Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 12: Đề-bà-đạt-đa

22 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9367)
Phẩm 12: Đề-bà-đạt-đa


PHẨM 12

ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA

Căn cứ kinh A-hàm thì đương thời với Phật, Đề-bà-đạt-đa là người có tham vọng thay Phật thống lãnh Tăng đoàn, từng làm cho thân Phật ra máu, phá hoại Phật nhiều cách, làm chướng ngại sự tu tiến của Phật chẳng những một đời mà nhiều đời ở quá khứ. Với con mắt phàm phuNhị thừa thì thấy Đề-bà-đạt-đa là người tội lỗi, phạm tội ngũ nghịch phải đọa địa ngục. Nhưng ở đây dưới mắt Phật thì Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức của Phật, nhờ Đề-bà-đạt-đa Ngài mới được viên mãn công hạnh Bồ-tát để thành Phật. Như vậy nhãn quan của kinh A-hàm và kinh Đại thừa về Đề-bà-đạt-đa rất dị biệt, phần sau sẽ giải thích.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ-tát và hàng trời, người, bốn chúng:

- Ta ở trong vô lượng kiếp về thời quá khứ cầu kinh Pháp Hoa không có lười mỏi. Trong nhiều kiếp thường làm vị Quốc vương phát nguyện cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, lòng không thối chuyển. Vì muốn đầy đủ Sáu pháp ba-la-mật nên siêng làm việc bố thí lòng không lẫn tiếc, bố thí voi, ngựa, bảy báu, nước, thành, vợ, con, tôi tớ, bạn bè, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, thân, thịt, tay, chân, chẳng tiếc thân mạng.

Thuở đó, nhân dân trong đời sống lâu vô lượng, Vua vì mến pháp nên thôi bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho Thái tử. Đánh trống rao lệnh cầu pháp khắp bốn phương: “Ai có thể vì ta nói pháp Đại thừa, thời ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ.”

Khi ấy có vị Tiên nhân đến thưa cùng Vua rằng: “Ta có pháp Đại thừa tên là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nếu Đại vương không trái ý ta, ta sẽ vì Đại vương mà tuyên nói.”

Vua nghe lời vị Tiên nhân nói, vui mừng hớn hở, liền đi theo vị Tiên nhân để cung cấp việc cần dùng: hoặc hái trái, gánh nước, hoặc lượm củi, nấu ăn cho đến dùng thân mình làm giường ghế, thân tâm không biết mỏi. Thuở đó theo phụng thờ vị Tiên nhân trải qua một nghìn năm, vì trọng pháp nên siêng năng cung cấp hầu hạ cho Tiên nhân không thiếu thốn.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

2.-

Ta nhớ kiếp quá khứ
cầu pháp Đại thừa
Dầu làm vị Quốc vương
Chẳng ham vui ngũ dục.
Đánh chuông rao bốn phương
Ai có pháp Đại thừa
Nếu vì ta giải nói
Thân sẽ làm tôi tớ.
Giờ có tiên Trường thọ
Đến thưa cùng Đại vương
Ta có pháp nhiệm mầu
Trong đời ít có được
Nếu có thể tu hành
Ta sẽ vì ông nói.
Khi Vua nghe Tiên nói
Sanh lòng rất vui đẹp
Liền đi theo Tiên nhân
Cung cấp đồ cần dùng
Lượm củi và rau trái
Theo thời cung kính dâng
Lòng ham pháp Đại thừa
Thân tâm không lười mỏi,
Khắp vì các chúng sanh
Siêng cầu pháp mầu lớn
Cũng không vì thân mình
Cùng với vui ngũ dục
Nên dầu làm Vua lớn
Siêng năng được pháp này
Do đó được thành Phật
Nay vẫn vì ông nói.

GIẢNG:

Phẩm này cũng có vẻ huyền bí như phẩm Hiện Bảo Tháp, nếu không khéo nghe có thể hiểu lầm. Trước hết Phật kể lại thuở vô lượng kiếp về trước, Ngài từng làm Quốc vương cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, muốn viên mãn hạnh Lục độ, thực hành pháp Bố thí rốt ráo không tiếc thân mạng, Vua truyền ngôi cho Thái tử, đi khắp nơi để cầu pháp. Lúc bấy giờ có vị Tiên nhân tự giới thiệu với Vua là ông có pháp Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, nếu Vua không trái ý ông thì ông sẽ vì Vua mà nói. Vua nghe rất vui mừng bèn theo vị Tiên ấy trải qua một ngàn năm, xả thân, phụng thờ, hầu hạ, cung cấp mọi nhu cầu không thiếu sót. Ở đây Quốc vương vì muốn viên mãn hạnh Lục độ để thành Phật, nên Ngài thực hành pháp Bố thí, buông xả tất cả những sở hữu như danh vọng, quyền hành, vợ con... cho tới thân mạng cũng không lẫn tiếc, tức là không còn chấp thân tâm là thật, không còn chấp ngoại cảnh là thật. Do buông xả tất cả ngã pháp, nên mới thể nhập Tri kiến Phật. Xưa Thiền sư Qui Tông đệ tử của ngài Mã Tổ, là người buông xả tất cả nên được Thiền sư Hoàng Bá khen: “Trong đây chỉ có Qui Tông là người tiêu chảy đầy đất.” Tổ nói nghe có vẻ tiếu ngạo, nhưng kỳ thật đó là lời tán thán hạnh buông xả của ngài Qui Tông. Tu mà không buông xả, còn một niệm chấp thủ thì không bao giờ thấy đạo.

Vì vậy vừa có một niệm dấy khởi, dù là niệm thiện hay niệm bất thiện đều phải buông, đó là xả. Buông sạch không còn một niệm, tâm thanh tịnh đó mới thật là xả.

CHÁNH VĂN:

3.- Phật bảo các Tỳ-kheo rằng:

- Thuở ấy, Vua đó thời chính thân ta, còn Tiên nhân đó nay chính là ông Đề-bà-đạt-đa. Do nhờ ông thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa làm cho ta đầy đủ Sáu pháp ba-la-mật, từ bi hỉ xả, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía, mười trí lực, bốn món vô sở úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám món bất cộng, thần thông đạo lực, thành bậc Đẳng chánh giác rộng độ chúng sanh, tất cả công đức đó đều là nhân thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa cả.

GIẢNG:

Phật nói vị Tiên nhân thuở xưa, nay chính là Đề-bà-đạt-đa, vị Quốc vương cầu đạo, nay chính là Ngài. Nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà Phật thực hành viên mãn Sáu pháp ba-la-mật, từ bi hỉ xả... được đầy đủ công đức trí tuệthành Phật. Chỗ này chúng ta phải hiểu cho thấu đáo, nếu không, thì sẽ hoang mang nghi ngờ.

Trong kinh A-hàm Phật có tuyên bố rằng Đề-bà-đạt-đa sau khi chết sẽ đọa địa ngục không thể cứu. Tôn giả A-nan là em ruột của Đề-bà-đạt-đa nghe Phật nói vậy lo sợ thương khóc, đến thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn do thiên nhãn mà Phật nói như vậy, hay Ngài dùng trí suy luận quán xét về nhân duyên mà nói như vậy?” Phật trả lời rằng: “Ta dùng trí xét thì thấy Đề-bà-đạt-đa không có một hành vi thiện nên ta nói như thế.” Nhìn theo lý nhân quả thì Đề-bà-đạt-đa tạo quá nhiều nghiệp ác, mà tội nặng nhất là phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu, đó là hai tội trong năm tội ngũ nghịch. Chỉ tạo một trong năm tội ngũ nghịch là phải đọa địa ngục rồi huống là hai tội. Đó là cái nhìn tương đối theo kinh A-hàm dạy bỏ ác làm thiện, mà Đề-bà-đạt-đa đã làm nhiều điều ác, nên Phật nói đọa địa ngục để hướng dẫn chư Tỳ-kheo tu, bỏ pháp ác thực hành pháp thiện.

Còn kinh Pháp Hoa thì chỉ thẳng Tri kiến Phật. Tri kiến Phật thì không bị giới hạn bởi không gian thời gian, không kẹt trong pháp tương đối hai bên. Giáo lý cứu kính không cho phép chúng ta nhìn hai bên thiện ác mà phải thấy vượt trên cả thiện ác. Khi đã nhận ra nơi mình có cái chân thậtPhật tánh thì ở trong mọi hoàn cảnh bất như ý phải khắc phục để vượt qua, như thế công hạnh Bồ-tát mới viên mãn, thành Phật. Ví dụ thầy A phát tâm tu hạnh bố thí, đem rất nhiều của cải tiền bạc xây chùa, cúng Tăng, giúp đỡ người đau bệnh tật nguyền nghèo khó... Tuy nhiên, thầy cũng còn để lại một vài vật quí mà thầy ưa thích. Một hôm có người đến xin vật quí đó, nếu thầy A thấy người xin là kẻ xấu lợi dụng lòng tốt của mình nên không cho, như vậy hạnh bố thí của thầy chưa tròn. Tuy thầy A quí các vật đó không đem ra bố thí, nhưng có người xin, thầy vui vẻ cho và thấy người dám xin là người tốt, muốn giúp cho thầy buông xả rốt ráo, sớm thành tựu hạnh bố thí.

Hạnh nhẫn nhục và những hạnh khác cũng vậy. Nếu người phát tâm tu hạnh nhẫn nhục mà không có sự thử thách thì hạnh nhẫn nhục không viên mãn. Ví dụ thầy B là người giữ giới rất nghiêm minh, sống rất thành thật hài hòa trên kính dưới nhường, nên rất được thầy bạn thương quí. Thầy phát tâm tu hạnh nhẫn nhục. Một hôm bất thần có người mắng thầy thậm tệ, cho thầy là kẻ phạm trai, phá giới, phản thầy, lừa bạn, không xứng đáng là người tu. Nếu thầy tức giận phân bua cải chính thì thầy thực hành hạnh nhẫn nhục chưa tròn. Nếu thầy bình thản chấp tay Mô Phật, thấy người đó đã vì sự tu tiến của thầy mà phải chấp nhận nghiệp ác khẩu, họ đã hi sinh quá nhiều, không phải Bồ-tát nghịch hạnh là gì? Thầy không giận mà còn nhớ ơn và kính trọng. Như vậy thì không có niệm oán thù thân sơ để đi tới từ bi bình đẳng, có như thế công hạnh nhẫn nhục của thầy mới viên mãn.

Bồ-tát có khi hiện thuận hạnh, an ủi vỗ về trong khi chúng ta nguy khốn hay thối tâm Bồ-đề; có khi hiện nghịch hạnh để thử thách, khiến người đang kẹt trong cảnh xuôi thuận được thức tỉnh để tiến. Cả hai thuận hạnh hay nghịch hạnh đều là Bồ-tát giúp cho người tu được viên mãn công hạnh tu hành. Nếu thấy người an ủi vỗ về giúp đỡ là người ơn, người thử thách rầy mắng là kẻ phá hại, còn thấy người ơn và kẻ hại là còn thấy hai. Còn thấy hai thì không thể nào nhận ra Tri kiến Phậtkinh Pháp Hoa đã dạy. Vì vậy nên ở đây Phật nói Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức của Ngài, không phải đời này mà là nhiều kiếp về trước. Nhờ thiện hữu tri thức Đề-bà-đạt-đa mà Phật viên mãn công hạnh Bồ-tát, được thành Phật.

CHÁNH VĂN:

4.- Phật bảo hàng tứ chúng:

- Qua vô lượng kiếp về sau, ông Đề-bà-đạt-đa sẽ được thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên Đạo, lúc Thiên Vương Phật trụ ở đời hai mươi trung kiếp, rộng vì các chúng sanh mà nói pháp mầu, hằng hà sa chúng sanh được quả A-la-hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Duyên giác, hằng hà sa chúng sanh phát tâm Vô thượng đạo, được Vô sanh nhẫn đến bậc Bất thối chuyển.

Sau khi đức Thiên Vương Phật nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ lại đời hai mươi trung kiếp, toàn thân xá-lợi dựng tháp bằng bảy báu, cao sáu mươi do-tuần, ngang dọc bốn mươi do-tuần. Các hàng trời, nhân dân đều đem hoa đẹp, hương bột, hương xoa, hương đốt, y phục, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng báu, kỹ nhạc ca tụng để lễ cúng dường tháp đẹp bằng bảy báu đó. Vô lượng chúng sanh được quả A-la-hán, vô lượng chúng sanh ngộ Bích-chi Phật, bất khả tư nghì chúng sanh phát tâm Bồ-đề đến bậc bất thối chuyển.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Đề-bà-đạt-đa, sanh lòng trong sạch kính tin chẳng sanh nghi lầm, thời chẳng đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, được sanh ở trước các đức Phật trong mười phương, chỗ người đó sanh ra thường được nghe kinh này. Nếu sanh vào cõi nhân thiên thời hưởng sự vui rất thắng diệu, nếu sanh ở trước Phật thời từ hoa sen hóa sanh.

GIẢNG:

Tới đây Phật thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa sau thành Phật hiệu là Thiên Vương, cõi nước cũng trang nghiêm đẹp đẽ, đồ đệ cũng đông đảo. Phật lại kết thúc rằng: Nếu đời sau, ai nghe phẩm Đề-bà-đạt-đa mà kính tin không nghi thì không đọa ba đường ác, sanh vào cõi lành, từ hoa sen sanh. Tại sao chỉ tin mà phước lớn như vậy? Vì Tri kiến Phật không phải chỉ có nơi người thiện mà người ác cũng có. Từ trước những người thiện biết hướng về Phật pháp, biết trì kinh Pháp Hoa đều đã được Phật thọthành Phật. Đến đây, người làm điều ác phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu như Đề-bà-đạt-đa cũng được Phật thọthành Phật. Như vậy để thấy rằng người thiện hay ác đều có Tri kiến Phật, nếu biết thức tỉnh tu hành thì sẽ thành Phật. Kế đó là đối với tất cả chướng duyên, người tu khắc phục được, tâm không phiền não luôn luôn thanh tịnh thì có một sức mạnh phi thường, tiến vững trên đường đạo, không yếu hèn rơi trong đường ác.

CHÁNH VĂN:

5.- Bấy giờ ở Hạ phương vị Bồ-tát theo hầu đức Đa Bảo Như Lai tên là Trí Tích bạch với đức Đa Bảo Phật nên trở về bổn quốc, đức Thích-ca Mâu-ni Phật bảo Trí Tích rằng:

- Thiện nam tử! Chờ giây lát, cõi đây có Bồ-tát tên Văn-thù-sư-lợi có thể cùng ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bổn độ.

Lúc đó, ngài Văn-thù-sư-lợi ngồi hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, các vị Bồ-tát cùng theo cũng ngồi hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta-kiệt-la trong biển lớn tự nhiên vọt lên trụ trong hư không, đến núi Linh Thứu, từ trên hoa sen bước xuống đến chỗ Phật, đầu mặt kính lạy chân hai đức Phật, làm lễ xong, qua chỗ Trí Tích cùng hỏi thăm nhau rồi ngồi một phía.

Ngài Trí Tích Bồ-tát hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng:

- Ngài qua cung rồng hóa độ chúng sanh số được bao nhiêu?

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Số đó vô lượng không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm lường được, chờ chừng giây lát sẽ tự chứng biết.

Ngài Văn-thù nói chưa dứt lời, liền có vô số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh Thứu trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát này đều là của ngài Văn-thù-sư-lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ-tát đều chung luận nói Sáu pháp ba-la-mật. Những vị mà trước kia là Thanh văn ở giữa hư không nói hạnh Thanh văn nay đều tu hành “nghĩa không” của Đại thừa.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với ngài Trí Tích rằng:

- Tôi giáo hóa ở nơi biển việc đó như thế.

Lúc ấy, ngài Trí Tích Bồ-tát nói kệ khen rằng:

Đại Trí đức mạnh mẽ
Hóa độ vô lượng chúng
Nay trong hội lớn này
Và tôi đều đã thấy
Diễn nói nghĩa thiệt tướng
Mở bày pháp Nhứt thừa
Rộng độ các chúng sanh
Khiến mau thành Bồ-đề.

GIẢNG:

Bồ-tát Thị giả của Phật Đa Bảo ở phương dưới tên là Trí Tích. Tích là dấu vết, là chứa nhóm, Trí Tích là trí hiểu biết do huân tập, nên còn kẹt còn vướng mắc. Trí này còn phân biệt còn vướng mắc, thuộc về Hữu sư trí, nên không thể tin nhận Tri kiến Phật. Vì vậy mà ở đây biểu trưng bằng hình ảnh Bồ-tát Trí Tích ở Hạ phương đòi trở về bản quốc. Bồ-tát Văn-thù tiêu biểu cho Căn bản trí. Căn bản trí hằng dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái chấp trước, luôn thanh tịnh, có khả năng tin nhận Tri kiến Phật, nên biểu trưng bằng hình ảnh Bồ-tát Văn-thù ngồi hoa sen lớn từ biển lớn vọt lên hư không, đến núi Linh Thứu đảnh lễ Phật. Sau khi đảnh lễ Phật, Bồ-tát Trí Tích và Bồ-tát Văn-thù cùng thăm hỏi nhau. Hai vị Bồ-tát gặp nhau để làm gì? Vì Bồ-tát Trí Tích thuộc về Hữu sư trí, do huân tu, tùy duyên ứng hiện giáo hóa chúng sanh mà được. Còn Bồ-tát Văn-thù là Căn bản trí có sẵn nơi mỗi người hằng thanh tịnh sáng suốt. Hai trí này hợp nhau mới viên mãn đạo Bồ-đề thành Phật, nên nói Bồ-tát Trí Tích và Bồ-tát Văn-thù cùng ra mắt luận nói pháp mầu. Lại nữa, Căn bản trí là trí biết đầy đủ, biết được Tri kiến Phật sẵn có nơi mọi chúng sanh. Vô số chúng sanh ở cõi Ta-bà này ai cũng có Tri kiến Phật, nên nói Bồ-tát Văn-thù giáo hóa vô lượng vô số chúng sanh không thể tính kể.

CHÁNH VĂN:

6.- Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Ta ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: 

- Kinh này rất sâu vi diệu là báu trong các kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau được thành Phật chăng?

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Có con gái của vua rồng Ta-kiệt-la mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào Thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát-na phát tâm Bồ-đề được bậc Bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến Bồ-đề.

Trí Tích Bồ-tát nói rằng:

- Tôi thấy đức Thích-ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từng có lúc thôi dứt, ta xem trong cõi tam thiên đại thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hột cải, mà không phải là chỗ của Bồ-tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh, vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề. Chẳng tin Long nữ đó ở trong khoảng giây lát chứng thành bậc Chánh giác.

Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long vương bỗng hiện ra nơi trước, đầu mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:

Thấu rõ tướng tội phước
Khắp soi cả mười phương
Pháp thân tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướng
Dùng tám mươi món tốt
Để trang nghiêm Pháp thân
Trời, người đều kính ngưỡng
Long thần thảy cung kính
Tất cả loài chúng sanh
Không ai chẳng tôn phụng
Lại nghe thành Bồ-đề
Chỉ Phật nên chứng biết
Tôi nói pháp Đại thừa
Độ thoát khổ chúng sanh.

GIẢNG:

Ở đây không những nam tử được Bồ-tát Văn-thù giáo hóa cho thành Phật, mà hàng nữ nhi như Long nữ cũng được độ thành Phật. Long nữ chẳng những mang thân nữ lại còn là loài rồng mới có tám tuổi, mà nói thành Phật thì Bồ-tát Trí Tích không tin. Tại sao? Vì Trí Tích là trí do huân tập. Bởi do huân tập được, nên chỉ biết tu mà được thành Phật. Thành Phật là phải trải qua vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo, như lời Phật Thích-ca kể lại tiền thân của Ngài. Bây giờ nói Long nữ, vừa là nữ, vừa là thú, vừa là nhỏ mà thành Phật, thì làm sao tin được? Nên với Bồ-tát Trí Tích, Ngài không thể tin. Còn Bồ-tát Văn-thù là Căn bản trí, biết rõ tất cả chúng sanh đều có sẵn Tri kiến Phật, nếu căn tánh lanh lợi khi được khai thị, tin nhận và hằng sống với Tri kiến Phậtthành Phật, bất luận là nam hay nữ, lớn hay nhỏ, người hay thú.

CHÁNH VĂN:

7.- Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nói với Long nữ rằng:

- Người nói không bao lâu chứng được đạo Vô thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ uế chẳng phải là pháp khí, thế nào có thể được thành Vô thượng Chánh giác? Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm thiên vương; hai, chẳng được làm Đế Thích; ba, chẳng được làm Ma vương; bốn, chẳng được làm Chuyển Luân Thánh vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?

Lúc đó, Long nữ có một hột châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên đem dưng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Trí Tích Bồ-tát cùng Tôn giả Xá-lợi-phất rằng:

- Tôi hiến châu báu, đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?

Đáp:

- Rất mau.

Long nữ nói:

- Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.

Đương lúc đó cả chúng hội đều thấy Long nữ thoạt nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô cấu ở phương Nam ngồi tòa sen báu thành bậc Đẳng chánh giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúng sanh trong mười phương mà diễn nói pháp mầu.

Khi ấy, trong cõi Ta-bà hàng Bồ-tát, Thanh văn, trời, rồng, bát bộ, nhân cùng phi nhân đều xa thấy Long nữ thành Phật khắp vì hàng nhân thiên trong hội đó mà nói pháp, sanh lòng vui mừng đều xa kính lạy, vô lượng chúng sanh nghe pháp tỏ ngộ được bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh được lãnh lời thọ ký thành Phật. Cõi Vô cấu sáu điệu vang động, cõi Ta-bà ba nghìn chúng sanh trụ bậc Bất thối, ba nghìn chúng sanh phát lòng Bồ-đề mà được lãnh lời thọ ký.

Trí Tích Bồ-tát và ngài Xá-lợi-phất tất cả trong chúng hội yên lặng mà tin nhận đó.

GIẢNG:

Không riêng gì Bồ-tát Trí Tích không tin Long nữ sẽ thành Phật mà cả Tôn giả Xá-lợi-phất cũng không tin. Ngài nêu lên năm điều mà nữ giới không thể làm được, là Phạm thiên vương, Đế Thích, Ma vương, Chuyển Luân Thánh vương, Phật. Thông thường những người tu hànhliên hệ tình cảm với phái nữ, nửa chừng cởi áo tu ra đời thì bấy giờ người nữ ấy bị coi như ma nữ, phá hại người tu hành. Ở đây nói nữ giới không thể làm Phạm thiên, Đế Thích, Chuyển Luân Thánh vương, cho đến Ma vương cũng không làm được. Tại sao chê phái nữ quá vậy? Như trước đã nói, tuy Tôn giả Xá-lợi-phất đã được thọ ký, nhưng Ngài còn quen cái nhìn theo nghiệp tướng, thấy người nữ nghiệp nặng hơn người nam, nên không thể làm Phạm thiên, Đế Thích... Vì nhìn trên nghiệp tướng nên thấy người nữ khó tu hơn người nam.

Long nữ dâng hạt châu lên Phật để cúng dường, có nghĩa là trình sự tin nhận Tri kiến Phật. Giống như trình sở ngộ để Phật Tổ ấn chứng cho chỗ tin, thấy của mình là không sai. Việc thành Phật của Long nữ nhanh hơn việc dâng châu lên Phật.

Bấy giờ trong chúng hội đều thấy Long nữ thoạt biến thành nam tử đầy đủ công hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô cấu thành Phật thuyết pháp. Ngài Trí Tích thuộc hàng Bồ-tát, Tôn giả Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn, cả hai đều là bậc trí tuệ. Nhưng trí tuệ của hai Ngài do huân tập, còn hạn cuộc trong vòng tương đối nên còn thấy theo nghiệp tướng, vì vậy mà không thể tin Long nữ thành Phật. Căn cứ trên nghiệp tướng thì thân nam nữsai biệt, nhưng Tri kiến Phật sẵn có nơi mỗi người thì không khác. Hơn nữa Tri kiến Phật không có nam nữ đối đãi, vì không có nam nữ đối đãi nên ai nhận ra Tri kiến Phật thì thành Phật, bất luận nam hay nữ, không nhận được thì không thành Phật.

Phẩm này nêu lên hai đặc điểm:

- Thứ nhất là bình đẳng giữa thiện và ác, kẻ ác người thiện ai cũng có Tri kiến Phật như nhau. Dù ác dù thiện một phen nhận ra Tri kiến Phật của chính mình thì thành Phật. Chẳng hạn đồ tể Quảng Ngạch ngộ được lý đạo liền nói: “Hôm qua tâm dạ-xoa, ngày nay mặt Bồ-tát, dạ-xoa và Bồ-tát, chỉ cách một đường tơ.” Ở đây Phật thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa thành Phật là để nói kẻ ác phạm tội ngũ nghịch như Đề-bà-đạt-đa vẫn có Tri kiến Phật, nếu thức tỉnh tu hành thì cũng thành Phật.

- Thứ hai là bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người và thú, người nam hay người nữ, kể cả súc sanh đều có Tri kiến Phật. Vì vậy mà Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài sẽ thành Phật.” Đó là để nói lên ý nghĩa này. Ai ai cũng có Tri kiến Phật, nhưng vì quên nên không nhận, vì vậy mà cứ luân hồi mãi trong sáu đường. Nếu nhận ra thì thành Phật, nên ở đây Long nữ khi nghe kinh Pháp Hoa liền tin nhận và thành Phật.

- Phẩm kinh này dạy cho chúng ta một lối nhìn bình đẳng, dù là người thiện hay ác, đều thấy như nhau, đối với người ác, không khinh thường, không ác cảm, dù là người nam hay nữ cũng thấy như nhau, vì ai ai cũng có Tri kiến Phật. Dù là người hay thú, tất cả đều có Tri kiến Phật nên không nỡ hại nhau. Nếu tin nhận được thì công đức vô lượng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12573)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52112)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10586)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7004)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16113)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13695)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9119)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11940)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11404)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14855)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20533)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20151)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17463)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant