Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

An bình mảnh đất tâm

29 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 23549)
An bình mảnh đất tâm

AN BÌNH MẢNH ĐẤT TÂM
Đức Pháp Vương đời thứ XII khai thị
Nguồn: www.drukpa.org
Thứ bảy ngày 25 tháng 6 năm 2011

blankChắc hẳn các bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy trong bức hình này tôi bỗng nhiên trông như trẻ hẳn ra. Một vài người trong các bạn có thể nghĩ “Ồ, chắc Ngài đã phẫu thuật chỉnh hình, thảo nào mà lâu rồi không thấy Ngài xuất hiện.” Tôi ước mình có thể làm gì đó để quay ngược đồng hồ, nhưng thời gian khi đã mất đi sẽ chẳng bao giờ lấy lại được. Tôi vừa dọn dẹp phòng học và tìm thấy một cái đĩa cũ trong đó có nhiều ảnh do các bạn hữu và học trò của tôi chụp trước kia. Tôi đã xem lại những hình ảnh suốt từ những năm 80 cho tới tận gần đây. Đây quả thực là một bài pháp vĩ đại về cõi luân hồi, một lời nhắc nhở tuyệt vời về cuộc sống quý giá cần được dùng cho những mục đích cao cả hơn là lãng phí vì những điều vô nghĩa, như chạy theo những ham muốn không giới hạn, những giấc mơ không hồi kết và không mục đích của chúng ta trong luân hồi.

Đa phần chúng ta thường nghĩ rằng vô thường còn xa lắm, giác ngộ rất khó đạt được, bất cứ điều gì có thể mang lại cho chúng ta một cơ hội hy hữu được chứng ngộ tự tính tâm đều không thể với tới và không thể thực hiện trong đời này. Thậm chí có người trong chúng ta cho rằng sự giác ngộ tâm linh đồng nghĩa với việc trở thành giống như một bức tượng hoặc không có mục tiêu gì hữu ích cả. Một số người trong chúng ta còn nghĩ rằng vì điều đó không thể nào đạt được, nên tại sao không trầm mình trong luân hồi nhỉ, sao không đón nhận lấy các pháp thế gian, sao không lãng quên giác ngộ, quên đi cái chết, thậm chí quên đi cả thời khắc chúng ta cảm thấy xiết bao thiết tha và xúc động khi phát nguyện quy y, khi chúng ta được lần đầu hạnh ngộ với bậc thầy tôn quý hoặc những quãng thời gian quý báu cùng chia sẻ niềm an vui hiểu biết cảm thông với những đạo hữugia đình tâm linh của chúng ta. Tất cả những xúc cảm tốt đẹptích cực ấy đều tan biến sau một thời gian đầu đến với đạo pháp tâm linh.

Thay vào đó, chúng ta thường để cho tâm mình bị cuốn đi bởi những suy nghĩ tiêu cực, những lời nói và hành động của chúng ta cũng nhuốm màu tiêu cực. Điều đáng buồn nhất là khi chúng ta nảy sinh xích mích với đạo hữu tâm linh, bất kể là giấu giếm hay công khai. Nét đẹp của sự hiểu biết cảm thông, khoan dung, rộng lượngvị tha không những mai một dần mà có khi còn hoàn toàn biến mất. Có những người còn trở nên xét nét, phán xử hơn đối với những người xung quanh kể từ khi bước chân vào môi trường giáo pháp, thay vì sách tấn khích lệ những người mới bước chân vào đạo pháp, họ lại nhân danh tâm linh hay Giáo Pháp, reo rắc ngờ vực, nghi báng và mê tín. Chính do vậy mà thời gian của chúng ta bị phí hoài và những nhân lành cho giác ngộ tâm linh của chúng ta từ từ bị hủy diệt.

Chúng ta cần thường xuyên soi xét tâm niệm và động cơ của chính mình, nếu tâm niệm và động cơ của chúng ta tích cực thì nguồn năng lượng chúng ta truyền tới những người xung quanh cũng sẽ tích cực. Nghi báng là nguyên nhân số một sẽ hủy diệt động cơ tốt đẹp cũng như mong muốn trở thành người tốt trong chúng ta, cũng là nguyên nhân số một hủy diệt mối quan hệ tốt đẹp của chúng ta với người khác. Lẽ đương nhiên, mỗi chúng ta đều có xuất thân khác nhau và nhờ có nhân duyên với nhau nên chúng ta cùng hội ngộ trong một đại gia đình tâm linh. Bởi đã có nhân duyên lớn được hạnh ngộ nhau, chúng ta cần biết nương tựa và sách tấn lẫn nhau. Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau và cùng bước đi trong tình cảm nồng ấm, chân thành và tràn đầy hiểu biết sẻ chia. Chẳng điều gì là không thể, trừ khi bản thân chúng ta nghĩ rằng mọi việc đều không thể làm được.

Mỗi người cần trung thựcthành thật với bản thân, hay với lương tâm của chính mình. Gần đây tôi nghe có người nói rằng họ dành trọn cuộc đời cho sự thực hành tâm linh, bất cứ điều gì họ làm đều vì lợi ích chúng sinh. Tôi rất muốn vỗ tay thật lớn khi nghe những người này, bởi lẽ để thực hiện được điều này trong mỗi giây phút của đời sống chẳng phải việc dễ dàng. Những khi nhìn vào những việc họ làm, mọi việc họ làm ra đều gây nhiều tổn thươngđau khổ cho người khác, đôi khi họ làm những việc đó nhân danh Giáo Pháp, nhân danh tâm linh. Sự thực hành tâm linh vốn là sự rèn luyện tâm mình, đó chính là sự tôi luyện bản thân bạn từ bên trong, chứ không phải là rèn rũa người khác, và điều đó cũng chẳng liên can gì tới chuyện bạn hiểu biết được bao nhiêu nếu xét từ phương diện tri thức. Thực tế thì rèn luyện đạo tâm nghĩa là bạn có thể mở rộng nội tâm mình được bao nhiêu, để cái “Tôi” có thể ngày càng trở nên nhỏ bé hơn cho tới khi hòa nhập vào hư không vô tận. Nếu bạn vẫn còn khái niệm về “Tôi” và “người khác” thì bạn sẽ không thể ngừng soi xét những lỗi lầm khiếm khuyết nơi người khác, và như vậy bạn sẽ còn cần tự rèn luyện rất nhiều. Bạn vẫn còn chưa tiến được mấy trên con đường đầy chông gai bên trong chính bạn.

Con đường tâm linh chính là sự tự hoàn thiện bản thân. Ban đầu, bạn cần phải thực sự thấu hiểu thông qua sự trải nghiệm chân thật rằng mang lại hạnh phúc cho người khác sẽ khiến bạn trở nên hạnh phúc, hiểu được điều này bằng trải nghiệm chứ không phải chỉ từ sự hiểu biết bằng lý thuyết đơn thuần sẽ giúp bạn trở nên hoàn thiện hơn và khiến cho con đường đầy chướng ngại trong chính bạn trở nên bằng phẳng hơn. Mỗi ngày bạn cố gắng trở nên thân thiện, nhã nhặn hơn một chút với người khác, chính bạn sẽ trở thành một người tốt hơn, từng bước một, từng chút một, đây sẽ là một sự thực hành hữu hiệu trong suốt cả một quá trình dài, và bạn cần phải liên tục tự trau dồi bản thân như vậy. Đây cũng là pháp thực hành giúp cho tâm bạn luôn tỉnh thức trong mọi thời khắc của hiện tại, và chính là cách bạn làm cho con đường trở nên trơn tru hơn, dễ đi hơn trong chính nội tâm mình.

Vậy là chỉ một tập ảnh đã khiến cho tôi viết được nhiều như thế đấy. Sắp tới tôi sẽ đi Ladakh, có thể là bất cứ lúc nào. Nhờ vào những công nghệ hiện đại, tôi có thể viết trước rất nhiều bài viết và chúng sẽ được tự động gửi đi hàng tuần hoặc hai tuần một lần. Có thể bạn sẽ ngạc nhiên vì có những bài viết chẳng liên quan gì mấy tới những gì đang diễn ra vào thời điểm chúng được gửi đi. Song tôi hy vọng rằng những bài viết này sẽ giúp bạn được đọc thường xuyên hơn, do có quá nhiều người cứ giục giã tôi cần viết nhiều thêm và đăng tin thường xuyên hơn. Cho dù tôi biết những người phải chuyển dịch các bài viết của tôi sang nhiều thứ tiếng có lẽ cảm thấy khổ sở khi nhìn thấy một bài viết dài lại được đăng lên, biết làm sao được, thật khó có thể chiều lòng hết mọi người. Họ đã có duyên lành được là người chuyển dịch và chia sẻ những câu chuyện phiếm đàm này, giúp mang lại cho độc giả niềm an vui. Chúng ta hãy tri ân những người dịch bài!

Tôi ước giá trước kia mình được tới trường và học tiếng Anh, như vậy tôi sẽ không mất quá nhiều thời gian để viết xong vài khổ chữ. Thế nhưng tôi đã chẳng có được cơ may đó và giờ thì tôi đã khá lớn tuổi rồi, vì vậy tốt nhất các bạn đành chấp nhận những gì đọc được ở đây nhé. Tôi xin lỗi vì cũng chẳng còn lựa chọn nào khác, ha ha!

Có thể nói Ladakh là một trong những quê hương yêu dấu của tôi. Nơi đây luôn chứa chan ân phúc gia trì và tràn đầy cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Theo lịch sử, kinh điển ghi chép rằng những đời hóa thân trước của tôi đã từng sống rất nhiều năm ở Ladakh, dường như từ tận thời Đức Naropa. Nếu giờ bạn hỏi liệu tôi còn có thể nhớ được không, chắc chắn tôi sẽ trả lời rằng cảm giác thân quen và đầm ấm rõ ràng đến mức khó lòng có thể không tin rằng tôi đã từng sống ở Ladakh và từng yêu mến Ladakh qua rất nhiều thời đại.

Tôi muốn cảm ơn hết thảy mọi người ở Ladakh, nhân và phi nhân, vì đã khiến cho nơi này trở nên vô cùng đặc biệt. Tất cả chúng ta cần cùng nhau gìn giữ nơi này, chúng ta cần gửi tới những bạn bè và gia đình tâm linh nơi đây nhiều sự tương trợ cả về mặt tinh thầnvật chất. Đó chính là những lý do chính khiến chúng ta tổ chức Hội đồng thường niên lần thứ 3 tại Ladakh. Tôi muốn cảm ơn mọi cá nhân và tổ chức đã trợ giúp cho kỳ Pháp hội ADC lần thứ 3 sắp tới tại Ladakh. Nếu vì một lý do nào đó mà bạn không thấy có bài viết mới nào đăng trên trang web của tôi, điều đó có nghĩa là những bài viết sắp mà tôi đã mất rất nhiều thời gian để chuẩn bị có lẽ bị ách lại nơi nào đó ở đây. Dù sao chúng ta cũng sẽ sớm gặp lại nhau tại Ladakh! Mỗi sự kết nối mà chúng ta có được tại Ladakh chắc chắn sẽ vô cùng quý báu bởi sẽ tạo nhân duyên để chúng ta còn gặp lại nhau thêm nhiều lần nữa trong vị lai!

(Hình minh họa trên chụp năm 1992 tại Tịnh thất Gotsang)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 136)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 192)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 282)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 243)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 278)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 260)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 292)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 372)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 604)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 461)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 479)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 572)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 830)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 852)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 709)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 712)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 936)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 610)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 707)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 823)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 707)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 822)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 824)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 885)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1658)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1065)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1210)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1277)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1553)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2028)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1094)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1096)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 946)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1063)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1094)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1531)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1282)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant