởng,
bởi sự phân chia của những giác quan của chúng ta. Chính
tư tưởng là năng lượng tổng thể này đang vận dụng khai
thác chính nó vào một cái khe rãnh chật hẹp, một trung tâm
của cái tôi. Nở hoa của tốt lành chỉ có thể bùng nổ
trọn vẹn khi năng lượng được tự do, nhưng tư tưởng,
do bản chất tự nhiên của nó, đã giới hạn năng lượng
này và vì thế sự phân chia của những giác quan xảy ra. Do
đó có những giác quan, những cảm xúc, những ham muốn, và
những hình ảnh mà tư tưởng đã tạo ra từ sự ham muốn.
Tất cả những việc này là sự phân chia của năng lượng.
Liệu chuyển động bị giới hạn này có thể ý thức được
chính nó hay không? Đó là, liệu những giác quan có thể ý
thức được chính chúng hay không? Liệu ham muốn có thể thấy
được chính nó đang nảy sinh từ những giác quan, từ cảm
xúc của hình ảnh mà tư tưởng đã tạo ra, và liệu tư tưởng
có thể ý thức được chính nó, ý thức được chuyển động
của nó hay không? Tất cả những việc này ám chỉ – liệu
toàn thân thể vật chất của con người có thể ý thức được
chính nó hay không?
Chúng
ta sống dựa vào những giác quan của chúng ta. Một trong số
chúng thường thường nổi bật; thính giác, thị giác, vị
giác dường như tách biệt khỏi nhau, nhưng đây có phải là
sự thật hay không? Hay chính bởi vì chúng ta đã cho một giác
quan này hay một giác quan khác sự quan trọng lớn hơn – hay
nói khác đi bởi vì tư tưởng đã trao cho một giác quan một
sự quan trọng lớn hơn? Người ta có lẽ nghe những bản nhạc
hay và hài lòng nó, và vẫn vậy không còn nhạy cảm đến
những sự việc khác. Người ta có lẽ có một vị giác nhạy
cảm nhưng lại hoàn toàn không nhạy cảm đến những màu
sắc khó phân biệt. Đây là sự phân chia. Khi mỗi giác quan
chỉ ý thức được chính nó vậy thì sự phân chia bị duy
trì . Trong cách này năng lượng bị phá vỡ ra. Nếu đây là
như vậy, như nó có vẻ là như thế, liệu có một ý thức
không bị phân chia bởi tất cả những giác quan hay không?
Và tư tưởng là bộ phận của những giác quan. Việc này
ám chỉ – liệu thân thể có thể ý thức được chính nó
hay không? Không phải bạn đang ý thức được thân thể riêng
của bạn nhưng thân thể chính nó đang ý thức. Hiểu rõ điều
này rất quan trọng. Nó không thể được dạy dỗ bởi người
khác: lúc đó nó là thông tin thứ hai mà tư tưởng đang áp
đặt vào chính nó. Bạn phải khám phá cho chính mình liệu
toàn cơ quan, cái thực thể vật chất, có thể ý thức được
chính nó hay không? Bạn có lẽ ý thức được chuyển động
của một cánh tay, một cái chân hay cái đầu, và qua chuyển
động đó nhận ra rằng bạn đang trở nên ý thức được
toàn thân thể, nhưng điều gì chúng ta đang hỏi là: liệu
thân thể có thể tự ý thức được chính nó mà không có
bất kỳ chuyển động nào hay không? Tìm được điều này
thật cần thiết bởi vì tư tưởng đã áp đặt khuôn mẫu
của nó vào thân thể, điều gì nó nghĩ là vận động đúng
cách, ăn uống đúng cách và vân vân. Vì vậy có sự điều
phối của tư tưởng vào các cơ quan thân thể; có một cuộc
đấu tranh có ý thức hay không ý thức giữa tư tưởng và
các cơ quan thân thể. Trong cách này tư tưởng đang hủy diệt
thông minh tự nhiên của chính thân thể. Liệu thân thể, cái
cơ quan vật chất, có thông minh riêng của nó hay không? Nó
có khi tất cả những giác quan đang hành động hòa hợp cùng
nhau để cho không có sự căng thẳng, không có những đòi
hỏi thuộc giác quan hay cảm xúc của ham muốn. Khi người
ta đói, người ta ăn nhưng thường thường vị giác, được
hình thành bởi thói quen, ra lệnh cho họ ăn cái gì. Thế là
sự phân chia xảy ra. Một thân thể lành mạnh có thể tạo
ra được chỉ khi nào có sự hòa hợp của tất cả những
giác quan mà là thông minh của chính thân thể. Điều gì chúng
ta đang hỏi là: không hòa hợp tạo ta sự lãng phí của năng
lượng phải không? Liệu thông minh riêng của cơ quan thân
thể, mà đã bị đè nén hay bị phá hoại bởi tư tưỏng,
có thể được đánh thức hay không?
Hồi
tưởng đảm trách một vai trò thảm khốc vào thân thể. Hồi
tưởng của vui thú ngày hôm qua làm tư tưởng trở thành ông
chủ của thân thể. Thân thể lúc đó trở thành một nô lệ
của ông chủ, và thông minh bị khước từ. Vì vậy có xung
đột. Sự đấu tranh này có thể tự thể hiện chính nó qua
sự lười biếng, qua sự mệt mỏi, qua sự dửng dưng hay trong
những đáp trả loạn thần kinh. Khi thân thể có thông minh
riêng của nó mà được tự do khỏi tư tưởng, mặc dù tư
tưởng là thành phần của nó, thông minh này sẽ bảo vệ
hạnh phúc riêng của nó.
Những
vui thú cai trị cuộc đời chúng ta trong những hình thức có
giáo dục nhất hay thô thiển nhất. Và rõ ràng vui thú là
một hồi tưởng – cái đó mà đã là hay cái đó mà được
mong đợi. Vui thú không bao giờ ở ngay khoảnh khắc này. Khi
vui thú bị khước từ, bị đè nén hay bị ngăn chặn, từ
sự thất vọng này những hành động loạn thần kinh, như
bạo hành và hận thù xảy ra. Sau đó vui thú tìm kiếm những
hình thức và những chỗ thoát khác; thỏa mãn và không thỏa
mãn phát sinh. Muốn ý thức được tất cả những hoạt động
này, cả về thân thể lẫn tâm lý, đòi hỏi một quan sát
toàn chuyển động của cuộc sống một người.
Khi thân thể ý thức được chính nó, sau đó chúng ta có thể hỏi một câu hỏi sâu sắc hơn và có lẽ khó khăn hơn nhiều: liệu tư tưởng, mà đã sắp đặt vào chung toàn ý thức này, có thể ý thức được chính nó hay không? Hầu hết mọi thời gian tư tưởng điều phối thân thể và thế là thân thể mất đi sinh lực của nó, thông minh của nó, năng lượng bẩm sinh riêng của nó, và vì vậy có những phản ứng loạn thần kinh. Thông minh của thân thể có khác biệt với thông minh tổng thể mà có thể hiện diện chỉ khi nào tư tưởng nhận ra giới hạn riêng của nó, tìm được vị trí đúng của nó hay không?
Như chúng ta đã nói ở đầu lá thư này, nở hoa của tốt lành có thể xảy ra chỉ khi nào có sự giải phóng năng lượng tổng thể. Trong giải phóng này không có xung đột. Chỉ trong thông minh tột đỉnh không phân chia mới có nở hoa này. Thông minh này không là một đứa trẻ của lý luận. Tánh tổng thể của thông minh này là từ bi.
Con
người đã cố gắng giải phóng năng lượng vô biên này qua
những hình thức khác nhau của kiểm soát, qua kỷ luật gây
kiệt quệ, qua ăn uống kiêng cử, qua những khước từ, hy
sinh được cống hiến cho nguyên tắc cao cả nhất hay một
vị thần thánh tối thượng nào đó, hay qua hành động kích
thích năng lượng này dựa vào những trạng thái khác nhau.
Tất cả việc này đều ngụ ý sự kiểm soát của tư tưởng
hướng về một kết thúc đã được ao ước trước. Nhưng
điều gì chúng ta đang nói hoàn toàn trái ngược với tất
cả những sự việc này. Liệu tất cả điều này có thể
được chuyển tải cho em học sinh? Đó là trách nhiệm của
bạn phải làm như thế.
Ngày 15 tháng bảy
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-07-1979
Chính
mối quan tâm của những ngôi trường này là tạo ra một thế
hệ mới của những con người được tự do khỏi hành động
tự cho mình là trung tâm. Không có một trung tâm giáo dục
nào khác quan tâm đến điều này và đó là trách nhiệm của
chúng ta, như những người giáo dục, là tạo ra một cái trí
không có mâu thuẫn trong chính nó và chấm dứt sự tranh đấu
và xung đột trong thế giới quanh chúng ta. Liệu cái trí, mà
là một cấu trúc và chuyển động phức tạp, liệu cái trí
đó có thể làm tự do chính nó khỏi mạng lưới mà nó đã
đan kết lại hay không? Mọi con người thông minh đều hỏi
liệu có thể chấm dứt sự xung đột giữa con người và
con người. Một số người đã tìm hiểu nó rất sâu sắc,
rất thông thái; những người khác, vì thấy được sự vô
hy vọng của nó, trở nên cay đắng, ngờ vực, hay hướng
về một tác nhân phía bên ngoài nào đó để giải thoát họ
khỏi những hỗn loạn và đau khổ riêng của họ. Khi chúng
ta hỏi liệu cái trí có thể làm tự do chính nó khỏi ngục
tù mà nó đã tạo ra hay không, đó không là một câu hỏi
hoa mỹ hay thuộc trí năng. Nó được hỏi hoàn toàn nghiêm
túc; nó là một thách thức mà bạn phải trả lời không phải
do thuận tiện hay dễ chịu của bạn nhưng phù hợp với chiều
sâu của thách thức đó. Nó không thể bị trì hoãn.
Một
thách thức không đang hỏi liệu có thể được hay không thể
được, liệu cái trí có khả năng làm tự do chính nó: một
thách thức, nếu nó xứng đáng như vậy, là tức khắc và
mãnh liệt. Muốn đáp lại nó bạn phải có chất lượng mãnh
liệt và tức khắc đó – cảm thấy nó. Khi có sự tiếp
cận mãnh liệt này, vậy thì câu hỏi có những hàm ý lớn
lao. Thách thức đang đòi hỏi sự hoàn hảo tột đỉnh nơi
bạn, không phải chỉ với trí năng nhưng với mọi năng lượng
của toàn thân tâm bạn. Thách thức này không phải ở bên
ngoài bạn. Làm ơn đừng đẩy nó ra bên ngoài, mà là tạo
ra một ý tưởng về nó. Bạn đang đòi hỏi cho chính mình
tánh tổng thể của tất cả năng lượng của bạn.
Chính
đòi hỏi đó lau sạch tất cả kiểm soát, tất cả mâu thuẫn
và bất kỳ phản kháng nào trong chính bạn. Nó ám chỉ một
hội nhập trọn vẹn, một sự hòa hợp hoàn toàn. Đây là
bản thể của tánh không ích kỷ.
Cái
trí với những đáp trả cảm xúc của nó, với tất cả những
sự việc mà tư tưởng đã gom góp vào chung, là ý thức của
chúng ta. Ý thức này, cùng những chứa đựng của nó, là
ý thức của mọi con người, được bổ sung, không hoàn toàn
giống nhau lắm, khác nhau trong những sắc thái và những tinh
tế của nó, nhưng theo căn bản gốc rễ sự hiện hữu của
nó đều tương đồng với tất cả chúng ta. Những nhà khoa
học và những nhà tâm lý học đang tìm hiểu ý thức này
và những vị đạo sư đang chơi đùa với nó để đạt được
những mục đích riêng của họ. Những người nghiêm túc đang
tìm hiểu ý thức như một khái niệm, như một qui trình thí
nghiệm – những đáp trả của bộ não, những làn sóng alpha
và vân vân – như một cái gì đó bên ngoài chính bản thân
họ. Nhưng chúng ta không quan tâm đến những lý thuyết, những
khái niệm, những ý tưởng về ý thức; chúng ta quan tâm đến
hoạt động của nó trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Trong hiểu rõ những hoạt động này, những đáp trả hàng
ngày, những xung đột, chúng ta sẽ có một thấu triệt vào
bản chất và cấu trúc của ý thức riêng của chúng ta. Như
chúng ta đã vạch rõ, tính thực tại căn bản của ý thức
này đều tương đồng với tất cả chúng ta. Nó không là
ý thức đặc biệt của bạn hay ý thức đặc biệt của tôi.
Chúng ta đã thừa hưởng nó và chúng ta đang bổ sung nó, đang
thay đổi nó ở đây và ở đó, nhưng chuyển động căn bản
của nó là tương đồng với tất cả nhân loại.
Ý
thức này là cái trí của chúng ta cùng tất cả những phức
tạp của tư tưởng của nó – những cảm xúc, những đáp
trả thuộc giác quan, hiểu biết được tích lũy, đau khổ,
thương xót, lo âu, bạo hành. Tất cả việc đó là ý thức
của chúng ta. Bộ não rất cổ xưa và nó bị điều kiện
bởi hàng thế kỷ tiến hóa, bởi mọi loại trải nghiệm,
bởi những tích lũy mới đây của hiểu biết được gia tăng.
Tất cả việc này là ý thức trong hành động tại mỗi khoảnh
khắc của cuộc đời chúng ta – sự liên hệ giữa những
con người cùng tất cả những vui thú, những đau khổ, rối
loạn của những giác quan mâu thuẫn nhau và sự thỏa mãn
của ham muốn kèm theo đau khổ của nó. Đây là chuyển động
của cuộc sống chúng ta. Chúng ta đang hỏi, và việc này phải
được gặp gỡ như một thách thức, liệu chuyển động cổ
xưa này có khi nào chấm dứt được hay không? – bởi vì
cái chuyển động này đã trở thành một hoạt động máy
móc, một phương cách truyền thống của cuộc sống. Trong
sự kết thúc có một khởi đầu và ngay đó không còn kết
thúc lẫn khởi đầu.
Ý
thức có vẻ là một vấn đề rất phức tạp nhưng thật
ra nó rất đơn giản. Tư tưởng gom góp vào chung tất cả
những chứa đựng của ý thức chúng ta – sự an toàn của
nó, sự hoang mang của nó, những hy vọng và những sợ hãi
của nó, nỗi u uất và ngất ngây, lý tưởng, ảo tưởng.
Ngay khi sự việc này được hiểu rõ – rằng tư tưởng chịu
trách nhiệm cho toàn bộ những chứa đựng của ý thức chúng
ta – vậy thì một câu hỏi không tránh khỏi nảy sinh –
liệu tư tưởng có thể được chặn đứng lại? Nhiều nỗ
lực đã được thực hiện, tôn giáo và máy móc, để kết
thúc tư tưởng. Chính đòi hỏi để có sự kết thúc
của tư tưởng lại là bộ phận của chuyển động của tư
tưởng. Chính tìm kiếm để có được trạng thái siêu ý
thức vẫn còn là sự đo lường của tư tưởng. Những thần
thánh, những lễ nghi, tất cả những ảo tưởng thuộc cảm
xúc của những nhà thờ, đền chùa và thánh đường cùng
kiến trúc tuyệt vời của chúng vẫn còn là chuyển động
của tư tưởng. Chúa được đặt ở thiên đàng bởi tư tưởng.
Tư
tưởng đã không tạo ra thiên nhiên. Đó là sự thật. Cái
ghế cũng là sự thật, và nó được tạo ra bởi tư tưởng;
tất cả những sự vật công nghệ đã tạo ra là sự thật.
Những
ảo tưởng là cái đó mà lẩn tránh sự thật (điều đang
xảy ra ngay lúc này) nhưng những ảo tưởng trở thành sự
thật bởi vì chúng ta sống theo chúng.
Con
chó không được tạo ra bởi tư tưởng, nhưng cái gì chúng
ta muốn con chó đó là là chuyển động của tư tưởng. Tư
tưởng là đo lường. Tư tưởng là thời gian. Toàn thể việc
này là ý thức của chúng ta. Cái trí, bộ não, những giác
quan là bộ phận của nó. Chúng ta đang hỏi liệu chuyển động
này có thể kết thúc được hay không? Tư tưởng là gốc
rễ của tất cả những đau khổ của chúng ta, tất cả những
xấu xa của chúng ta. Điều gì chúng ta đang yêu cầu là sự
kết thúc của những sự việc này – những sự việc mà
tư tưởng đã sắp xếp vào chung – không là sự kết
thúc của chính tư tưởng nhưng là sự kết thúc của những
lo âu, sầu não, đau khổ, quyền hành, bạo lực của chúng
ta. Với sự kết thúc của những việc này, tư tưởng tìm
được vị trí bị giới hạn, đúng đắn của nó – hiểu
biết hàng ngày và ký ức người ta phải có. Khi những chứa
đựng của ý thức đã được sắp xếp vào chung bởi tư
tưởng không còn năng động nữa, vậy thì có không gian mênh
mang và vì thế giải phóng năng lượng vô biên đã bị giới
hạn bởi ý thức. Tình yêu vượt khỏi ý thức này.
Ngày 01 tháng tám
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-08-1979
Người hỏi: Nếu tôi được phép hỏi ông, điều gì ông coi là một trong những sự việc quan trọng nhất trong cuộc sống? Tôi đã suy nghĩ cẩn thận vấn đề này trong một thời gian dài và có quá nhiều sự việc trong cuộc sống mà tất cả dường như đều quan trọng. Tôi muốn hỏi ông câu hỏi này bằng sự nghiêm túc nhất.
Krishnamurti: Có lẽ đó là nghệ thuật sống. Chúng ta đang sử dụng từ ngữ nghệ thuật trong ý nghĩa rộng rãi nhất của nó. Vì cuộc sống rất phức tạp, luôn luôn khó khăn và bối rối khi chọn ra một khía cạnh và nói khía cạnh đó là quan trọng nhất. Chính sự chọn lựa, chất lượng gây phân biệt đó, nếu tôi được phép vạch rõ, dẫn đến sự hoang mang thêm nữa. Nếu bạn nói khía cạnh này là quan trọng nhất, vậy thì bạn đã khuyến khích những khía cạnh khác của cuộc sống thành một vị trí thứ hai. Hoặc chúng ta nhìn toàn chuyển động của cuộc sống như một thực thể, mà trở nên quá khó khăn cho hầu hết mọi người, hoặc chúng ta dùng một khía cạnh căn bản trong đó tất cả những khía cạnh khác đều có thể bao gồm. Nếu bạn đồng ý việc này, vậy thì chúng ta có thể tiếp tục cuộc nói chuyện của chúng ta.
Người hỏi: Ông có ý nói rằng một khía cạnh có lẽ bao phủ toàn chuyển động của cuộc sống hay sao? Điều đó có thể được à?
Krishnamurti: Điều đó có thể được. Chúng ta hãy tìm hiểu nó rất kỹ càng và từ tốn. Đầu tiên hai chúng ta phải tìm hiểu và không phải ngay lập tức đạt đến một kết luận nào đó mà thông thường khá hời hợt. Chúng ta đang cùng nhau tìm hiểu một khía cạnh của cuộc sống và trong chính hiểu rõ về nó chúng ta có thể bao phủ toàn chuyển động của cuộc sống. Muốn tìm hiểu, chúng ta phải được tự do khỏi những thành kiến, những trải nghiệm cá thể, và những kết luận được khẳng định sẵn của chúng ta. Giống như một nhà khoa học giỏi chúng ta phải có một cái trí không bị chất đầy bởi hiểu biết mà chúng ta đã tích lũy sẵn. Chúng ta phải tiếp cận nó trong sáng lại và đây là một trong những cần thiết khi tìm hiểu, sự tìm hiểu không phải về một ý tưởng hay một chuỗi những ý niệm thuộc triết lý nhưng sự tìm hiểu của những cái trí riêng của chúng ta mà không có bất kỳ phản ứng nào đến điều gì đang được quan sát. Điều này tuyệt đối cần thiết; nếu không sự tìm hiểu riêng của bạn bị phủ màu bởi những sợ hãi, những hy vọng và những vui thú riêng của bạn.
Người hỏi: Ông đang đòi hỏi quá nhiều phải không? Liệu có thể có được cái trí như thế à?
Krishnamurti: Chính sự thôi thúc để tìm hiểu và sự mãnh liệt của tìm hiểu đã làm tự do cái trí khỏi lớp màu tô của nó. Như chúng ta đã nói, một trong những sự việc quan trọng nhất là nghệ thuật sống. Liệu có một cách sống cuộc sống hàng ngày của chúng ta hoàn toàn khác biệt với cái gì nó thông thường là hay không? Tất cả chúng ta đều biết cái thông thường. Liệu có một cách sống mà không có bất kỳ kiểm soát, không có bất kỳ xung đột, không có một tuân phục theo kỷ luật hay không? Làm thế nào tôi có thể tìm được? Tôi chỉ có thể tìm được khi toàn cái trí của tôi đang đối diện chính cái gì đang xảy ra ngay lúc này. Điều này có nghĩa rằng tôi chỉ có thể tìm được nó có nghĩa gì khi sống không có xung đột, khi điều gì đang xảy ra ngay lúc này có thể quan sát được. Quan sát này không là một vấn đề thuộc cảm xúc hay thuộc trí năng nhưng là trực nhận sắc bén, rõ ràng, tinh tế mà trong đó không có hai. Chỉ có thực tại và không còn gì thêm nữa.
Người hỏi: Ông có ý nói gì qua từ ngữ có hai trong trường hợp đặc biệt này?
Krishnamurti: Rằng không có đối nghịch, hay mâu thuẫn trong sự việc gì đang xảy ra. Có hai phát sinh chỉ khi nào có một tẩu thoát khỏi cái gì là. Tẩu thoát này tạo ra đối nghịch và thế là xung đột nảy sinh. Chỉ có sự thật, thực tại và không còn gì thêm nữa.
Người hỏi: Ông đang nói rằng khi một điều gì đó đang xảy ra ngay lúc này được trực nhận, cái trí không được lẻn vào cùng những liên tưởng và những phản ứng phải không?
Krishnamurti: Vâng, đó là điều gì chúng ta có ý nói. Những liên tưởng và những phản ứng đến điều gì đang xảy ra là những quy định của cái trí. Tình trạng bị quy định này ngăn cản sự quan sát điều gì đang xảy ra ngay lúc này. Điều gì đang xảy ra ngay lúc này được tự do khỏi thời gian. Thời gian là sự tăng trưởng của tình trạng bị quy định con người. Nó là gia tài thừa kế của nhân loại, cái gánh nặng không có khởi đầu. Khi có quan sát đam mê này về điều gì đang xảy ra, điều đang được quan sát hòa tan vào trạng thái trống không. Quan sát sự tức giận đang xảy ra ngay lúc này bộc lộ toàn bản chất và cấu trúc của bạo lực. Thấu triệt này là sự kết thúc của tất cả bạo lực. Nó không được thay thế bởi bất kỳ điều gì khác nữa và vì vậy đây là khó khăn của chúng ta. Toàn ham muốn và thôi thúc của chúng ta là tìm ra một kết thúc rõ rệt. Trong kết thúc đó có một ý thức của sự an toàn ảo tưởng.
Người hỏi: Có một khó khăn cho nhiều người chúng tôi trong quan sát sự tức giận bởi vì những cảm xúc và những phản ứng dường như là thành phần không thể nào gỡ ra được của sự tức giận đó. Người ta không cảm thấy tức giận nếu không có những liên tưởng, những chứa đựng.
Krishnamurti: Tức giận có nhiều câu chuyện đằng sau nó. Nó không chỉ là một biến cố đơn lẻ. Nó có, như bạn đã vạch ra, quá nhiều những liên tưởng. Chính những liên tưởng này, cùng những cảm xúc của chúng, ngăn cản quan sát thực sự. Với tức giận, những chứa đựng là sự tức giận. Sự tức giận là những chứa đựng, chúng không là hai sự việc tách rời. Những chứa đựng là những quy định. Trong quan sát đam mê điều gì thực sự đang xảy ra – đó là, những hoạt động của tình trạng bị quy định của cái trí, bản chất và cấu trúc của tình trạng này được tan biến.
Người hỏi: Ông đang nói rằng khi một biến cố đang xảy ra có cái dòng chảy tự nhiên, thôi thúc, ngay lập tức của những liên tưởng trong cái trí phải không? Và nếu người ta ngay tức khắc thấy được động thái bắt đầu này xảy ra, thấy đó ngay tức khắc kết thúc nó và nó biến mất, phải không? Đây là điều gì ông muốn nói phải không?
Krishnamurti: Vâng, nó rất đơn giản, đơn giản đến nỗi bạn bỏ qua tánh rất đơn giản của nó và vì vậy sự tinh tế của nó. Điều gì chúng ta đang nói là bất kỳ cái gì đang xảy ra khi bạn đang đi dạo bộ, đang nói chuyện, đang “thiền định” – biến cố đang xảy ra là để được quan sát. Khi cái trí của bạn lang thang, chính thấy nó là kết thúc huyên thuyên của nó. Vì vậy không có xao lãng tại bất kỳ thời điểm nào.
Người hỏi: Dường như ông đang nói rằng những chứa đựng của tư tưởng theo căn bản không có ý nghĩa gì trong nghệ thuật sống.
Krishnamurti:
Vâng, hồi tưởng không có vị trí trong nghệ thuật sống.
Sự liên hệ là nghệ thuật sống. Nếu có hồi tưởng trong
liên hệ, nó không còn là liên hệ. Liên hệ là giữa những
con người, không là những kỷ niệm của họ. Chính những
kỷ niệm này mới phân chia và vì thế có bất hòa, đối
nghịch của cái người là bạn và cái người là tôi. Vì
thế tư tưởng, mà là hồi tưởng, không có vị trí nào trong
liên hệ. Đây là nghệ thuật sống.
Liên
hệ là cùng tất cả mọi sự vật sự việc – cùng thiên
nhiên, những con chim, những tảng đá, cùng mọi thứ quanh
quanh chúng ta và ở trên chúng ta – cùng những đám mây, những
vì sao và bầu trời xanh. Tất cả mọi hiện hữu là liên
hệ. Nếu không có nó bạn không thể nào sống được. Bởi
vì chúng ta đã làm hư hỏng sự liên hệ nên chúng ta sống
trong một xã hội đang thoái hóa.
Nghệ
thuật sống có thể hiện hữu chỉ khi nào tư tưởng không
làm vấy bẩn tình yêu.
Trong
những ngôi trường này liệu người giáo viên có thể hoàn
toàn cam kết đến nghệ thuật sống này hay không?
Ngày 15 tháng tám
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-08-1979
Nghệ
thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống, vĩ đại hơn tất
cả những sự việc mà con người đã tạo ra, bằng cái trí
hay bàn tay, vĩ đại hơn tất cả những quyển sách kinh và
những thần thánh của chúng. Chỉ qua nghệ thuật sống này
mà một nền văn hoá mới có thể hiện hữu. Đó là trách
nhiệm của mọi giáo viên, đặc biệt trong những ngôi trường
này, phải tạo ra nghệ thuật này. Nghệ thuật sống này chỉ
có thể đến từ tự do tổng thể.
Tự
do này không là một lý tưởng, một sự việc sẽ xảy ra
cuối cùng. Bước đầu tiên trong tự do là bước cuối cùng
trong nó. Chính bước đầu tiên mới có giá trị, không phải
bước cuối cùng. Điều gì bạn làm bây giờ còn cần thiết
nhiều hơn là điều gì bạn làm vào một ngày tháng tương
lai nào đó. Cuộc sống là điều gì đang xảy ra ngay lúc này,
không là một lúc này được tưởng tượng, không là điều
gì tư tưởng đã suy tưởng. Vậy thì chính bước đầu tiên
bạn làm ngay lúc này mới quan trọng. Nếu ước đó trong phương
hướng đúng đắn, vậy thì tổng thể cuộc sống mở toang
cho bạn. Phương hướng đúng đắn đó không là hướng về
một lý tưởng, một kết thúc đã khẳng định trước. Nó
không tách rời khỏi cái đó mà đang xảy ra ngay lúc này.
Đây không là một triết lý, một mớ lý thuyết. Nó là chính
xác cái gì từ ngữ triết lý có nghĩa – tình yêu sự thật,
tình yêu cuộc sống. Nó không là một cái gì đó mà bạn
đi đến trường đại học để học hỏi. Chúng ta đang học
hỏi nghệ thuật sống trong cuộc sống hàng ngày của chúng
ta.
Chúng
ta sống bằng những từ ngữ và những từ ngữ trở thành
ngục tù của chúng ta. Những từ ngữ cần thiết để truyền
đạt nhưng từ ngữ không bao giờ là sự vật. Sự thật,
thực tại không là từ ngữ nhưng từ ngữ trở nên quan trọng
nhất khi nó thay thế cái gì là. Bạn có lẽ quan sát hiện
tượng này khi sự diễn tả đã trở thành sự thật, thực
tại thay vì chính sự kiện được diễn tả – cái biểu
tượng chúng ta tôn thờ, cái bóng chúng ta theo sau, cái ảo
tưởng chúng ta bám vào. Và thế là những từ ngữ, ngôn ngữ,
định hướng những phản ứng của chúng ta. Ngôn ngữ trở
thành một sức mạnh cưỡng bách và những cái trí của chúng
ta bị định hướng, bị kiểm soát bởi từ ngữ. Từ ngữ
quốc gia, chính thể, Chúa, gia đình và vân vân bao vây toàn
bộ chúng ta cùng tất cả những liên tưởng của chúng và
vậy là cái trí của chúng ta trở thành vật nô lệ cho áp
lực của những từ ngữ.
Người hỏi: Làm thế nào điều này có thể tránh được?
Krishnamurti: Từ ngữ không bao giờ là sự việc. Từ ngữ người vợ không bao giờ là con người đó, từ ngữ cửa ra vào không bao giờ là cửa ra vào thực sự. Từ ngữ đã ngăn cản trực nhận thực sự về sự vật hay về con người bởi vì từ ngữ có nhiều liên tưởng. Những liên tưởng này, mà thật ra là những gợi nhớ lại, làm biến dạng không chỉ sự quan sát bằng mắt mà còn bằng tâm lý nữa. Những từ ngữ lúc đó trở thành một vật cản trở vào dòng chảy tự do của quan sát. Hãy coi thử những từ ngữ thủ tướng và thư ký. Chúng diễn tả những chức năng nhiệm vụ, nhưng từ ngữ thủ tướng có ý nghĩa khủng khiếp về quyền hành, giai cấp và sự quan trọng, trái lại từ ngữ thư ký có những liên tưởng đến sự không quan trọng, giai cấp thấp kém, và không quyền hành. Vì thế từ ngữ ngăn cản bạn không nhìn vào cả hai như những con người. Có thói kênh kiệu đã bám rễ trong hầu hết chúng ta, và thấy được những từ ngữ này đã tác động ra sao vào sự suy nghĩ của chúng ta và ý thức không chọn lựa về nó, là học hỏi nghệ thuật quan sát – quan sát không còn liên tưởng.
Người hỏi: Tôi hiểu rõ điều gì ông nói nhưng lại nữa tốc độ của liên tưởng liền ngay lập tức đến độ phản ứng xảy ra trước khi người ta nhận ra nó. Liệu có thể ngăn cản được việc này hay không?
Krishnamurti: Đây không là một câu hỏi sai lầm hay sao? Ai là người ngăn cản nó? Nó có là một biểu tượng khác, một từ ngữ khác, một ý tưởng khác hay không? Nếu nó là như vậy, vậy thì người ta đã không hiểu rõ toàn ý nghĩa sự biến thành nô lệ của cái trí do bởi những từ ngữ, ngôn ngữ. Bạn thấy không, chúng ta sử dụng những từ ngữ đầy cảm xúc; nó là một hình thức của suy nghĩ thuộc cảm xúc, ngoại trừ việc sử dụng những từ ngữ công nghệ như những thước tấc, những con số, mà chính xác. Trong sự liên hệ và hoạt động của con người, những cảm xúc đóng một vai trò lớn lao. Ham muốn rất mạnh mẽ, được nuôi dưỡng bởi tư tưởng đang tạo ra hình ảnh. Hình ảnh là từ ngữ, là bức tranh, và việc này tuân theo vui thú của chúng ta, ham muốn của chúng ta. Vì vậy toàn cách sống của cuộc sống chúng ta được định hướng bởi từ ngữ và những liên tưởng của nó. Thấy toàn qui trình này như một tổng thể là thấy được sự thật về việc tư tưởng ngăn cản trực nhận như thế nào.
Người hỏi: Ông đang nói rằng không có suy nghĩ nếu không có từ ngữ phải không?
Krishamurti: Vâng, trong chừng mực nào đó. Và luôn nhớ rằng chúng ta đang nói về nghệ thuật sống, học hỏi nó, không phải đang thuộc lòng những từ ngữ. Chúng ta đang học hỏi; không phải chúng tôi đang dạy dỗ và bạn đang trở thành một người đệ tử ngờ nghệch. Bạn đang hỏi liệu có suy nghĩ mà không có những từ ngữ hay không. Đây là một câu hỏi rất quan trọng. Toàn suy nghĩ của chúng ta đều được đặt nền tảng trên ký ức, và ký ức đặt nền tảng trên những từ ngữ, những hình ảnh, những biểu tượng, những bức tranh. Tất cả những việc này là những từ ngữ.
Người hỏi: Nhưng điều gì người ta nhớ không là một từ ngữ; nó là một trải nghiệm, một biến cố cảm xúc, một bức tranh của một con người hay một địa điểm. Từ ngữ là sự liên tưởng thứ hai.
Krishnamurti: Chúng ta đang sử dụng từ ngữ để diễn tả tất cả việc này. Rốt cuộc ra, từ ngữ là một biểu tượng để chỉ rõ cái đó mà đã xảy ra hay đang xảy ra, để truyền đạt hay gợi nhớ một điều gì đó. Liệu có một suy nghĩ mà không có toàn qui trình này hay không? Vâng, có chứ, nhưng nó không nên được gọi là suy nghĩ. Suy nghĩ ám chỉ một sự tiếp tục của ký ức nhưng trực nhận không là hoạt động của tư tưởng. Trực nhận thực sự là thấu triệt toàn bản chất và chuyển động của từ ngữ, biểu tượng, hình ảnh và những liên quan thuộc cảm xúc của chúng. Thấy việc này như một tổng thể là đưa từ ngữ vào vị trí đúng đắn của nó.
Người hỏi: Thấy tổng thể có nghĩa là gì? Ông thường xuyên nói đến việc này. Ông có ý gì qua từ ngữ đó?
Krishnamurti: Tư tưởng có tánh phân chia bởi vì trong chính nó, nó bị giới hạn. Quan sát tổng thể ám chỉ không có sự ngăn cản của tư tưởng – quan sát mà không có quá khứ như hiểu biết đang cản trở sự quan sát. Lúc đó người quan sát không còn, vì người quan sát là quá khứ, chính là bản chất của tư tưởng.
Người hỏi: Ông đang yêu cầu chúng tôi ngừng lại tư tưởng?
Krishnamurti: Lại nữa, nếu chúng ta được phép vạch rõ, đó là một câu hỏi sai lầm. Nếu tư tưởng bảo chính nó ngừng suy nghĩ, nó tạo ra có hai và xung đột. Đây là một qui trình rất phân chia của tư tưởng. Nếu bạn thực sự nắm bắt được sự thật của việc này, vậy thì tự nhiên tư tưởng ngừng lại. Tư tưởng sau đó có vị trí giới hạn riêng của nó. Tư tưởng sau đó sẽ không đảm trách toàn vùng đất của cuộc sống, như nó đang làm bây giờ.
Người hỏi: Thưa ông, tôi hiểu được chú ý phi thường cần thiết đến chừng nào. Tôi có thể thực sự có chú ý đó hay không, liệu tôi có đủ nghiêm túc để trao toàn năng lượng của tôi cho việc này hay không?
Krishnamurti:
Năng lượng có thể bị phân chia hay sao? Năng lượng đã tiêu
dùng trong việc kiếm sống, trong việc có một gia đình và
trong việc hoàn toàn nghiêm túc để nắm bắt điều gì đang
được nói là năng lượng tổng thể. Nhưng tư tưởng phân
chia nó và vì vậy chúng ta lãng phí nhiều năng lượng vào
công việc kiếm sống và rất ít về phía khác. Đây là nghệ
thuật mà trong đó không còn phân chia. Đây là sự sống trọn
vẹn, tổng thể của cuộc sống.
Ngày 01 tháng chín
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-09-1979
Tại
sao chúng ta đang được giáo dục? Có lẽ bạn không bao giờ
hỏi câu hỏi này, nhưng nếu bạn có hỏi, câu trả lời của
bạn là gì? Nhiều lý do được đưa ra cho nhu cầu được
giáo dục, những cuộc thảo luận hợp lý, hoàn toàn cần
thiết nhưng nhạt nhẽo. Câu trả lời thường lệ là để
có một công việc làm, để có một nghề nghiệp thành công,
hay để trở nên khéo léo bằng đôi bàn tay của bạn hay bằng
cái trí của bạn. Sự nhấn mạnh to tát được dành cho năng
lực của cái trí để tìm ra cho chính nó một nghề nghiệp
mang lại lợi lộc và không khổ cực. Nếu bạn không nổi
bật phần trí năng vậy thì sự khéo léo của đôi bàn tay
trở nên quan trọng. Người ta nói rằng giáo dục rất cần
thiết để duy trì cái xã hội như nó là, để tuân phục
đến một khuôn mẫu được dựng lên bởi cái tạm gọi là
chính thể nào đó, theo truyền thống hay rất hiện đại.
Cái trí được giáo dục có khả năng lớn lao để thâu lượm
thông tin về hầu hết mọi chủ đề – nghệ thuật, khoa
học và vân vân. Cái trí được thông tin này là thuộc giáo
dục, thuộc nghề nghiệp, thuộc triết lý. Học thức như
thế được ca tụng và tôn vinh rất nhiều. Sự giáo dục
này, nếu bạn chăm chỉ, khéo léo, mau lẹ trong học hỏi của
bạn, sẽ bảo đảm cho bạn một tương lai sáng lạn, sự
sáng lạn của nó tùy thuộc vào hoàn cảnh thuộc môi trường
và xã hội của bạn. Nếu bạn không sáng lạn trong cái khung
của giáo dục này, bạn trở thành một người lao động,
một công nhân nhà máy hay phải tìm một vị trí ở dưới
đáy của cái xã hội rất phức tạp này. Đây thông thường
là phương pháp giáo dục của chúng ta.
Giáo
dục là gì? Căn bản của nó là nghệ thuật học hỏi, không
chỉ từ những quyển sách, nhưng từ toàn chuyển động của
cuộc sống. Từ ngữ được in sẵn đã trở thành quá quan
trọng. Bạn đang học điều gì người khác suy nghĩ, những
ý kiến của họ, những giá trị của họ, những xét đoán
của họ và vô số những trải nghiệm khác nhau của họ.
Cái thư viện còn quan trọng hơn con người có cái thư viện
đó. Chính anh ấy là cái thư viện và anh ấy chấp nhận rằng
anh ấy đang học hỏi bằng cách đọc liên tục. Sự tích
lũy thông tin này, giống như trong một máy vi tính, được
coi như là một cái trí hiểu biết có giáo dục. Rồi thì
có những người không đọc gì cả, rất khinh miệt người
còn lại và thâm nhập trong những trải nghiệm tự cho mình
là trung tâm và những quan niệm được khẳng định riêng
của họ.
Nhận
ra tất cả việc này, chức năng của một cái trí tổng thể
là gì? Chúng ta có ý nói qua từ ngữ cái trí là tất cả
những đáp lại của những giác quan, những cảm xúc – mà
hoàn toàn khác biệt với tình yêu – và khả năng thuộc trí
năng. Hiện nay chúng ta trao tặng sự quan trọng lạ lùng cho
trí năng. Chúng ta có ý nói qua từ ngữ trí năng là khả năng
để lý luận hợp lý, khôn ngoan hay không khôn ngoan, khách
quan hay chủ quan. Chính trí năng cùng chuyển động tư tưởng
của nó mới tạo ra sự phân chia của tình trạng bị quy định
của con người. Chính trí năng đã phân chia thế giới theo
ngôn ngữ, theo quốc gia, theo tôn giáo – đã phân chia con người
với con người. Trí năng là yếu tố tâm điểm của sự thoái
hóa của con người khắp thế giới, bởi vì trí năng chỉ
là một bộ phận của tình trạng bị quy định và khả năng
của con người. Khi bộ phận được tán dương quá mức, được
ca tụng và ban cho những vinh dự, khi nó chiếm tất cả mọi
quan trọng, lúc đó cuộc sống của con người mà là liên
hệ, hành động, cư xử, trở thành mâu thuẫn, đạo đức
giả, rồi thì lo âu và tội lỗi xuất hiện. Trí năng có
vị trí của nó, như trong khoa học, nhưng con người đã sử
dụng hiểu biết khoa học không chỉ cho lợi ích của anh ấy
mà còn tạo ra những dụng cụ chiến tranh và làm ô nhiễm
quả đất. Trí năng có thể trực nhận những hoạt động
riêng của nó mà tạo ra thoái hóa nhưng nó hoàn toàn không
có khả năng chấm dứt sự thoái hóa riêng của nó bởi vì
theo căn bản nó chỉ là một bộ phận.
Như
chúng ta đã nói, giáo dục là bản thể của học hỏi. Học
hỏi về bản chất của trí năng, sự thống trị của nó,
những hoạt động của nó, những khả năng vô hạn của nó
và quyền năng hủy diệt của nó là giáo dục. Học hỏi bản
chất của tư tưởng, mà là chính chuyển động của trí năng,
không phải từ một quyển sách nhưng từ quan sát thế giới
chung quanh bạn – học hỏi điều gì chính xác đang xảy ra
mà không có những lý thuyết, những thành kiến và những
giá trị, là giáo dục. Những quyển sách là quan trọng nhưng
điều gì còn quan trọng hơn nhiều là học hỏi quyển sách,
câu chuyện của chính bạn, bởi vì bạn là tất cả nhân
loại. Đọc được quyển sách đó là nghệ thuật học hỏi.
Tất cả đều nằm ở đó; những học viện; những áp lực
của chúng, những áp đặt và tín điều thuộc tôn giáo, sự
hung bạo của chúng, những trung thành của chúng. Cấu trúc
của tất cả xã hội là sự liên hệ giữa những con người
cùng tham lam, những tham vọng của họ, bạo lực của họ,
những vui thú của họ, những lo âu của họ. Nó ở đó nếu
bạn biết phương cách quan sát. Quan sát đó không phải bên
trong. Quyển sách đó không phải bên ngoài hay được che giấu
trong chính bạn. Tất cả nó đều ở quanh quanh bạn: bạn
là thành phần của quyển sách đó. Quyển sách đó kể cho
bạn câu chuyện của con người và nó phải được đọc trong
những liên hệ của bạn, trong những phản ứng của bạn,
trong những khái niệm và những giá trị của bạn. Quyển
sách đó là trung tâm của toàn thân tâm bạn và học hỏi
là đọc quyển sách đó bằng ân cần sắc sảo. Quyển sách
đó kể cho bạn câu chuyện của quá khứ, làm thế nào quá
khứ định hướng cái trí của bạn, quả tim của bạn và
những giác quan của bạn. Quá khứ định hướng hiện tại,
bổ sung nó tùy theo thách thức của khoảnh khắc này. Và trong
chuyển động vô tận của thời gian này con người đã bị
giam hãm lại. Chuyển động thời gian này là tình trạng bị
quy định của con người. Quy định này đã là gánh nặng
vô tận của con người, của bạn, và của người anh của
bạn.
Những
triết gia, những nhà thần học, những vị thánh đã chấp
nhận tình trạng bị quy định này, đã cho phép sự chấp
nhận nó, đã vận dụng hết sức về nó; hay họ đã chuyển
những tẩu thoát vào những ảo tưởng của những trải nghiệm
huyền bí, của các vị thần thánh và những thiên đàng. Giáo
dục là nghệ thuật học hỏi về tình trạng bị quy định
này và phương cách thoát khỏi nó, tự do khỏi gánh nặng
này. Có một phương cách vượt khỏi nó nhưng không là một
tẩu thoát, mà có nghĩa không chấp nhận những sự việc như
chúng là. Đó không là sự lẩn tránh tình trạng bị quy định,
đó không là sự trấn áp nó. Đó là kết thúc tình trạng
bị quy định.
Khi
bạn đọc những hàng này hay khi bạn nghe nó, hãy ý thức
được liệu rằng bạn đang lắng nghe hay đang đọc bằng
khả năng từ ngữ của trí năng hay bằng sự chăm chú của
chú ý? Khi có chú ý tổng thể này không còn quá khứ nữa
nhưng chỉ còn quan sát thuần túy của cái gì đang xảy ra
thực sự.
Ngày 15 tháng chín
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-09-1979
Người
ta có khuynh hướng không nhớ hay không lưu tâm đến trách
nhiệm của người giáo dục là tạo ra một thế hệ mới
của những con người mà theo tâm lý, ở bên trong được tự
do khỏi những đau khổ, những lo lắng và lao dịch. Nó là
một trách nhiệm thiêng liêng, không phải để bị thoái thác
một cách dễ dãi chỉ vì những tham vọng, địa vị hay quyền
hành riêng của người ta. Nếu người giáo dục cảm thấy
một trách nhiệm như thế – sự vĩ đại của nó và chiều
sâu lẫn vẻ đẹp của trách nhiệm – anh ấy sẽ tìm được
khả năng để giảng dạy và để trợ sức năng lượng riêng
của anh ấy. Việc này đòi hỏi sự chuyên cần lớn lao, không
phải một gắng sức ngẫu nhiên, có thời hạn, và chính trách
nhiệm sâu xa đó sẽ nhóm lên ngọn lửa mà sẽ duy trì anh
ấy như một con người tổng thể và một giáo viên vĩ đại.
Vì thế giới đang suy thoái rất mau lẹ, trong tất cả những
ngôi trường này phải có một nhóm những giáo viên và những
học sinh hiến dâng cho công việc tạo ra một thay đổi cơ
bản cho những con người nhờ vào phương pháp giáo dục đúng
đắn. Từ ngữ đúng đắn không là một vấn đề của ý
kiến, đánh giá hay một khái niệm nào đó được sáng chế
bởi trí năng. Từ ngữ đúng đắn có nghĩa hành động tổng
thể mà trong đó tất cả động cơ của tư lợi chấm dứt.
Chính trách nhiệm tổng thể này, sự quan tâm không chỉ của
người giáo dục mà còn của em học sinh, xóa đi những vấn
đề tự tạo liên tục. Cái trí dù thiếu chín chắn như thế
nào chăng nữa, ngay khi bạn chấp nhận trách nhiệm này chấp
nhận đó tạo ra sự nở hoa của cái trí. Nở hoa này ở trong
liên hệ giữa em học sinh và người giáo dục. Nó không là
công việc của một phía. Khi bạn đọc những hàng này, làm
ơn hãy vận dụng chú ý tổng thể của bạn và cảm thấy
sự khẩn thiết và mãnh liệt của trách nhiệm này. Làm ơn
đừng biến nó thành một điều trừu tượng, một ý tưởng,
nhưng trái lại hãy quan sát sự kiện thực sự, điều đang
xảy ra thực sự trong khi đọc những hàng này.
Hầu
hết con người trong cuộc sống của họ, đều ham muốn quyền
hành và giàu có. Khi được giàu có, có một ý thức của
tự do, và vui thú được theo đuổi. Ham muốn có quyền hành
dường như là một bản năng được tự diễn tả trong nhiều
cách. Nó ở trong vị giáo sĩ, vị đạo sư, người chồng
hay người vợ, hay trong một cậu trai đối với một cậu
trai khác. Ham muốn thống trị hay phục tùng này là một trong
những quy định của con người, có thể được thừa hưởng
nơi thú vật. Sự hung hăng và nhường nhịn này làm hư hỏng
tất cả những liên hệ trong suốt cuộc sống. Đây đã là
cái khuôn mẫu từ khi có sự bắt đầu của thời gian. Con
người đã chấp nhận việc này như một phương cách tự
nhiên của cuộc sống, với tất cả những xung đột và những
đau khổ mà nó mang lại.
Theo
căn bản đo lường có liên quan trong nó – nhiều hơn và ít
hơn, to hơn và nhỏ hơn – mà thực chất là so sánh. Người
ta luôn luôn đang so sánh chính mình với người khác, đang
so sánh một bức tranh với một bức tranh khác; có sự so sánh
giữa quyền hành lớn hơn và kém hơn, giữa người nhút nhát
và người hung hăng. Nó bắt đầu hầu như ngay từ khi mới
sinh và tiếp tục suốt cuộc sống – đo lường liên tục
này của quyền hành, địa vị, giàu có. Điều này được
khuyến khích trong những trường tiểu học, những trường
trung học, những trường cao đẳng và những trường đại
học. Toàn hệ thống phân hạng của chúng là giá trị so sánh
của hiểu biết này. Khi A được so sánh với B, mà thông minh,
sáng láng, tự khẳng định, chính so sánh đó đã hủy hoại
A. Sự hủy hoại này mang hình thức của ganh đua, của bắt
chước và tuân phục đến những khuôn mẫu được xác định
bởi B. Việc này nuôi dưỡng, có ý thức hay không ý thức,
thù nghịch, ganh tị, lo âu và thậm chí sợ hãi; và việc
này trở thành một quy định mà trong đó A sống phần còn
lại của cuộc đời em, luôn luôn đang đo lường, luôn luôn
đang so sánh theo tâm lý và vật chất.
Sự
so sánh này là một trong nhiều khía cạnh của bạo lực. Từ
ngữ “nhiều hơn” luôn luôn so sánh, và từ ngữ “tốt
hơn” cũng vậy. Câu hỏi là, liệu người giáo dục có thể
xóa bỏ đi tất cả so sánh, tất cả đo lường trong việc
dạy học của anh ấy hay không? Liệu anh ấy có thể chấp
nhận em học sinh như em là, không phải như em nên là gì, không
thực hiện những xét đoán được dựa vào những giá trị
so sánh hay không? Chỉ khi nào có sự so sánh giữa người được
gọi là khôn ngoan và người được gọi là đần độn thì
mới có một chất lượng được gọi là sự đần độn.
Người ngu dốt – anh ấy là một người ngu dốt bởi vì
so sánh hay bởi vì anh ấy không có khả năng trong những hoạt
động nào đó? Chúng ta đã đặt ra những tiêu chuẩn nào
đó được dựa vào đo lường và những người không đạt
được những tiêu chuẩn đó được coi như là ngu dốt. Khi
người giáo dục xóa sạch so sánh và đo lường, lúc đó anh
ấy quan tâm đến em học sinh như em là và sự liên hệ của
anh ấy với em học sinh là trực tiếp ngay thẳng và hoàn
toàn khác hẳn. Hiểu rõ được điều này rất quan trọng.
Tình yêu không có so sánh. Nó không có đo lường. So sánh và
đo lường là những phương cách của trí năng. Đây là sự
phân chia. Khi sự việc này căn bản đã được hiểu rõ rồi,
không phải nghĩa lý bằng từ ngữ nhưng sự thật của nó
– liên hệ của người giáo viên và em học sinh trải qua
một thay đổi cơ bản. Những kiểm tra cuối cùng của đo
lường là những kỳ thi cùng sợ hãi và lo âu của chúng mà
ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống tương lai của em học
sinh. Toàn không khí của một ngôi trường trải qua một thay
đổi khi không còn ý thức của ganh đua, so sánh.
Ngày 01 tháng mười
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01 –10-1979
Một
trong những đặc điểm của con người là nuôi dưỡng những
giá trị. Từ niên thiếu chúng ta đã được khuyến khích
đặt ra cho chính chúng ta những giá trị bám rễ nào đó.
Mỗi con người có những mục đích và những dự định lâu
dài riêng của anh ấy. Tự nhiên những giá trị của một
người khác biệt với những giá trị của những người khác.
Những giá trị này đã được nuôi dưỡng hoặc bởi ham muốn
hoặc bởi trí năng. Chúng có thể là mơ mộng, dễ chịu,
an ủi hay thực tế. Những giá trị này rõ ràng khuyến khích
sự phân chia giữa con người và con người. Những giá trị
là cao quí hay thấp hèn tùy theo những thành kiến và dự định
của người ta. Không cần nêu ra những loại giá trị khác
nhau, tại sao con người có những giá trị và kết quả của
chúng là gì? Nghĩa lý căn bản của từ ngữ giá trị (value)
là sức mạnh. Nó đến từ từ ngữ “valour”, dũng cảm.
Sức mạnh không là một giá trị. Nó trở thành một giá trị
khi nó là đối nghịch của yếu ớt. Sức mạnh – không phải
thuộc cá tính con người có từ kết quả của áp lực xã
hội – là bản thể của sự rõ ràng. Suy nghĩ rõ ràng thì
không có những thành kiến, không có những sai lệch; nó là
quan sát mà không bị biến dạng. Sức mạnh hay dũng cảm không
là một sự việc được vun quén như bạn ươm một cái cây
hay một giống mới. Nó không là một kết quả. Một kết
quả có một nguyên nhân và khi có một nguyên nhân nó biểu
hiện một yếu ớt; những kết quả của yếu ớt là kháng
cự hay nhượng bộ. Rõ ràng không có nguyên nhân. Rõ ràng
không là một hậu quả hay một kết cục; nó là sự quan sát
thuần khiết của tư tưởng và hoạt động tổng thể của
nó. Rõ ràng này là sức mạnh.
Nếu
việc này được hiểu rõ, tại sao con người đã tạo ra những
giá trị? Liệu có phải rằng để cho họ sự hướng dẫn
trong cuộc sống hàng ngày hay không? Liệu có phải rằng để
cho họ một mục đích, vì nếu không cuộc đời trở thành
hoang mang, mê mờ không có phương hướng, hay không? Nhưng phương
hướng được lập ra bởi trí năng hay ham muốn và vì thế
chính cái phương hướng trở thành một biến dạng. Những
biến dạng này khác biệt giữa con người này và con người
kia, và con người bám vào chúng trong vô vàn rối loạn không
ngưng nghỉ. Người ta có thể quan sát những kết cục khi
có những giá trị: chúng tách rời con người với con người
và xếp đặt một con người chống lại một con người khác.
Được mở rộng ra, sự việc này dẫn đến đau khổ, đến
bạo lực và cuối cùng đến chiến tranh.
Những
lý tưởng là những giá trị. Những lý tưởng thuộc bất
kỳ loại nào là một loạt của những giá trị, thuộc quốc
gia, tôn giáo, tập thể, cá thể, và người ta có thể quan
sát những kết quả của những lý tưởng này vì chúng đang
xảy ra trong thế giới. Khi người ta thấy sự thật của việc
này, cái trí được giải thoát khỏi tất cả những giá trị
và với cái trí như thế chỉ còn lại sự rõ ràng. Một cái
trí bám vào hay ham muốn một trải nghiệm đang theo đuổi
ảo tưởng của giá trị, và vì thế trở thành riêng tư,
lén lút, và phân chia.
Là
một người giáo dục, bạn có thể giải thích việc này cho
một em học sinh: hãy không có giá trị nào cả nhưng hãy sống
bằng sự rõ ràng mà không có một giá trị hay không? Điều
này có thể tạo ra được khi chính người giáo dục cảm
thấy sâu sắc sự thật của việc này. Nếu anh ấy không
cảm thấy, vậy thì nó chỉ trở thành một giải thích bằng
từ ngữ mà không có bất kỳ tầm quan trọng sâu sắc nào
cả. Điều này phải được chuyển tải không chỉ cho những
em học sinh lớn hơn mà còn cho những em học sinh còn rất
bé. Những em học sinh lớn hơn hầu như đã bị điều kiện
quá nặng nề trong áp lực của xã hội và của cha mẹ cùng
những giá trị của họ; hay chính các em đã đặt ra những
mục đích riêng mà trở thành nhà tù của các em. Với những
em còn rất bé điều gì quan trọng nhất là giúp đỡ em được
tự do chính em khỏi những áp lực và những vấn đề thuộc
tâm lý. Bây giờ những em còn rất bé đang được dạy những
vấn đề thuộc trí năng phức tạp; sự học hỏi của các
em đang trở nên mỗi lúc một kỹ thuật hơn; các em càng ngày
càng được trao cho nhiều thông tin trừu tượng; những hình
thái khác nhau của hiểu biết đang được áp đặt vào bộ
não của các em, vì vậy đang quy định các em ngay từ thời
niên thiếu. Trái lại điều gì chúng ta đang quan tâm là phải
giúp đỡ cho những em học sinh còn rất bé này không có những
vấn đề thuộc tâm lý để được tự do khỏi sợ hãi, lo
âu, hung bạo, để có sự ân cần, quảng đại và thương
yêu. Điều này còn quan trọng hơn là áp đặt hiểu biết
vào những cái trí non nớt của các em. Điều này không có
nghĩa rằng em học sinh không nên học đọc, viết và vân vân,
nhưng sự nhấn mạnh được đặt vào tự do tâm lý thay vì
thâu lượm hiểu biết, mặc dù việc đó cũng cần thiết.
Tự do này không có nghĩa rằng em bé được làm điều gì
em muốn nhưng giúp đỡ em hiểu rõ bản chất những phản
ứng của em, những ham muốn của em.
Việc
này đòi hỏi nhiều thấu triệt về phần của người giáo
viên. Rốt cuộc ra, bạn muốn em học sinh là một con người
tổng thể mà không có bất kỳ vấn đề tâm lý nào; nếu
không em sẽ sử dụng sai lầm bất kỳ hiểu biết nào mà
em được dạy dỗ. Giáo dục của chúng ta hướng về mục
đích sống trong cái đã được biết và vì thế là một nô
lệ cho quá khứ với tất cả những truyền thống, những
ký ức, những trải nghiệm của nó. Cuộc sống của chúng
ta từ cái đã được biết đến cái đã được biết, vì
vậy không bao giờ có sự tự do khỏi cái đã được biết.
Nếu người ta sống liên tục trong cái đã được biết sẽ
không có điều gì mới mẻ, không có điều gì khởi đầu,
không có điều gì không bị nhiễm bẩn bởi tư tưởng. Tư
tưởng là cái đã được biết. Nếu sự giáo dục của chúng
ta là sự tích lũy liên tục của cái đã được biết vậy
thì những cái trí và tâm hồn của chúng ta trở thành máy
móc không có bất kỳ sinh lực vô biên nào của cái không
biết được. Cái có sự liên tục là hiểu biết, vĩnh viễn
bị giới hạn. Và cái bị giới hạn phải vĩnh viễn tạo
ra những vấn đề. Kết thúc của sự tiếp tục – mà là
thời gian – là nở hoa của không thời gian.
Ngày 15 tháng mười
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-10-1979
Những
thầy cô hay những người giáo dục là những con người. Chức
năng của họ là giúp đỡ em học sinh học hỏi – không phải
chỉ môn học này hay môn học kia – nhưng còn hiểu rõ toàn
bộ mọi hoạt động của học hỏi; không chỉ thâu lượm
thông tin về những môn học khác nhau nhưng căn bản phải
là những con người tổng thể. Những ngôi trường này không
chỉ là những trung tâm của học hỏi nhưng chúng còn phải
là những trung tâm của tốt lành và tạo ra một cái trí tôn
giáo. Khắp thế giới những con người đang bị thoái hóa
trên một mức độ to tát hơn hoặc nhỏ bé hơn. Khi vui thú,
cá thể hay tập thể, trở thành sự quan tâm thống trị trong
cuộc sống – vui thú của dục tình, vui thú của khẳng định
ý muốn riêng của người ta, vui thú của hưng phấn, vui thú
của tư lợi, vui thú của quyền hành và địa vị, sự đòi
hỏi kiên trì để vui thú riêng của người ta được thành
tựu – có thoái hóa. Khi những liên hệ của con người trở
thành cẩu thả, không nghiêm túc, được dựa vào vui thú,
có thoái hóa. Khi trách nhiệm đã mất đi ý nghĩa tổng thể
của nó, khi không còn sự chăm sóc ân cần cho người khác,
hay cho quả đất và những sự vật của đại dương, sự
không quan tâm đến quả đất và bầu trời này là một hình
thức khác của thoái hóa. Khi có đạo đức giả trong những
vị trí cao, khi có gian manh trong thương mại, khi những lời
nói dối là thành phần của những câu nói hàng ngày, khi có
sự chuyên chế của một ít người, khi chỉ những sự vật
vật chất chiếm ưu thế – có sự phản bội của tất cả
cuộc sống. Rồi thì giết chóc trở thành ngôn ngữ duy nhất
của cuộc sống. Khi tình yêu bị coi là vui thú, vậy thì con
người đã tự cô lập với vẻ đẹp và sự thiêng liêng
của cuộc sống.
Vui
thú luôn luôn thuộc cá thể, một qui trình cô lập. Mặc dù
người ta nghĩ rằng vui thú là một điều gì đó được chia
sẻ với người khác, thật ra, qua sự thỏa mãn, nó là một
hành động cô lập, khép kín của cái tôi, của cái tôi lệ
thuộc. Vui thú càng to lớn bao nhiêu, sự củng cố cái tôi
lệ thuộc càng vững chắc bấy nhiêu. Khi có sự theo đuổi
vui thú, những con người đang trục lợi lẫn nhau. Khi vui thú
trở thành thống trị trong cuộc sống của chúng ta, sự liên
hệ được khai thác vì mục đích này và vì vậy không có
liên hệ thực sự với một người khác. Lúc đó liên hệ
trở thành công việc mua bán. Sự thôi thúc để thành tựu
đặt nền tảng vào vui thú và khi vui thú đó bị khước từ
hay không tìm được những phương tiện để diễn tả, vậy
thì có tức giận, ngờ vực, hận thù hay cay đắng. Sự theo
đuổi vui thú liên tục này là sự điên cuồng thực sự.
Tất
cả việc này chỉ rõ rằng con người, bất kể hiểu biết
rộng rãi của anh ấy, những khả năng lạ thường của anh
ấy, năng lượng thúc đẩy của anh ấy, hành động hung hăng
của anh ấy, đang trên đà suy thoái phải không? Điều này
rõ ràng khắp thế giới – trạng thái tự cho mình là trung
tâm có tính toán này với những sợ hãi, những vui thú và
những âu lo của nó.
Vậy
thì trách nhiệm tổng thể của những ngôi trường này là
gì? Chắc chắn chúng phải là những trung tâm của mục đích
học hỏi một cách sống không đặt nền tảng vào vui thú,
vào những hoạt động tự cho mình là trung tâm, nhưng vào
hiểu rõ của hành động đúng đắn, chiều sâu và vẻ đẹp
của sự liên hệ, và sự thiêng liêng của một cuộc sống
tôn giáo. Khi thế giới quanh chúng ta quá hủy hoại và không
còn ý nghĩa nữa, những ngôi trường này, những trung tâm
này, phải trở thành những nơi của ánh sáng và thông thái.
Chính trách nhiệm của những con người đang đảm trách những
ngôi trường này là tạo ra những việc này.
Tất
cả những việc này là khẩn thiết, những lời biện minh
bào chữa không có ý nghĩa gì cả. Hoặc những trung tâm này
giống như một tảng đá mà những dòng nước của băng hoại
đang trôi chảy quanh nó, hoặc những trung tâm này chảy theo
cùng dòng chuyển động của băng hoại. Những nơi này hiện
hữu cho sự khai sáng con người.
Ngày 01 tháng mười một
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-11-1979
Trong
một thế giới nơi con người cảm thấy bị đe dọa bởi
những biến động xã hội, dư thừa dân số, những cuộc
chiến tranh, bạo lực và nhẫn tâm khủng khiếp, mỗi con người
mỗi lúc một quan tâm đến sự tồn tại riêng của anh ấy
nhiều hơn trước kia.
Sự tồn tại ngụ ý rằng sống khôn ngoan, hạnh phúc, không
có áp lực hay căng thẳng to lớn. Mỗi con người thể hiện
sự tồn tại tùy theo quan niệm đặc biệt riêng của anh ấy.
Người lý tưởng thể hiện một lối sống không là thực
tại; những triết gia dù là chủ nghĩa Mác, hay tôn giáo, hay
thuộc bất kỳ tín ngưỡng đặc trưng nào khác, đã đặt
ra những khuôn mẫu cho sự tồn tại; những người theo chủ
nghĩa quốc gia coi sự tồn tại chỉ có thể thực hiện được
trong một nhóm hay một cộng đồng đặc biệt. Những khác
biệt, những lý tưởng và những trung thành thuộc hệ tư
tưởng này là những gốc rễ của một phân chia đang ngăn
cản sự tồn tại của con người.
Con
người muốn tồn tại trong một phương cách đặc biệt, tùy
theo những đáp lại chật hẹp của họ, tùy theo những vui
thú ngay lập tức của họ, tùy theo một trung thành nào đó,
tùy theo một đấng cứu rỗi, đấng tiên tri hay vị thánh
thuộc tôn giáo nào đó. Tất cả việc này không có cách nào
mang lại sự an toàn, bởi vì trong chính chúng, chúng có tánh
phân chia, độc quyền, bị giới hạn. Sống trong hy vọng của
sự tồn tại theo truyền thống, dù rằng nó cổ xưa hay mới
mẻ bao nhiêu, đều không có ý nghĩa gì cả. Những giải pháp
từng phần thuộc bất kỳ loại nào – khoa học, tôn giáo,
chính trị, kinh tế – không còn bảo đảm cho nhân loại sự
tồn tại của nó. Con người đã quan tâm đến sự tồn tại
cá thể riêng của anh ấy, đến gia đình anh ấy, đến tổ
chức của anh ấy, đến quốc gia sắc tộc của anh ấy, và
bởi vì tất cả những việc này là phân chia nó đe dọa sự
tồn tại thực sự của anh ấy. Những phân chia hiện nay của
những quốc gia, của sắc tộc, của văn hóa, của tôn giáo
là những nguyên nhân của tình trạng bất ổn trong sự tồn
tại của con người. Trong sự hỗn loạn của tình trạng bất
ổn trên thế giới ngày hôm nay đã khiến con người hướng
về uy quyền – hướng về những chuyên gia kinh tế, tôn giáo
hay chính trị. Chuyên gia rõ ràng là một người nguy hiểm
bởi vì sự đáp lại của anh ấy phải luôn luôn thiên vị,
bị giới hạn. Con người không còn là cá thể, tách rời.
Điều gì ảnh hưởng đến một ít người ảnh hưởng đến
toàn thể nhân loại. Không có tẩu thoát hay lẩn tránh khỏi
vấn đề. Bạn không còn có thể rút lui khỏi tổng thể tình
trạng nan giải của con người.
Chúng
ta đã trình bày vấn đề, nguyên nhân và bây giờ chúng ta
phải tìm ra giải pháp. Giải pháp này không được lệ thuộc
vào bất kỳ loại áp lực nào – xã hội, tôn giáo, kinh tế,
chính trị hay thuộc bất kỳ tổ chức nào. Chúng ta không
thể tồn tại nếu chúng ta chỉ quan tâm đến sự tồn tại
riêng của chúng ta. Tất cả những con người khắp thế giới
ngày nay đều liên hệ hỗ tương với nhau. Điều gì xảy
ra cho một quốc gia ảnh hưởng đến những quốc gia khác.
Con người đã coi chính bản thân anh ấy như một cá thể
tách rời những con người khác nhưng theo tâm lý một con người
không thể tách rời toàn thể nhân loại.
Không
có một sự việc như tồn tại thuộc tâm lý. Khi có ham muốn
để tồn tại hay để thành tựu này, bạn phần tâm lý đang
tạo ra một tình huống không những tách rời mà còn hoàn
toàn không có thật. Theo tâm lý bạn không thể tách rời khỏi
người khác. Và ham muốn tách rời theo tâm lý này chính là
nguồn gốc của nguy hiểm và hủy hoại. Mỗi con người đang
khẳng định chính anh ấy đe dọa sự tồn tại riêng của
anh ấy.
Khi
sự thật của việc này được thấy và hiểu rõ, trách nhiệm
của con người trải qua một sự thay đổi cơ bản không chỉ
đối với hoàn cảnh sống ngay lập tức của anh ấy mà còn
đối với tất cả mọi sinh vật. Trách nhiệm tổng thể này
là từ bi. Từ bi này hành động qua thông minh. Thông minh này
không phải từng phần, cá thể, tách rời. Từ bi không bao
giờ từng phần. Từ bi là sự thiêng liêng của tất cả những
sinh vật.
Ngày 15 tháng mười một
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-11-1979
Chúng
ta nên suy xét rất nghiêm túc, không chỉ trong các ngôi trường
này nhưng còn như những con người, khả năng để cùng
nhau làm việc; để cùng nhau làm việc với thiên nhiên, với
những sinh vật của quả đất, và cũng với những con người
khác. Như những con người trong xã hội chúng ta tồn tại
vì chính chúng ta. Những luật pháp của chúng ta, những chính
phủ của chúng ta, những tôn giáo của chúng ta tất cả đều
nhấn mạnh vào sự tách rời của con người mà trong suốt
những thế kỷ đã phát triển thành con người chống lại
con người. Nó đang trở nên mỗi lúc một quan trọng hơn,
nếu chúng ta muốn tồn tại, rằng là cần có một tinh thần
cộng tác cùng vũ trụ, cùng tất cả những sự vật của
đại dương và quả đất.
Người
ta có thể trông thấy trong tất cả cấu trúc xã hội sự
ảnh hưởng hủy hoại của phân chia đang xảy ra – quốc
gia chống lại quốc gia, một nhóm chống lại một nhóm khác,
một gia đình chống lại một gia đình khác, một cá thể
chống lại một cá thể khác. Nó cũng như vậy, tôn giáo,
xã hội và kinh tế. Mỗi người đang phấn đấu nỗ lực
cho chính anh ấy, cho giai cấp của anh ấy hay cho lợi ích đặc
biệt của anh ấy trong cộng đồng. Sự phân chia của những
niềm tin, những lý tưởng, những kết luận và những thành
kiến này đang ngăn cản tinh thần cộng tác không nở hoa được.
Chúng ta là những con người, không phải là những nhận dạng
thuộc bộ lạc, độc quyền, tách rời. Chúng ta là những
con người bị trói buộc trong những kết luận, những lý
thuyết, những trung thành. Chúng ta là những sinh vật, không
là những nhãn hiệu. Chính bởi vì hoàn cảnh của con người
mới thúc đẩy chúng ta tìm kiếm thực phẩm, quần áo và
chỗ ở qua sự thiệt hại và nguy hiểm của những sinh vật
khác. Chính suy nghĩ của chúng ta là tách rời và tất cả
mọi hành động bắt nguồn từ suy nghĩ bị giới hạn này
phải ngăn cản sự cộng tác. Cấu trúc xã hội và kinh tế,
như nó là bây giờ, kể cả những tôn giáo có tổ chức,
củng cố thêm tình trạng độc quyền, tình trạng tách rời.
Sự thiếu cộng tác này cuối cùng gây ra những cuộc chiến
tranh và hủy diệt con người. Chỉ trong thời gian có những
cuộc khủng hoảng hay những thảm họa dường như chúng ta
mới cộng tác cùng nhau, và khi chúng chấm dứt chúng ta lại
quay trở về tình trạng bị quy định cũ của chúng ta. Dường
như chúng ta không có khả năng sống và làm việc cùng nhau
một cách hòa hợp. Đó có phải vì bộ não của chúng ta,
mà là trung tâm tư tưởng của chúng ta, cảm thấy của chúng
ta, từ những ngày xa xưa qua những nhu cầu căn bản đã trở
nên quá bị điều kiện để tìm kiếm sự tồn tại cá thể
riêng của nó, đến nỗi qui trình tách rời gây hiếu chiến
này đã xảy ra hay không? Có phải bởi vì qui trình tách rời
này nhận dạng chính nó với gia đình, với bộ lạc, và trở
thành chủ nghĩa quốc gia được tôn vinh hay không? Đó không
phải rằng tất cả những tách rời đều liên kết đến
một nhu cầu có được sự nhận dạng và thành tựu hay sao?
Sự quan trọng của cái tôi đã không được nuôi dưỡng qua
tiến hóa bởi sự đối nghịch của cái tôi và cái bạn,
cái chúng tôi và cái chúng nó hay sao? Tất cả những tôn giáo
đã không nhấn mạnh vào sự cứu rỗi cá thể, sự khai sáng
cá thể, sự thành tựu cá thể, cả tôn giáo lẫn trong thế
giới hay sao? Sự cộng tác đã trở thành không thể thực
hiện được bởi vì chúng ta đã trao sự quan trọng như thế
vào tài năng, vào chuyên biệt, vào thành tựu, vào thành công
– tất cả đều là sự tách rời được nhấn mạnh phải
không? Có phải bởi vì sự cộng tác của con người đã tập
trung vào một loại uy quyền nào đó của chính phủ hay tôn
giáo, quanh một học thuyết hay một kết luận nào đó, mà
sau đó rõ ràng sẽ tạo ra sự đối nghịch gây hủy hoại
riêng của nó hay không?
Cộng
tác nghĩa là gì – không phải từ ngữ nhưng tinh thần của
nó? Bạn không thể cộng tác cùng người khác, cùng quả đất
và cùng sông ngòi biển cả của nó, nếu trong chính bạn không
được hòa hợp, bị vỡ vụn, bị mâu thuẫn; bạn không thể
cộng tác nếu chính bạn phải chịu đựng căng thẳng, áp
lực, xung đột. Làm thế nào bạn có thể cộng tác cùng vũ
trụ nếu bạn quan tâm đến bản thân mình, những vấn đề
của bạn và những tham vọng của bạn? Không thể có cộng
tác nếu tất cả những hoạt động của bạn đều tự cho
mình là trung tâm và bạn nhồi nhét đầy ích kỷ riêng của
bạn, đầy những ham muốn và những vui thú bí mật riêng
của bạn. Chừng nào trí năng cùng những tư tưởng của nó
còn điều phối tất cả những hoạt động của bạn, hiển
nhiên không thể nào có được sự cộng tác, bởi vì tư tưởng
là từng phần, thiên vị, chật hẹp và mãi mãi phân chia.
Cộng tác đòi hỏi sự chân thật lớn lao. Chân thật không
có động cơ. Chân thật không là lý tưởng nào đó, trung
thành nào đó. Chân thật là sự rõ ràng – trực nhận rõ
ràng về những sự vật sự việc như chúng là. Trực nhận
là chú ý. Chính chú ý đó tỏa ra ánh sáng, cùng tất cả
năng lượng của nó, vào sự vật đang được quan sát. Ánh
sáng trực nhận này tạo ra sự chuyển đổi của sự vật
được quan sát. Không có hệ thống dựa vào đó bạn học
hỏi để cộng tác. Nó không dành cho sự hình thành cơ cấu
và phân hạng. Chính bản chất của nó đòi hỏi phải có
tình yêu và tình yêu đó không thể đo lường được, bởi
vì khi bạn so sánh – mà là bản thể của đo lường – tư
tưởng đã thâm nhập vào. Nơi nào tư tưởng đã hiện diện,
tình yêu không có mặt.
Bây
giờ liệu điều này có thể được chuyển tải cho em học
sinh và liệu cộng tác có thể tồn tại giữa những người
giáo dục trong những ngôi trường này hay không? Những ngôi
trường này là trung tâm của một thế hệ mới với một
tầm nhìn mới mẻ, với một ý thức mới mẻ để là những
công dân của thế giới, quan tâm đến tất cả những sinh
vật của thế giới này. Đó là trách nhiệm quan trọng của
bạn phải tạo ra tinh thần cộng tác này.
Ngày 01 tháng mười hai
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 01-12-1979
Thông minh và khả năng của trí năng là hai sự việc hoàn toàn khác biệt. Có lẽ hai từ ngữ này có cùng nguồn gốc nhưng với mục đích làm rõ ràng ý nghĩa đầy đủ của từ bi, chúng ta phải có thể phân biệt sự khác nhau về nghĩa lý của hai từ ngữ này. Trí năng là khả năng để nhận thức, để lý luận, để tưởng tượng, để tạo ra những ảo tưởng, để suy nghĩ rõ ràng và cũng để suy nghĩ không khách quan, cá thể. Trí năng thông thường được nghĩ là khác biệt với cảm xúc, nhưng chúng ta sử dụng từ ngữ trí năng để diễn tả toàn khả năng của con người cho tư tưởng. Tư tưởng là sự đáp lại của ký ức được tích lũy qua những trải nghiệm khác nhau, có thật hay tưởng tượng, được lưu trữ như hiểu biết trong bộ não. Vì thế khả năng của trí năng là suy nghĩ. Suy nghĩ bị giới hạn trong mọi hoàn cảnh và khi trí năng điều phối những hoạt động của chúng ta trong cả thế giới bên ngoài lẫn thế giới bên trong, tự nhiên những hành động của chúng ta phải là từng phần, không tổng thể. Việc này tạo ra hối tiếc, lo âu và đau khổ.
Tất cả những lý thuyết và những học thuyết trong chính nó là từng phần và khi những nhà khoa học, những nhà kỹ thuật và những người tạm gọi là triết gia thống trị xã hội của chúng ta, những luân lý đạo đức của chúng ta – và vì vậy cuộc sống hàng ngày của chúng ta – lúc đó chúng ta không bao giờ đối diện với những sự thật của điều gì đang xảy ra trong thực tế. Những ảnh hưởng này tỏa cái bóng lên những trực nhận của chúng ta, những hiểu biết trực tiếp của chúng ta. Chính trí năng tìm ra lời giải thích cho những hành động sai trái cũng như những hành động đúng đắn. Nó biện minh thái độ cư xử sai trái, giết chóc và những cuộc chiến tranh. Nó định nghĩa tốt lành như một đối nghịch của xấu xa. Tốt lành không có đối nghịch. Nếu tốt lành liên quan đến xấu xa, vậy thì tốt lành sẽ có trong nó những hạt giống của xấu xa. Vậy thì nó sẽ không là tốt lành. Nhưng trí năng, bởi vì cái khả năng phân chia riêng của nó, không thể hiểu rõ được sự nguyên vẹn của tốt lành. Trí năng – tư tưởng luôn luôn so sánh, đang đánh giá, đang ganh đua, đang bắt chước; vì vậy chúng ta trở thành những con người phó bản, đang tuân phục. Trí năng đã trao tặng những lợi ích to tát cho nhân loại nhưng nó cũng mang lại hủy diệt lớn lao. Nó đã nuôi dưỡng những nghệ thuật của chiến tranh nhưng lại không có khả năng xóa đi những rào chắn giữa những con người. Lo âu là thành phần thuộc bản chất của trí năng, giống như tổn thương, bởi vì trí năng là tư tưởng, tạo ra hình ảnh mà sau đó có thể bị tổn thương.
Khi người ta hiểu rõ được toàn bản chất và chuyển động của trí năng lẫn tư tưởng, chúng ta có thể bắt đầu tìm hiểu thông minh là gì. Thông minh là khả năng trực nhận tổng thể. Thông minh không có khả năng phân chia những giác quan, những cảm xúc, trí năng ra khỏi nhau. Nó coi chúng như một chuyển động đồng nhất. Bởi vì trực nhận của nó luôn luôn là tổng thể, nó không có khả năng phân chia con người với con người, không có khả năng đưa con người chống lại thiên nhiên. Bởi vì trong chính bản chất của thông minh là tổng thể, nó không có khả năng giết chóc.
Thực tế tất cả các tôn giáo đều nói rằng đừng giết chóc nhưng họ không bao giờ ngăn cản công việc giết chóc. Vài tôn giáo đã nói rằng những sự vật của quả đất, gồm cả những sinh vật, được đặt ở đó cho con người sử dụng – vì vậy giết chóc và hủy diệt. Giết chóc vì vui thú, giết chóc vì thương mại, giết chóc vì chủ nghĩa quốc gia, giết chóc vì những học thuyết, giết chóc vì sự trung thành của người ta, tất cả đều được công nhận như một phương cách của cuộc sống. Vì chúng ta đang giết chóc những sinh vật của quả đất và của biển cả, chúng ta đang trở nên mỗi lúc một cô lập và trong cô lập này chúng ta trở nên mỗi lúc một tham lam, tìm kiếm vui thú, trong mọi hình thức. Trí năng có lẽ trực nhận được việc này nhưng lại không có khả năng của hành động tổng thể. Thông minh, mà không tách rời tình yêu, sẽ không bao giờ giết chóc.
Không giết chóc, nếu nó là khái niệm, một lý tưởng, không là thông minh. Khi thông minh đang hoạt động tích cực trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, nó sẽ bảo cho chúng ta khi nào cộng tác và khi nào không cộng tác. Chính bản chất của thông minh là nhạy cảm và nhạy cảm này là tình yêu.
Nếu
không có thông minh này không thể có từ bi. Từ bi không là
làm những hành động từ thiện hay sửa đổi xã hội; nó
được tự do khỏi cảm tính, lãng mạn và lòng nhiệt thành
theo cảm xúc. Nó cũng mạnh mẽ như là chết. Nó giống như
một tảng đá khổng lồ, không bị lay động trong hoang mang,
đau khổ và lo âu. Nếu không có từ bi này không có một văn
hóa hay xã hội mới mẻ nào có thể hiện hữu được. Từ
bi và thông minh chuyển động cùng nhau, chúng không tách rời.
Từ bi hành động qua thông minh. Nó không bao giờ có thể hành
động qua trí năng. Từ bi là bản thể của sự sống tổng
thể.
Ngày 15 tháng mười hai
Thư gởi trường học – Quyển I – Ngày 15-12-1979
Những con người trên khắp thế giới đã biến trí năng trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Như người ta quan sát, những người Ấn độ cổ xưa, những người Ai cập cổ xưa và những người Hi lạp cổ xưa, tất cả đều tôn vinh trí năng như là một chức năng quan trọng nhất trong cuộc sống. Thậm chí những người Phật giáo đã trao cho nó sự quan trọng. Trong mỗi trường đại học, trường cao đẳng và trường trung học khắp thế giới, dù rằng dưới chế độ độc tài hay trong những chế độ tạm gọi là dân chủ, nó đã đảm trách một vai trò thống trị. Chúng ta có ý nói qua từ ngữ trí năng, khả năng để quan sát, để nhận thức rõ, để chọn lựa, để cân bằng, tất cả công nghệ của khoa học hiện đại. Bản thể của trí năng là – phải vậy không – toàn chuyển động của tư tưởng. Tư tưởng điều phối thế giới trong cả cuộc sống bên ngoài lẫn cuộc sống bên trong. Tư tưởng đã tạo ra tất cả những thần thánh của thế giới, tất cả những nghi lễ, những tín điều, những niềm tin. Tư tưởng cũng đã tạo ra những nhà thờ, những đền chùa, những thánh đường với cấu trúc tuyệt vời của nó, và những am miếu của địa phương. Tư tưởng phải chịu trách nhiệm cho công nghệ luôn luôn bành trướng này, những cuộc chiến tranh và vũ khí phương tiện của chúng, sự phân chia của những con người thành những quốc gia, thành những giai cấp và thành những chủng tộc. Tư tưởng đã là và có thể vẫn còn là vật kích động của sự hành hạ tinh thần và thể xác nhân danh Chúa, nhân danh hòa bình, nhân danh trật tự. Nó cũng phải chịu trách nhiệm cho những cuộc cách mạng, cho những người khủng bố, cho những nguyên lý cơ bản và những lý tưởng thực dụng. Nhờ vào tư tưởng chúng ta sống. Những hành động của chúng ta được đặt nền tảng trên tư tưởng, những liên hệ của chúng ta cũng được thành lập bởi tư tưởng, vì thế trí năng đã được tôn sùng khắp mọi thời đại.
Nhưng tư tưởng đã không tạo ra thiên nhiên – những bầu trời và vô số vì sao của chúng, quả đất với tất cả vẻ đẹp của nó, với biển cả mênh mông và đất liền xanh tươi. Tư tưởng đã không tạo ra được cái cây nhưng tư tưởng đã sử dụng cái cây để xây dựng ngôi nhà, để làm cái ghế. Tư tưởng sử dụng và hủy diệt, Tư tưởng không thể tạo ra tình yêu, trìu mến và chất lượng của vẻ đẹp. Nó đã đan quyện lại thành một mạng lưới của những ảo tưởng và những thực tế. Khi chúng ta sống chỉ dựa vào tư tưởng, cùng tất cả những phức tạp và tinh tế của nó, cùng những mục đích và những phương hướng của nó, chúng ta đánh mất đi chiều sâu lớn lao của cuộc sống, bởi vì tư tưởng là giả tạo. Mặc dầu nó giả vờ tìm hiểu rất sâu sắc, chính cái dụng cụ này lại không thể thâm nhập vượt khỏi những giới hạn riêng của nó. Nó có thể chiếu rọi tương lai nhưng tương lai đó lại được sinh ra từ những gốc rễ của quá khứ. Những sự vật mà tư tưởng đã tạo ra là thực tế có thật – giống như một cái bàn, giống như cái hình ảnh mà bạn thờ phụng – nhưng cái hình ảnh, cái biểu tượng mà bạn thờ phụng được đặt lại với nhau bởi tư tưởng, gồm cả nhiều ảo tưởng của nó – lãng mạn, lý tưởng, nhân đạo. Những con người chấp nhận và sống cùng những sự việc của tư tưởng – tiền bạc, chức vụ, giai cấp và sự xa xỉ của một nền tự do mà tiền bạc mang lại. Đây là toàn chuyển động của tư tưởng và trí năng và qua cửa sổ chật hẹp này của cuộc sống chúng ta, chúng ta quan sát thế giới.
Liệu có bất kỳ chuyển động nào khác không thuộc trí năng và tư tưởng hay không? Đây đã là sự tìm hiểu của nhiều nỗ lực thuộc cả khoa học và triết học lẫn tôn giáo. Khi chúng ta sử dụng từ ngữ tôn giáo chúng ta không có ý nói về sự vô nghĩa của niềm tin, những nghi lễ, tín điều và cấu trúc chức sắc. Chúng ta có ý nói qua từ ngữ một người đàn ông tôn giáo hay một người phụ nữ tôn giáo là những người đã được tự do chính họ khỏi hàng thế kỷ của truyền bá, khỏi cái trọng tải không còn sinh khí của truyền thống, cổ xưa hay hiện đại. Những triết gia buông thả trong những lý thuyết, trong những ý niệm, trong những theo đuổi của ý tưởng không thể tìm hiểu vượt khỏi cái cửa sổ chật hẹp của tư tưởng, những nhà khoa học cùng những khả năng phi thường của anh ấy, cùng suy nghĩ có lẽ sáng tạo của anh ấy, với hiểu biết vô hạn của anh ấy cũng không thể tìm hiểu được. Hiểu biết là kho lưu trữ của ký ức và phải có tự do khỏi cái đã được biết để tìm hiểu cái vượt khỏi nó. Phải có tự do để tìm hiểu mà không có bất kỳ ngục tù nào, không có bất kỳ quyến luyến đến những trải nghiệm của người ta, đến những kết luận của người ta, đến tất cả những sự việc mà con người đã áp đặt vào chính con người. Trí năng phải đứng yên trong sự yên lặng tuyệt đối mà không còn bất kỳ rung động nào của tư tưởng.
Hiện nay giáo dục của chúng ta được dựa vào sự vun quén của trí năng, của tư tưởng và hiểu biết, mà cần thiết trong lãnh vực hoạt động hàng ngày của chúng ta, nhưng chúng không có vị trí trong sự liên hệ tâm lý của chúng ta với nhau bởi vì chính bản chất của tư tưởng là phân chia và hủy hoại. Khi tư tưởng điều phối tất cả những hoạt động của chúng ta và tất cả những liên hệ của chúng ta, nó tạo ra một thế giới của bạo lực, kinh hoàng, xung đột và đau khổ.
Trong những ngôi trường này đây phải là sự quan tâm của tất cả mọi người chúng ta – những người trẻ và những người già.