Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Em phải gấp lên để hiểu rõ

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6831)
19. Em phải gấp lên để hiểu rõ

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

19

Em phải gấp lên để hiểu rõ

T

háng tư năm 1983, K đi đến New York lại, lần này thực hiện những nói chuyện tại Felt Forum ở Madison Square Garden mà chứa được một lượng khán giả thậm chí còn đông hơn cả Carnegie Hall. Hai phóng viên phỏng vấn anh cho tờ East West Journal phê bình: ‘Chúng tôi gặp một con người rụt rèlễ phép nhưng dường như có sự kiên nhẫn vô hạn, tuy nhiên cùng lúc lại bày tỏ một mãnh liệt và một ý thức của sứ mệnh . . . Sự rõ ràng và những giải thích sâu sắc của anh làm chúng tôi khựng lại nhiều lần, để lại cho chúng tôi một cảm giác rằng đây là một con người tự do thực sự mà, không cần cố gắng, đã đạt được cái gì mà tôi cảm thấy là một loại nổi loạn tinh thần – một tầm nhìn thiêng liêngđạo đức nghiêm túc, tuyệt đối độc lập khỏi những tôn giáo và những học thuyết chính thống.’

 Tiếp theo những nói chuyện ở New York, tại họp mặt Ojai, một cuộn phim màu trọn bộ về sống của K được chiếu, mà Evelyne Blau, một trong những ủy viên của American Foundation, phải mất năm năm để thực hiện. Được gọi là The Challenge of Change Sự thách thức của Thay đổi và được đạo diễn bởi Michael Mendizza, lời đọc bởi diễn viên Mỹ Richard Chamberlain, K ngồi xem hết cuộn phim, cái gì đó hiếm hoi với anh, bởi vì anh chưa bao giờ muốn xem anh trên truyền hình hay nghe những phỏng vấn phát thanh của anh cũng như đọc bất kỳ quyển sách riêng nào của anh. Rõ ràng anh thích cuộn phim này, cùng những cảnh quay đẹp về Thụy sĩ và Ấn độ của nó. Nó đã có những lần chiếu rất thành công trong nhiều thành phố khác nhau ở Mỹ.

 Ngay sau khi K và Mary đến Brockwood vào tháng sáu, Dorothy Simmons bị đau tim đột ngột. Mặc dù bà hồi phục, bà không còn có thể đảm đương toàn gánh nặng của ngôi trường như bà đã làm thật xuất sắc suốt mười bốn năm. Bà về hưu, nhưng tiếp tục sống tại Brockwood cùng người chồng của bà, mà chính ông ấy cũng về hưu sớm hơn vài năm.[1] Cuối cùng, một người Mỹ còn trẻ, Scott Forbes, kết hôn với một cô gái từ South Africa dạy múa ở trường, được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng mới. Một con người năng động trẻ tuổi đã làm việc tại Brockwood khoảng mười năm, hầu như đảm trách phần video (bây giờ đã có dụng cụ màu), Scott đi rất nhiều, đã sống một khoảng thời gian ở Paris và có một công việc kinh doanh bán đồ cổ nhỏ ở Geneva trước khi bất ngờ gặp K khi anh, do tình cờ, đến Saanen vào một mùa hè. Anh ấy đã lắng nghe một nói chuyện và bị say đắm. Trong khi làm việc cho K, anh hoàn toàn thay đổi cách sống, và vẫn còn giữ nguyên sức làm việc của anh. Người vợ của anh đảm trách phần video sau khi anh được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng.

 Vẫn còn tại Gstaad, sau họp mặt Saanen 1983, K sẽ gặp một người mà giúp anh thành tựu ước nguyện được ấp ủ nhiều nhất của anh vào lúc này – thành lập một trung tâm người lớn tại Brockwood, hoàn toàn độc lập khỏi ngôi trường, nơi mọi người có thể đi đến cho mục đích duy nhấthọc hỏi lời giảng của anh. Người đàn ông tuổi trung niên này là Friedrich Grohe, một người Đức đang sống ở Thụy sĩ, bốn năm trước đã rút lui khỏi việc kinh doanh gia đình, được quốc tế biết đến về việc chế tạo phòng tắm và những vòi khóa nước nhà bếp. Sau khi đọc một trong những quyển sách của K năm 1980 (The Impossible Question Câu hỏi không thể trả lời được) đã khẳng định hướng sống của anh từ thời điểm đó trở đi, dùng những từ ngữ của anh ấy. Anh ấy đến gặp K tại Tannegg bởi vì anh ấy nóng lòng muốn bắt đầu một trường Krishnamurti ở Thụy sĩ. K can ngăn anh ấy đừng nên thực hiện việc này, nói rằng tìm những giáo viên khó khăn lắm. (Khi K hỏi anh ấy đã lập gia đình hay chưa và anh ấy trả lời không, anh ấy đã ly dị, K nắm cánh tay anh ấy và nói ‘Tốt’.)[2] Năm sau, trong một lần thăm Brockwood, Friedrich Grobe đề nghị rằng, thay vì thành lập một ngôi trường, anh ấy tài trợ cho việc xây dựng trung tâm tìm hiểu. K tiếp nhận đầy nhiệt thành đề nghị này. Một vị trí đẹp được chọn lựa, gần nhưng không nhìn thấy được từ tòa nhà của trường học, có thể nhìn thấy suốt những phong cảnh ở phía nam qua những cánh đồng trống. K giao cho Scott Forbes nhiệm vụ tìm một kiến trúc sư và xin giấy phép xây dựng.

 Mùa đông năm1983 – 84 đó, sau một chương trình đầy đủ ở Ấn độ, K quay lại Ojai vào tháng hai, khá kiệt sức, để giải quyết những vấn đề phát sinh từ việc khánh thành một trường trung học tại Ojai, kế cận trường tiểu học Oak Grove. Tháng ba anh được Dr M. R. Raju của National Laboratory Research Center tại Los Alamos ở New Mexico mời tham dự một hội nghị chuyên đề về ‘Sáng tạo trong Khoa học’. Trung tâm nghiên cứu về nguyên tử ở Mỹ này đã tập hợp được một số khán giả mới gây hứng thú cho K. 8 giờ sáng ngày 19 tháng ba, anh nói chuyện trên một tiếng đồng hồ với khoảng 700 người khoa học, về đề tài hiểu biết không bao giờ có thể là sáng tạo bởi vì nó không trọn vẹn. Anh chấm dứt:

 

Chắc chắn sáng tạo có thể xảy ra chỉ khi nào tư tưởng bặt tăm . . . Khoa học là chuyển động của hiểu biết được thâu lượm nhiều hơn và nhiều hơn và nhiều hơn. ‘Nhiều hơn’ là sự đo lường, và tư tưởng có thể được đo lường bởi vì nó là một tiến hành thuộc vật chất. Hiểu biết có sự thấu hiểu riêng của nó, sự sáng tạo bị giới hạn riêng của nó, nhưng điều này tạo ra sự xung đột. Chúng ta đang nói về sự nhận biết tổng thể trong đó cái ngã, cái ‘tôi’, cái nhân cách, không len lỏi vào được. Chỉ đến lúc đó mới có cái sự việc được gọi là sáng tạo này. Đó là nó.

 

Sáng hôm sau K trả lời những câu hỏi cho một số khán giả ít hơn, được giới hạn trong những người bạn của Los Alamos National Laboratory. Trong mười lăm câu hỏi được đưa ra, anh chỉ trả lời câu đầu tiên và cuối cùng. Trả lời cho câu hỏi đầu tiên ‘Sáng tạo là gì? Thiền định là gì?’ đã chiếm hết toàn bộ thời gian cho phép cộng thêm nửa tiếng đồng hồ nữa và đa phần anh lặp lại điều gì anh đã nói ngày hôm trước. Về thiền định anh nói: ‘Thiền định khôngthiền địnhý thức. Điều gì chúng ta đã được dạy là thiền định cố ý, có ý thức; ngồi bắt chéo hai chân hay nằm xuống hay lặp lại những cụm từ nào đó là một nỗ lực cố ý, có ý thức để thiền định. Người nói trả lời rằng thiền định như thế là vô nghĩa. Nó là thành phần của ham muốn. Ham muốn có một cái trí yên tĩnh cũng giống như ham muốn một ngôi nhà sang trọng hay một cái áo đắt tiền. Thiền địnhý thức hủy diệt, ngăn cản hình thức khác của thiền định.’

Câu hỏi cuối là: ‘Nếu ông là Giám đốc của Laboratory có trách nhiệm bảo vệ quốc gianhận biết những sự việc tồn tại theo cách riêng của chúng, làm thế nào ông sẽ điều khiển những hoạt động của Laboratory và công việc nghiên cứu?’ K trả lời điều này trong:

 

Nếu tôi có một nhóm người mà nói, chúng ta hãy quên tất cả chủ nghĩa quốc gia, tất cả tôn giáo, chúng ta hãy, như những con người, giải quyết vấn đề này – cố gắng cùng nhau giải quyết mà không phá hoại, nếu chúng ta trao thời gian cho tất cả điều đó như một nhóm người hiến dâng tuyệt đối mà đã tụ họp tại Los Alamos vì một mục đíchquan tâm đến tất cả những điều chúng ta đã và đang nói, vậy thì có cái gì đó mới mẻ có thể xảy ra . . . Không người nào có tầm nhìn toàn cầu – một cảm thấy toàn cầu cho tất cả nhân loại – không phải quốc gia của tôi – vì Chúa. Nếu các bạn đã đi khắp thế giới, như người nói đã từng đi, các bạn sẽ khóc than cho suốt phần còn lại của cuộc đời các bạn. Chủ nghĩa hòa bình là một phản ứng của chủ nghĩa quân phiệt, đó là tất cả. Người nói không là một người theo chủ nghĩa hòa bình. Thay vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào nguyên nhân của tất cả điều này – nếu tất cả chúng ta cùng nhau tìm kiếm nguyên nhân, vậy thì vấn đề sẽ được giải quyết. Nhưng mỗi người đều có những quan điểm khác nhau về nguyên nhân và bám vào những quan điểm của anh ấy, những hướng dẫn theo lịch sử của anh ấy. Vậy thì, thưa bạn, nó đó kìa.

 

Thành viên của khán giả: Thưa ông, nếu tôi được phép nói như vậy – tôi nghĩ ông đã thuyết phục chúng tôi.

 

Krishnamurti: Tôi không đang thuyết phục bất kỳ điều gì cả.

 

Thành viên của khán giả: Điều gì tôi có ý là, khi chúng tôi thực sự cố gắng hiểu rõ điều này và làm cái gì đó trong phương hướng đó, trong chừng mực nào đó chúng tôi có vẻ không có đủ năng lượng cần thiết . . . Nó là cái gì mà đang thực sự kềm hãm chúng tôi? Chúng tôi có thể thấy ngôi nhà đang cháy, nhưng vẫn vậy chúng tôi không thể làm bất kỳ điều gì để chặn đứng vụ cháy.

 

Krishnamurti: Ngôi nhà đang cháy, mà chúng ta nghĩ nó ở đằng đó, là ở đây. Trước tiên,chúng ta phải đặt ngôi nhà của chúng ta trong trật tự, thưa các bạn.69

 

K thực hiện những nói chuyện tại Felt Forum ở New York vào tháng tư, sau đó anh là một diễn giả khách mời tại Pacern in Terris Society trong Dag Hammarskjold Library Auditorium của Liên hiệp quốc. Vào dịp này anh không nói điều gì khác biệt với những điều anh đã trình bày trong những nói chuyện trước, mặc dù anh không bao giờ lặp lại trong cùng những từ ngữ .70

Khi K đến Brockwood mùa xuân đó, anh trông thấy một máy đĩa compact được lắp đặt trong căn phòng của anh và làm cho anh vui vẻ rất nhiều. Beethoven là người soạn nhạc anh nghe thường xuyên nhất, kế tiếp là Mozart. Nhưng anh thích nhạc cổ điển cũng như nhạc Ấn độ, đặc biệt nhạc thánh ca. Scott Forbes sẽ viết cho tôi sau khi K chết:

 

Trong nhiều năm tôi thường đi lên phòng ngủ của ông (K) trong khi ông đang ăn sáng, cũng là lúc ông nghe nhạc. Ông thường ngồi trong giường với cái khay để trên đùi, và hai bàn chân của ông thường – hầu như không trông thấy – nhảy múa nhịp nhàng theo điệu nhạc dưới cái mền. Và tôi cũng thường nghe một phần bản nhạc ông đang nghe hay, trong những năm sau, nghe nguyên bản nhạc cùng ông. Không phải vì rằng nó là một hệ thống âm thanh nổi tuyệt vời; trái lại, bằng một chất lượng của lắng nghe vượt khỏi điều gì tôi thường quen thuộc và dường như hiện diện tự nhiên khi tôi đang nghe nhạc cùng ông.

 

Rủi thay, bây giờ Chalet Tannegg đã được bán vì vậy nó không thể được thuê cho họp mặt Saanen. Thay vì thế, một chalet tại Schonried ngay phía trên Gstaad, được thuê bởi Scaravelli và Fosca và dành riêng cho K, như Tannegg lúc trước. K không thích nó nhiều bằng Tannegg; anh tiếp tục những dạo bộ buổi chiều thường lệ qua một cánh rừng đến con sông, nhưng lúc này anh phải lái xe đến Tannegg trước khi bắt đầu bạo bộ. Mỗi lần họ đến cánh rừng, anh thường nói to, ‘Xin phép cho chúng tôi vào nhé?’

Tháng chín năm đó, vài ủy viên từ Ấn độ và Mỹ có mặt tại Brockwood cho một gặp gỡ quốc tế. Trong khi K ở Mỹ, Scott Forbes đã tìm được một kiến trúc sư mà lúc này không chỉ có thể đưa ra một đề án mà còn làm một mô hình bởi vì K không thể đọc những đề án kiến trúc. Khi K trông thấy mô hình anh lập tức không thích nó; anh nói nó trông giống như một khách sạn xa lộ. Những ủy viên có mặt ở đó cũng đồng ý với anh. Thay vì tiếp tục làm việc với kiến trúc sư đó, Scott quyết định tìm một người khác. Đặc điểm kỹ thuật là một thách thức cho bất kỳ kiến trúc sư nào muốn rời khỏi ý tưởng thiết kế của một khách sạn xa lộ: hai mươi phòng ngủ nhỏ, mỗi phòng có vòi tắm và rửa mặt riêng, một phòng khách, thư viện, khu làm việc của nhân viên, và nhà bếp, và, còn quan trọng nhiều hơn mọi thứ khác, một phòng ‘yên lặng’. K đã viết: ‘Nên có một phòng nơi bạn đến để yên lặng. Phòng đó chỉ được sử dụng cho việc đó . . . Nó giống như một lò sưởi làm ấm áp nguyên một ngôi nhà . . . Nếu bạn không thể có nó, Trung tâm chỉ trở thành một đoạn đường, mọi người đến và đi, làm việc và hoạt động.’ K quả quyết rằng tất cả vật liệu được sử dụng cho tòa nhà phải thuộc chất lượng tốt nhất; anh muốn mọi nơi phải đạt tiêu chuẩn hoàn hảo nhất.

 Sau khi thử qua nhiều kiến trúc sư, tình cờ khi đọc một bài báo Scott Forbes biết được Keith Crichlow. Không một tòa nhà nào do ông xây dựng có mặt ở nước Anh nhưng ông đưa cho Scott xem những bức ảnh về những công trình của ông ở nước ngoài, mà đa phần là những tòa nhà tôn giáo. Tháng sáu năm sau, Critchlow được mời đến Brockwood để gặp K, mà ngay tức khắc cảm thấy rằng ông là người đúng – do bởi nhân cách và nói chuyện của ông nhiều hơn là những bản vẽ của ông. Mặc dù là một người Anh và một thành viên của Royal College of Art, nơi ông dạy, Critchlow không đủ điều kiện để làm việc ở Anh, vì vậy công ty Triad ở Anh được sử dụng để thực hiện những đề án của ông.

 Một đơn xin phép xây dựng bị từ chối vào tháng hai năm 1985. Vào tháng ba, trong phiên tòa kháng án, người ta phát hiện đơn xin đó bị sai nguyên tắc, nên cả đơn xin lẫn đơn kiện đều vô giá trị. Vì vậy, một đơn xin khác được thực hiện vào tháng năm và được cấp giấy phép vào tháng tám, nhưng mãi đến ngày 26 tháng hai năm 1986 đơn xin chi tiết mới được chấp thuận.

 Mùa thu năm 1984, Mary Zimbalist phải đi từ Brockwood đến Rome trong hai đêm để gặp một bảo mẫu già người Ý lúc trước làm việc cho chị tại Malibu. Khi chị quay lại, K nói với chị: ‘Khi em đi khỏi anh phải xoay sở mọi việc rất khó khăn. Em phải gấp lên để hiểu rõ. Anh có lẽ sống mười năm nữa nhưng em phải hiểu rõ.’ Tại thời gian đó anh thường xuyên nói với chị, ‘Em phải phác thảo những nét chính về anh với mục đích chăm sóc con người này,’ hàm ý hoàn toàn khách quan đối với chính anh. Lúc này tự nhiên anh cảm thấy một khẩn cấp mãnh liệt phải chuyển sang và giáo dục những người trẻ để tiếp tục sau khi anh chết.

 K cùng Mary Zimbalist đến Delhi vào ngày 28 tháng mười năm 1984, ở với Pupul Jayakar một tuần lễ. Ba ngày sau Mrs Gandhi, sống cùng con đường, bị ám sát. Biến cố kinh hoàng này tác động vào những ngày còn lại của K ở Ấn độ mùa đông đó, mặc dù nó không cản trở anh thực hiện những nói chuyện thường lệ của anh tại Rajghat, Madras và Bombay, cũng như nói chuyện mỗi ngày cùng giáo viên và học sinh tại Rishi Valley suốt ba tuần anh ở đó. Như thói quen của anh, anh ghé lại Brockwood bốn ngày vào tháng hai năm 1985 trong chuyến đi từ Bombay đến Ojai.

Khi anh tiếp tục đi máy bay đến Los Angeles vào ngày 17 tháng hai anh chỉ còn một năm để sống đến ngày cuối cùng.

Tháng ba anh khám sức khỏe tổng quát hàng năm nơi một bác sĩ trẻ tuổi mới ra nghề. Một người bạn của Mary đã giới thiệu người bác sĩ này khi bác sĩ trước của K ở Los Angeles khuyên anh nên tìm một bác sĩ gần Ojai hơn. K chấp thuận bác sĩ này ngay tức khắc. Đây là người bác sĩ sẽ theo sát anh đến căn bệnh cuối cùng của anh.



[1] Montague Simmons chết năm 1986, và Dorothy năm 1989. Doris Pratt cũng chết năm 1989.

[2] Friedrich Grobe cuối cùng đã trở thành ủy viên của cả English và American Foundations


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3882)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3061)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 6864)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5579)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 3885)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3046)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12004)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5109)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3825)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9096)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7316)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27052)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 5864)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5583)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6095)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5566)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5439)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7740)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4743)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12009)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21802)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6466)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7411)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6689)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6268)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8524)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6045)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5687)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14167)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20173)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 6847)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6818)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6381)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6473)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6001)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7394)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7360)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8487)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6452)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6843)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10457)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 19776)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30162)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16162)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19564)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11038)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14286)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7736)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10458)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 7914)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant